Tiểu luận Tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân của Hồ Chí Minh

Ở Pháp, Đảng chính trị với đúng ý nghĩa của nó xuất hiện từ đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên hoạt động chính trị, ảnh hưởng của chúng trên các hệ thống thông tin đại chúng cũng như khả năng huy động lực lượng Đảng viên là tương đối yếu. Người Pháp không thích Đảng lắm, theo một điều tra của SOFRES vào 9/1983, 13% người được phỏng vấn hy vọng rằng “trong tương lai, các Đảng sẽ có vị trí quan trọng hơn”, 39% cho rằng “chúng nên giữ vai trò giống như hiện tại” và 31% cho rằng “chúng nên có vai trò khiêm tốn hơn”. Hiến pháp thể hiện vai trò của Đảng cũng chỉ được quy định tương đối hạn chế, chỉ là “góp sức vào việc thể hiện ý chí của số đông dân chúng”. Dù theo luật ngày 01/7/1901, các Đảng chính trị được hưởng cùng quy chế với các Hiệp hội, và để hoạt động nó chỉ cần đăng ký tên và điều lệ, nhưng phải đến thời đệ ngũ Cộng hòa, các Đảng mới được hưởng một quy chế xứng đáng.

doc13 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3084 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân của Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ: Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân với tư cách là chủ thể quyền lực nhà nước được hiểu là toàn thể nhân dân chỉ trừ bọn phản quốc hại dân. Người viết: Chính phủ này là Chính phủ toàn quốc, có đủ nhân tài Trung, Nam, Bắc tham gia. Xuất phát từ yêu thương quý trọng nhân dân, Người thấy rõ nguồn sức mạnh vô tận của khối đại đoàn kết dân tộc, mọi mưu đồ đề cao lợi ích vị kỷ của một bộ phận người đi ra ngoài con đường của cả dân tộc hoặc sẽ bị đào thải, hoặc sẽ làm tổn hại đến khối đại đoàn kết mà kết quả đều làm cho đất nước lâm nguy. Người chỉ rõ, phải thực hiện cho được khối đại đoàn kết dân tộc. Chỉ có thế, nhân dân mới có đủ sức mạnh để giành, giữ và thực thi quyền lực của mình, trong đó có quyền lực nhà nước. Hồ Chí Minh cho rằng, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân gắn liền với việc nhà nước phải làm tất cả để đem lại một cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân. Xuất phát từ tư tưởng nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh được phát triển thành nhân dân là chủ thể của nhà nước. Vì thế, việc nhận thức tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước phải được đặt trên cơ sở coi vấn đề nhà nước là một khía cạnh trong tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ. Nhà nước, theo Người, là của nhân dân "Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ, đó là do tính chất Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân. Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội"(5). Nhân dân sử dụng Nhà nước như một công cụ để thực hiện lợi ích của mình: đối với nhân dân, thì công cụ của nhà nước dân chủ mới (Chính phủ, pháp luật, công an, quân đội, v.v..) là để giữ gìn quyền lợi của nhân dân. Khi bàn về vai trò của Nhà nước, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm về nhân dân quản lý nhà nước. Điều đáng lưu ý là, việc nhà nước tiến hành các hoạt động nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân, thì đồng thời, đó cũng chính là nhằm tạo điều kiện để nhân dân có thể tham gia quản lý nhà nước. Người