MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU . . . . 3
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT ĐẠO GIA . . . 4
1. Lịch sử hình thành và phát triển . . . 4
2. Vài nét về cuốn “Đạo đức kinh” . . . 4
3. Nội dung chính trong hệ tư tưởng Đạo gia . . 5
3.1. Luận về vũ trụ . . . 5
3.2. Lý luận về đạo đức . . . 6
3.3. Học thuyết vô thần . . . 6
3.4. Phác . . . . 7
3.5. Tự nhiên . . . . 7
3.6. Luật phản phục. . . 7
3.7. Triết lý Vô . . . . 7
3.8. Thuyết Vô vi . . . 7
3.9. Xây dựng một quốc gia lý tưởng . . . 8
CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG VÔ VI CỦA ĐẠO GIA . . 9
1. Tư tưởng vô vi của Đạo gia . . . 9
1.1. Lý luận chung về thuyết vô vi của Lão Tử . . 9
1.1.1. Định nghĩa “vô vi” . . . 9
1.1.2. Cơ sở lý luận của “thuyết vô vi” . . 9
1.2. Tư tưởng vô vi của Đạo gia . . . 9
1.2.1. Vô vi trong đối nhân xử thế . . . 10
1.2.2. Vô vi trong đạo đấu tranh . . . 11
1.2.3. Vô vi trong phương xử kỷ. . . 11
1.3. Tư tưởng vô vi – Góc nhìn từ Đạo Phật . . 16
1.3.1. Tư tưởng vô vi của Đạo Phật . . . 16
1.3.2. So sánh về vô vi của Đạo gia và vô vi của Đạo Phật . 18
CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG VÔ VI LÊN ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
NGÀY NAY . . . . 22
1. Trong thái độ, quan niệm sống và hành động . . 22
2. Trong hệ thống chính trị, pháp luật, các quy tắc xã hội . . 24
3. Trong lĩnh vực quân sự - quốc phòng. . 26
4. Trong nền kinh tế . . . 27
5. Trong hoạt động đối ngoại . . . 27
6. Trong xây dựng văn hóa doanh nghiệp . . 27
7. Trong quan điểm bảo tồn sinh thái – môi trường tự nhiên . . 28
8. Trong hoạt động đầu tư – khai thác . . . 28
9. Trong lĩnh vực Văn học – Nghệ thuật – Hội họa . . 29
10. Trà đạo . . . . 30
11. Y học. . . . 30
12. Phong thủy . . . . 30
13. Ẩm thực . . . . 30
14. Dưỡng sinh . . . . 31
15. Võ thuật . . . . 31
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10918 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tư tưởng Vô vi của Đạo gia - Ảnh hưởng lên đời sống xã hội ngày nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phải để cho con người trở về với cái sống
tự nhiên giản dị của họ... Cho nên vô vi là đừng dụng tư tâm mà xen vào cái
sống tự nhiên của mọi vật, càng ít can thiệp đến việc người được bao nhiêu
càng quý bấy nhiêu. Từ những lý luận của Lão Tử về vô vi được thể hiện khá
Tư tưởng Vô vi của Đạo gia - Ảnh hưởng lên đời sống xã hội ngày nay.
Nhóm 1 – Cao học đêm 9 Trang 10
nhiều trong tác phẩm ĐẠO ĐỨC KINH của người ta có thể nhận thấy tư tưởng
của Lão Tử nói riêng hay của Đạo gia nói chung về vô vi như:
1.2.1. Vô vi trong đối nhân xử thế
Lão Tử cho rằng trong đối nhân xử thế chúng ta nên: “Từ”; “Kiệm” và “Bất cảm
vi thiên hạ tiên”:
“Từ”: là yêu tất cả mọi người bất luận đối với người tốt hay kẻ xấu... Người
đời không phải thế: Người đời bảo: “dĩ oán báo oán”. Nho gia bảo: “dĩ trực
báo oán”, đó là đạo hữu vi. Trái lại, Lão Tử nói: “dĩ ân báo oán”. Do đó,
Từ là dám xem kẻ thù như người bạn, không lấy oán mà báo oán, cũng
không lấy “trực” mà báo oán, nghĩa là không dám châm thêm vào ngọn lửa
oán thù đến nỗi gần như không dám biết đến hai chữ thù oán là gì.
“Kiệm”: Thiên hạ hạ thì lấy xa xỉ, khoa trương làm mục đích tiến thủ,
tranh nhau đua đòi trong sự xa hoa lộng lẫy càng nhiều bao nhiêu càng hay
bấy nhiêu... Lão Tử trái lại khuyên ta: “khứ thậm, khứ xa, khứ thái” và lấy
kiệm ước làm căn bản cho người trị nước.
“Bất cảm vi thiên hạ tiên”: Lão Tử còn khuyên ta “tri chỉ, tri túc”. Người
đời đều lấy sự ăn ngồi trên trước làm vinh, và suốt đời chạy mãi theo cái bả
vinh hoa phú quý... thì Lão Tử lại bảo ta không nên “đứng trước thiên hạ”,
cần phải khiêm khu, từ tốn... và luôn luôn đứng dưới và ngồi sau.