viết: "... chỉ có chế độ của chúng ta mới thật sự phục vụ lợi ích của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, bảo đảm mọi quyền lợi của nhân dân, mở rộng dân chủ để nhân dân thật sự tham gia quản lý Nhà nước. Vì vậy cho nên nhân dân ta đưa hết khả năng làm tròn nhiệm vụ người chủ nước nhà để xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho nước ta mạnh, dân ta giàu"(6). Tư tưởng quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân của Hồ Chí Minh còn thể hiện trên mấy phương diện sau: Thứ nhất, về pháp luật, Người viết: Pháp luật của chúng ta hiện nay bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động. Pháp luật của ta lúc này, chưa tước bỏ quyền tư hữu, nhưng không ai được lợi dụng quyền tư hữu để bóc lột thậm tệ nhân dân lao động. Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Người khẳng định, "Phép luật là phép luật của nhân dân, dùng để ngăn cản những hành động có hại cho nhân dân, để bảo vệ lợi ích chung của đại đa số nhân dân"(7). Vì vậy, để có một "chính quyền trong sạch", phải kiên quyết trừng trị những kẻ lợi dụng việc được nhân dân giao quyền, rồi cậy quyền cậy thế đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cương quyết xử lý một số cán bộ cao cấp của Nhà nước vi phạm pháp luật và Người luôn nhắc nhở: Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lỗi lầm trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung. Thứ hai, về tổ chức bộ máy nhà nước, Hồ Chí Minh nhiều lần nêu ra quan điểm về ba bộ phận cấu thành quan trọng của Nhà nước, đó là cơ quan lập pháp - Quốc hội; cơ quan hành pháp - Chính phủ và cơ quan tư pháp - Tòa án. Trong đó, Người nói đến Chính phủ nhiều nhất và cũng chính ở đây chứa đựng nhiều quan điểm có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận và thực tiễn. Người viết: "Chính phủ ta là chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là người đày tớ trung thành tận tụy của nhân dân"(8). Người khẳng định: "Chế độ của ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đày tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân. Vì vậy, nhân dân lại có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ, theo đúng kỷ luật của Chính phủ và làm đúng chính sách của Chính phủ, để Chính phủ làm tròn phận sự mà nhân dân đã giao phó cho"(9). Kế thừa những giá trị trong tư tưởng chính trị truyền thống của dân tộc, lại được soi sáng bởi quan điểm duy của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh thấy ở nhân dân một lực lượng vô tận. Trong tư tưởng về nhà nước, nhân dân chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng. Hồ Chí Minh tin tưởng vào sức mạnh to lớn của nhân dân, sức mạnh ấy một khi được tập hợp, tổ chức, định hướng sẽ tạo nên những kỳ tích to lớn, có thể làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt lịch sử. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh niềm tin ấy của Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn. Cái quan trọng nhất trong chính trị là vấn đề thiết chế chính quyền nhà nước. Quyền lực chính trị là vấn đề trung tâm của mọi cuộc cách mạng xã hội. Ở Hồ Chí Minh, nhà nước là nhà nước của dân, do dân và vì dân; quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Như thế, với Hồ Chí Minh, Nhà nước không bao giờ đứng ngoài và đứng trên nhân dân. Gắn chính trị với lòng dân cũng có nghĩa là Hồ Chí Minh đã gắn chính trị với cơ sở xã hội sâu xa và bền vững của nó. Một quan niệm "đem chính trị vào giữa dân gian" như tư tưởng của Người là một quan niệm chính trị dân chủ về bản chất. Đã quan niệm chính trị như thế thì nhà chính trị nói riêng, nhà nước nói chung trở nên đầy sức mạnh bởi họ đang suy nghĩ bằng suy nghĩ của nhân dân, làm bằng phương thức nhân dân và nói tiếng nói của nhân dân. Họ sẽ có đủ bản lĩnh đương đầu với mọi khó khăn mà luôn chắc chắn một niềm tin vào chiến thắng. Quan điểm chính trị nhân dân ở Hồ Chí Minh gắn liền với việc làm cho người dân có đủ khả năng đảm nhận vai trò làm chủ của mình. Người đặc biệt coi trọng việc giáo dục nhân dân. Ngay khi Nhà nước ta mới ra đời, Người khẳng định: Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Người đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Người cũng yêu cầu nhân dân: Mọi người Việt Nam phải biết quyền lợi của mình, phải có kiến thức để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà. Hồ Chí Minh yêu cầu người dân trước hết phải biết đọc, biết viết để có thể tham gia vào công việc nhà nước. Điều này có nghĩa là, người dân muốn thực hiện vai trò làm chủ của mình, muốn thực hiện quyền lực cao quý của mình cần phải có những năng lực nhất định và Nhà nước phải làm sao để nhân dân có được những năng lực ấy. Như vậy, trên cơ sở vận dụng học thuyết Mác - Lê-nin về nhà nước vào điều kiện cụ thể của cách mạng và xã hội Việt Nam, đặc biệt là, trên cơ sở nghiên cứu và tổng kết thực tiễn xây dựng chính quyền nhân dân, xây dựng chế độ xã hội mới, Hồ Chí Minh đã nêu ra một hệ thống các quan điểm về nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Đây thực sự là những chỉ dẫn quý báu cả về lý luận và thực tiễn đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. * Phó Chủ nhiệm Bộ môn Khoa học quản lý, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t 2, tr 270 (2) Hồ Chí Minh: Sđd, t 7, tr 218 - 219 (3) Hồ Chí Minh: Sđd, t 8, tr 279 - 280 (4) Hồ Chí Minh: Sđd, t 7, tr 216 - 217 (5), (6) Hồ Chí Minh: Sđd, t 9, tr 592, tr 593 (7) Hồ Chí Minh: Sđd, t 7, tr 453 (8) Hồ Chí Minh: Sđd, t 7, tr 361 - 362 (9) Hồ Chí Minh: Sđd, t 7, tr 368 Vai trò các Đảng chính trị nói chung, Đảng cầm quyền nói riêng đối với nhà nước trong Chủ nghĩa tư bản hiện đại (Qua khảo sát một số mô hình tiêu biểu) (NGUYỄN XUÂN TẾ – ĐẶNG ĐÌNH THÀNH). ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ KHPL SỐ 1/2003 VAI TRÒ CÁC ĐẢNG CHÍNH TRỊ NÓI CHUNG, ĐẢNG CẦM QUYỀN NÓI RIÊNG ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI (QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ MÔ HÌNH TIÊU BIỂU) NGUYỄN XUÂN TẾ ĐẶNG ĐÌNH THÀNH Phó giáo sư - Tiến sĩ, trường ĐH Luật TP. HCM Thạc sĩ, trường ĐH Luật TP. HCM I. VỊ TRÍ CỦA CÁC ĐẢNG CHÍNH TRỊ NÓI CHUNG, ĐẢNG CẦM QUYỀN NÓI RIÊNG TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI. Đảng chính trị là một nhân tố hết sức quan trọng trong hệ thống chính trị của các nước tư bản. Nó có vai trò là một trong những thành phần cơ bản của chế độ chính trị, của xã hội công dân hiện đại, có ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị, từ cơ cấu tổ chức đến sự vận hành của hệ thống chính trị. Đây là một tổ chức chính trị phản ánh lợi ích của giai cấp, của tầng lớp xã hội, nó liên kết, lãnh đạo những người đại diện tích cực nhất của tầng lớp hay xã hội đó để cùng thực hiện đạt những mục tiêu và lý tưởng nhất định. Ngày nay, trên thế giới không có quốc gia nào lại không có Đảng chính trị. Hình thức tiền thân của Đảng chính trị là các nhóm chính trị, các câu lạc bộ chính trị… Sự ra đời và phát triển của các Đảng chính trị có liên quan chặt chẽ với quyền tồn tại của các nhóm khác nhau trong xã hội, quyền các nhóm được kiểm soát, chi phối lãnh đạo và hạn chế quyền của Đảng cầm quyền. Chúng phải có tổ chức, phải luôn tìm kiếm sự ủng hộ từ dân chúng và phải khác biệt với các nhóm khác. Ở Pháp, Đảng chính trị với đúng ý nghĩa của nó xuất hiện từ đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên hoạt động chính trị, ảnh hưởng của chúng trên các hệ thống thông tin đại chúng cũng như khả năng huy động lực lượng Đảng viên là tương đối yếu. Người Pháp không thích Đảng lắm, theo một điều tra của SOFRES vào 9/1983, 13% người được phỏng vấn hy vọng rằng “trong tương lai, các Đảng sẽ có vị trí quan trọng hơn”, 39% cho rằng “chúng nên giữ vai trò giống như hiện tại” và 31% cho rằng “chúng nên có vai trò khiêm tốn hơn”. Hiến pháp thể hiện vai trò của Đảng cũng chỉ được quy định tương đối hạn chế, chỉ là “góp sức vào việc thể hiện ý chí của số đông dân chúng”. Dù theo luật ngày 01/7/1901, các Đảng chính trị được hưởng cùng quy chế với các Hiệp hội, và để hoạt động nó chỉ cần đăng ký tên và điều lệ, nhưng phải đến thời đệ ngũ Cộng hòa, các Đảng mới được hưởng một quy chế xứng đáng. Việc người dân lựa chọn bầu Tổng thống (như ở Mỹ) hay người dân bầu hạ nghị sĩ vào Hạ nghị viện (như ở Anh), chính là việc nhân dân lựa chọn một Đảng chính trị làm đại diện cho họ. Đảng chính trị trong Nhà nước Tư bản phải: - Lãnh đạo, điều hành chính quyền Nhà nước, tổ chức giai cấp và các lực lượng chính trị để đấu tranh chính trị. - Bảo vệ lợi ích của đất nước, đảm bảo quyền của công dân và giáo dục công dân. - Tiến hành bầu cử và bảo đảm việc thay đổi chính quyền một cách hoà bình. Chính vì vậy, sự tồn tại của một Đảng chính trị gắn với cuộc đấu tranh giành chính quyền, thỏa mãn những lợi ích của giai cấp, đạt được mục tiêu cuối cùng là trở thành Đảng cầm quyền, và đương nhiên, thành lập Chính phủ để thể hiện ý chí thống trị xã hội của giai cấp mình. Nhiệm vụ chủ yếu của các Đảng chính trị là trở thành Đảng cầm quyền. Muốn như thế thì trước hết Đảng chính trị phải có vai trò tổ chức để vạch ra “ý chí chung”, trong đó hệ thống hóa những khuynh hướng, lập trường chính trị khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau thành một chương trình hành động cụ thể, một chính sách nhất định, và tiến hành giành chính quyền bằng nhiều biện pháp. Bên cạnh đó, Đảng phải tổ chức giáo dục tư tưởng, tuyên truyền phổ biến tư tưởng của Đảng mình cho quần chúng. Người ta gọi chính trị, đảng phái có nghĩa là cơ cấu chính trị trong đó nhiều đảng tranh gianh quyền lãnh đạo chính quyền một cách hòa bình với nhau thông qua bầu cử. Trong các nước tư sản, hình thái chủ yếu của chính trị đảng phái là có chế độ Nội các Nghị viện và chế độ Tổng thống. Tùy theo số lượng Đảng chính trị lớn ở trong một nước, người ta chia thành các loại lưỡng đảng, đa đảng… Để bảo đảm cho Quốc hội và các Đảng được điều hành ổn định, điều quan trọng là sự bảo đảm tự do về chính trị, ngôn ngữ, lập hội và bầu cử công bằng và giảm bớt những căng thẳng trong nội bộ xã hội. Trong nền Cộng hòa thứ năm của Pháp, các đảng chính trị tập hợp thành 2 cực phân biệt rõ rệt là phe tả và phe hữu, dù nội bộ từng phe đều có những bất đồng. Lực lượng cánh tả gồm các đảng như: đảng Xã hội (PS), đảng Cộng sản Pháp (PCF), phong trào cấp tiến cánh tả (MRG). Cánh hữu và phe giữa gồm: đảng Tập hợp vì nền cộng hòa (RPR), đảng Liên minh vì nền dân chủ Pháp (UDF). Ngoài ra còn có một số đảng phái khác thuộc các đảng cực hữu (như đảng Mặt trận dân tộc-FN, một số phong trào và nhóm nhỏ tự tuyên bố theo tinh thần dân tộc) và cực tả (Liên đoàn cộng sản cách mạng, Phong trào đấu tranh công nhân, đảng Xanh...). Có nhiều lý do khiến các đảng phải liên kết lại trong hoạt động chính trị và nắm chính quyền. Trước hết, do chế độ bầu cử Tổng thống và các cuộc bầu cử quan trọng khác (như bầu cử Quốc hội, Hội đồng) theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu với đa số phiếu qua hai vòng bầu cử đã buộc các đảng ít có hy vọng thắng cử phải liên kết với các đảng lớn để có cơ hội giành thắng lợi cho ứng cử viên chung của họ, và tránh bị gạt ra khỏi trường chính trị sau này vì tỷ lệ phiếu bầu thu được quá ít. Một lý do nữa là, các nguyên tắc hoạt động của các thể chế Nhà nước buộc các đảng phái phải tập hợp lại với nhau để bảo vệ quyền lợi của mình (đối với phe đa số nắm quyền) hoặc để chống đối, gây cản trở cho chính quyền hoạt động (đối với phe đối lập). Nhũng buổi thảo luận tại Quốc hội, thượng nghị viện, thông qua các đạo luật, bỏ phiếu tín nhiệm hay không tín nhiệm Chính phủ... đều cho thấy rõ quan điểm đối lập giữa 2 phe và sự tập hợp lực lượng của mỗi phe thể hiện qua tiếng nói chung của nhóm nghị sĩ đại diện. So với các nước Âu, Mỹ, Đảng chính trị ở Nhật Bản mang những đặc điểm tương đối khác do tác động của truyền thống lịch sử, văn hóa và chính trị. Chúng có tổ chức quần chúng yếu, hoạt động thất thường trong khu vực bầu cử. Các Đảng chính trị Nhật Bản thường liên kết và thông qua các tổ chức ngoài Đảng kinh tế, công đoàn hoặc các đoàn thể quần chúng, tổ chức xã hội để tập hợp phiếu nhân sự cũng như giúp đỡ về tài chính để hoạt động chính trị. Vì thế, các Đảng dễ bị các tổ chức ngoài Đảng chi phối trong việc quyết định chính sách và hoạt động lập pháp. Một trong những vai trò rất quan trọng của các Đảng chính trị là vai trò đối lập của đảng không cầm quyền. Sự đối lập này thể hiện rất rõ trong hoạt động các Đảng Chính trị của nhà nước tư sản Anh, Mỹ – nơi điển hình của hệ thống lưỡng đảng. Ngoài Chính phủ đang cầm quyền, pháp luật Anh còn cho phép thành lập “Nội các trong bóng tối” của các Đảng đối lập, có nhiệm vụ tìm ra những khiếm khuyết trong chính sách của Đảng cầm quyền, giám sát những người đang làm nhiệm vụ cai trị đất nước dưới sự hướng dẫn của Đảng cầm quyền. Đây được gọi là sự đối lập có trách nhiệm, chúng có tác dụng nhất định giúp nhà nước tư sản thận trọng hơn khi đưa ra các quyết định của mình. Các Đảng chính trị thường tìm cách để tạo cho quần chúng ấn tượng về mình là tổ chức thể hiện nhu cầu, khát vọng chung của cộng đồng xã hội. Hiện nay ở các nước tư sản tồn tại một số Đảng tiêu biểu như: Đảng Tự do, Đảng Bảo thủ, Đảng Dân chủ – Thiên chúa giáo, Đảng Xã hội, Đảng Cộng hòa, Đảng theo lãnh thổ, sinh thái học… II. ĐẢNG CẦM QUYỀN ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI 1. Con đường cơ bản để đưa Đảng chính trị trở thành Đảng cầm quyền. Những điều kiện để Đảng chính trị trở thành Đảng cầm quyền: Việc xuất hiện và phát triển của các Đảng chính trị ở các nước tư sản thường gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của Quốc hội và các hoạt động bầu cử. Thông qua các Nghị sĩ là thành viên của mình mà Đảng gây ảnh hưởng đối với các quyết định của Nhà nước, của Chính phủ nhằm mang lại lợi ích cho nhóm, giai cấp mà nó đại diện. Biểu hiện cụ thể là, các Đảng chính trị tranh giành quyền lực và trở thành Đảng cầm quyền thông qua con đường tuyển cử và đấu tranh ở Quốc hội. Đây là con đường cơ bản để đưa một Đảng chính trị trở thành Đảng cầm quyền. Để các Đảng chính trị thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và được điều hành ổn định, cần phải xây dựng một chế độ bầu cử công bằng, thực hiện trên nguyên tắc dân chủ, tự do, công bằng. Đồng thời, phương pháp chọn đại biểu và quy chế về khu vực bầu cử cũng cần được quan tâm, tính toán sao cho phù hợp với cơ cấu chính trị và truyền thống của quốc gia. Chế độ bầu cử đại biểu theo tỷ lệ phiếu (số phiếu trong Quốc hội được phân bổ cho các chính Đảng theo tỷ lệ phiếu mà Đảng đó giành được) là chế độ bầu cử công bằng nhất. Tuy nhiên, ngoài mục đích phản ảnh ý chí của nhân dân trong việc lựa chọn đại biểu, còn một mục đích nữa là thông qua bầu cử, nhân dân sẽ nâng cao ý thức chính trị, cảm thấy gần gũi với chính trị và dễ dàng chấp nhận hơn khi có sự thay đổi chính quyền. Cuộc bầu cử đầu tiên ở Nhật Bản được tiến hành vào năm 1890, sau khi nghị viện Hoàng gia ra đời. Nhưng mãi đến sau chiến tranh, Nhật Bản mới thực hiện chế độ bầu cử phổ thông đầu phiếu và mọi ngườii dân đến tuổi trưởng thành đều có quyền bầu cử. Tuy nhiên, đặc điểm chế độ bầu cử Nhật Bản còn nhiều hạn chế, như: người dân chưa xem bầu cử là cơ hội lựa chọn chính khách quan trọng đối với chính trị đất nước để có sự cân nhắc kỹ khi bỏ phiếu cho ai, do đó vẫn tồn tại tình trạng ứng cử viên thu hút lá phiếu với cách mua chuộc bằng tiền bạc, hàng hóa… và thu được lợi qua các quỹ hỗ trợ của các tổ chức; quy định thời gian vận động tranh cử ngắn hơn so với các nước Âu Mỹ, cấm ứng cử viên đến từng gia đình vận động tranh cử, tuy có cho phép vận động trên phương tiện thông tin đại chúng nhưng theo mức độ đã được quy định và hạn chế tuyên truyền trên sách báo, ngôn luận, do đó hoạt động chính trị của các Đảng không đi vào quần chúng, cản trở sự tích cực của nhân dân trong việc tham gia vào hoạt động chính trị thông qua hoạt động bầu cử… Ở các nước có từ hai Đảng trở lên, bầu cử là cuộc đấu tranh giành giật quyền lực rất gay gắt giữa các Đảng chính trị. Sau cuộc tổng tuyển cử, Đảng cầm quyền – là Đảng chiếm đa số ghế trong nghị viện và ứng cử viên của mình thắng cử trong cuộc bầu cử – có quyền đứng ra thành lập Chính phủ và các thành viên hoạt động tích cực trong chiến dịch vận động bầu cử của Đảng sẽ được bổ nhiệm vào các chức vụ trong chính quyền. Mọi hoạt động của Chính phủ phải thể hiện ý chí của Đảng cầm quyền thông qua ý chí của người lãnh đạo. Để trở thành Đảng cầm quyền, Đảng chính trị cần phải: - Có tổ chức, hệ tư tưởng đủ mạnh và tuyên truyền, giáo dục hệ tư tưởng, đường lối của Đảng mình cho thành viên và công chúng để có khả năng thu hút lực lượng về mình và nhận được sự ủng hộ cũng như bảo vệ của các lực lượng xã hội. - Bảo đảm số ứng cử viên là thành viên của Đảng thắng cử tham gia vào cơ quan nhà nước và có khả năng thực hiện lợi ích của Đảng. - Tuyển chọn và bố trí nhân sự vào bộ máy cơ quan quyền lực nhà nước. Đảng nắm chính quyền thông qua đội ngũ Đảng viên là công chức trong các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. - Xây dựng chủ trương, cương lĩnh, chính sách của Đảng đúng đắn, phù hợp, phản ảnh và thỏa mãn nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân và cam kết thực hiện nếu thắng cử và lập được Chính phủ. 2. Vai trò của Đảng cầm quyền trong việc xác lập: bộ máy nhà nước, vị trí cán bộ chủ chốt trong bộ máy nhà nước cấp Trung ương và địa phương, vị trí cán bộ chủ chốt thuộc các bộ phận cấu thành hệ thống quyền lực nhà nước: Hoạt động của Đảng cầm quyền luôn gây ảnh hưởng đến đời sống chính trị và hoạt động của bộ máy Nhà nước, làm cho các cơ quan nhà nước hoạt động không theo quy định của pháp luật và trở nên hình thức, có sự phân chia quyền lực nhà nước giữa các Đảng. Ở Cộng hòa Xingapo, Đảng cầm quyền PAP của Xingapo lãnh đạo Chính phủ và chi phối Quốc hội. Tuy nhiên giữa chúng có sự phân chia quyền lực: các chủ trương, đường lối, chính sách lớn của Đảng phải được Quốc hội thông qua mới được thi hành, và Chính phủ là cơ quan triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối đó. Quốc hội Xingapo là cơ quan lập pháp gồm 51 nghị sĩ do dân bầu. Tổng thống là người đứng đầu Nhà nước do Quốc hội cử, và chỉ định Thủ tướng (người đứng đầu Đảng chiếm đa số ghế trong Quốc hội). Theo đề nghị của Thủ tướng, Tổng thống sẽ chỉ định các thành viên của Nội các (gồm 14 Bộ trưởng và các quan chức hành chính cao cấp). Một Hội đồng cố vấn được lập ra làm tham mưu cho Tổng thống, các ý kiến của Hội đồng trong các cuộc họp cấp cao có thể được Tổng thống tham khảo, ví dụ như việc bổ nhiệm cán bộ chủ chốt cho nền hành chính của quốc gia. Ở Malaysia, bộ máy nhà nước được chia thành 3 ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó, Quốc hội liên bang giữ quyền lập pháp của liên bang (cụ thể là Thượng và Hạ nghị viện), có chức năng làm luật và kiểm soát tài chính của Chính phủ. Thượng nghị viện hoạt động dưới sự chủ trì của Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch, gồm 69 thành viên, trong đó có 40 người được sự chỉ định của Vua. Hạ nghị viện gồm 192 thành viên, trong đó 145 thành viên được cử tri bầu trực tiếp từ 104 khu vực bầu cử miền Tây Malaysia, số còn lại được bầu gián tiếp qua bộ phận lập pháp của bang Sabah (20 thành viên) và Sarawak (27 thành viên). Các thành viên được bầu gián tiếp sẽ được thay thế bằng các thành viên được bầu trực tiếp sau kỳ tổng tuyển cử toàn liên bang. Chủ trì Hạ viện là người phát ngôn do Viện bầu chọn. Hiến pháp Malaysia có quy định một điều đặc biệt là người phát ngôn Hạ viện có thể là người ngoài Viện, khi đó ngừơi được đề cử sẽ được coi là một thành viên thứ 193 của Viện. Theo truyền thống lịch sử, Quốc vương Malaysia là ngừơi đứng đầu liên bang, có quyền cao nhất, bảo đảm sự trị vì đất nước, kiểm soát cả 3 ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quốc vương có quyền bổ nhiệm Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thẩm phán và giải tán Quốc hội khi cần thiết. Theo quy trình làm luật, dự luật muốn trở thành luật phải được thông qua từ Hạ viện đến Thượng viện và cuối cùng là Vua, do đó Vua là người ký ban hành các đạo luật. Ngoài ra, Vua còn một số đặc quyền khác như: ân xá, bảo vệ quyền lợi cho các dân tộc thiểu số, bảo vệ quyền đặc biệt của người Mã lai… Trong hoạt động của Chính phủ, Vua là nguyên thủ quốc gia nắm quyền hành pháp. Việc điều hành công việc hàng ngày của đất nước được giao cho Nội các. Để tránh tình trạng độc đoán, Hiến pháp quy định: Vua quyết định trên cơ sở tư vấn của Thủ tướng và Nội các, trừ trường hợp bổ nhiệm Thủ tướng, giải tán Quốc hội và triệu tập Hội nghị 9 tiểu vương quốc. Tuy nhiên trong thực tế, Vua vẫn có sự tham khảo ý kiến của Thủ tướng và các thành viên Nội các. Theo quy định và Hiến pháp, Thủ tướng là người đứng đầu Đảng chiếm đa số ở Quốc hội, nắm quyền lãnh đạo Chính phủ và đứng ra thành lập Nội các. Trong trường hợp không có Đảng nào giành được đa số ghế tại Quốc hội thì Vua sẽ phải chọn Thủ tướng. Sau khi được Vua bổ nhiệm chính thức và được giao quyền thành lập Chính phủ, Thủ tướng sẽ phải xem xét đến số ghế tương quan giữa 3 Đảng lớn Mã lai – Hoa – Ấn và số ghế giữa các Bang để tránh tình trạng có nhiều thành viên Nội các là người của một Đảng hay một Bang nào đó. Bộ trưởng được chọn trong số đại biểu của 2 Viện, nhưng chủ yếu là của Hạ nghị viện. Hiện nay, Malysia có 27 Bộ trưởng, trong đó có 4 Bộ trưởng không Bộ nằm trong Văn phòng Thủ tướng. Thủ tướng có đặc quyền kiêm nhiệm chức vụ Bộ trưởng ở bất kỳ Bộ nào, không hạn chế. Hiến pháp Nhật Bản quy định Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao, là cơ quan lập pháp duy nhất của đất nước. Điều đó cho thấy, Quốc hội được công nhận về tầm quan trọng của mình cao hơn các cơ quan khác như Nội các và Tòa án. Vì vậy, nền chính trị nhà nước hoạt động theo nguyên tắc Quốc hội là trung tâm. Nhật Bản cơ cấu Quốc hội theo chế độ 2 viện được tổ chức hết sức công phu, dù tổ chức 2 viện khác nhau nhưng phải phù hợp với mục đích của Quốc hội. Ngoài quyền lập pháp, hai viện của Quốc hội còn có quyền giám sát tài chính quốc gia và điều tra các hoạt động chính trị của đất nứơc. Do áp dụng chế độ Nội các Nghị viện nên Thủ tướng Nhật Bản được chỉ định trong số các nghị sĩ bằng quyết nghị của Quốc hội. Thực tế, nghị sĩ là Chủ tịch Đảng chiếm đa số ghế tại Hạ nghị viện làm Thủ tướng. Thủ tướng có quyền bổ nhiệm các Bộ trưởng và hơn nửa số Bộ trưởng phải được chọn trong số các nghị sĩ Quốc hội (thực tế thì đa số ghế Bộ trưởng trong Nội các thuộc Đảng cầm quyền). Nội các gồm Thủ tướng và khoảng 20 Bộ trưởng, cơ quan giúp việc cho Nội các là Văn phòng Nội

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctu_tuong_quyen_luc_nha_nuoc_thuoc_ve_nhan_dan_cua_ho_chi_minh_5751.doc
Tài liệu liên quan