Lão Tử còn dạy: “Bất ngôn chi giáo, vô vi chi ích, thiên hạ hi cập chi.”. Có thể
hiểu là cách dạy mà không dùng đến lời, cũng như ích lợi của “vô vi”, ít người
có thể hiểu thấu:
“Không nói vẫn làm thầy thiên hạ,
Không làm nhưng kết quả ngàn muôn.
Nào ngờ không nói, không làm,
Chứa chan ích lợi, người phàm đâu hay.”
Tư tưởng Vô vi của Đạo gia - Ảnh hưởng lên đời sống xã hội ngày nay.
Nhóm 1 – Cao học đêm 9 Trang 11
1.2.2. Vô vi trong đạo đấu tranh
Theo đạo hữu vi, thì phải lấy mạnh mà thắng mạnh, còn đạo vô vi thì trái lại lấy
nhu mà chế cương, lấy nhược mà thắng cường... và hơn nữa Lão Tử còn viết:
“bất tranh nhi thiện thắng”. Nghĩa là Lão Tử chủ trưởng lấy “cái không tranh
mà thắng được một cách vẹn toàn”.
Lão Tử viết: “Dĩ nhu khắc cương”. Ông tin rằng: "Nhu nhược thắng cương
cường", và giải thích rằng: "Thiên hạ mạc nhu nhược ư thủy, nhi công kiên
cường giả mạc chi năng thắng". (Dưới bầu trời này, còn thứ gì yếu mềm hơn
nước, thế mà kẻ mạnh phá được thành trì kiên cố, cũng chẳng thể thắng nổi
nước). Thuyết "Nhu khắc cương", hẳn là một trong những đặc điểm của triết lý
Lão Tử. Đạo đức kinh, chương 43 Biến dụng, Lão Tử viết tiếp: “Thiên hạ chi
chí nhu, trì sính thiên hạ chi trí kiên. Vô hữu nhập vô gián. …”. Được hiểu là:
Cái mềm nhất trong trời đất chi phối được cái cứng nhất trong trời đất. Cái
“không có” lọt được vào chỗ “không có kẽ hở”.
1.2.3. Vô vi trong phương xử kỷ
Để tiêu diệt cái “bản ngã” của mình. Người đời thường bảo “biết người là Trí”,
Lão Tử lại bảo “biết mình là sáng”. Người đời thường bảo “thắng người là có
sức”, ông bảo “thắng mình là sức mạnh”. Biết người, thắng người là hữu vi, biết
mình và thắng mình đó là vô vi.
Người đời tranh nhau để làm cho cái bản ngã của mình càng thêm lớn mạnh
bằng sự gom góp của cải, tạo dựng quyền thế cho mình càng nhiều càng tốt; trái
lại Lão Tử khuyên ta: “kiến tố bảo phác, thiểu tư quả dục”. Nghĩa là phải biết ăn
ở giản dị, tự nhiên, ít riêng tư, ít tham dục, nhất định “không nên tích trữ cho
mình” và “lo riêng cho mình” gì cả. Và hơn nữa “đừng tự xem mình là sáng”,
“đừng tự cho mình là phải”, “đừng tự cho mình là có công”, “đừng tự cho mình
là trên hết”... nhưng phải là “đừng” một cách thành thật, tự nhiên.
Tư tưởng Vô vi của Đạo gia - Ảnh hưởng lên đời sống xã hội ngày nay.
Nhóm 1 – Cao học đêm 9 Trang 12
Tư tưởng của Lão Tử rất thích hợp với những ai, là kẻ ưa sống gần gũi thiên
nhiên, lại có phần tương thông với đức tính khiêm nhường, dung thứ, nhẫn nại
của nhà Nho. Do đó, người theo Đạo học thích sống vào nơi thâm sơn cùng cốc,
tĩnh tịch, xa lánh bụi trần tự tay kiếm ăn, tự mình chữa bệnh, người đời gọi đó là
"Tu Tiên", mang sắc thái huyền bí như một tôn giáo, cho nên thường gọi là
"Đạo giáo".
1.2.4. Vô vi trong chính trị- “đạo trị nước an dân”
Cũng giống như Khổng Tử, Lão Tử nhận rằng cấn phải có một bậc Thánh quân
đứng đầu trị nước, thì thiên hạ mới hạnh phúc. Nhưng khác với Khổng Tử, bao
giờ cũng cho rằng bậc quân tử cần phải “tu thân” để rồi “hành đạo” nghĩa là
phải “tề gia – trị quốc – bình thiên hạ” ... . Lão Tử tin rằng càng ít “làm”
chừng nào thì càng tốt bấy nhiêu, và nếu có thể vô vi được thì lại càng hay.
Theo ông, càng dùng cái trị để mà trị nước thì nước dễ loạn, càng không dùng
đến cái trị để mà trị nước thì nước càng dễ trị.
Lão Tử viết: “Dĩ chính trị quốc. Dĩ kỳ dụng binh. Dĩ vô sự thủ thiên hạ... Thiên
hạ đa kỵ húy, nhi dân di bần; dân đa lợi khí, quốc gia tư hôn. Nhơn đa kỹ xảo,
kỳ vật tư khởi. Pháp lệnh tư chương, đạo tặc đa hữu”. Nghĩa là cần phải lấy sự
ngay thẳng thực thà mà trị nước. Trái lại nếu trị nước mà làm như dụng binh,
dùng trá ngụy mà trị thì nguy, vì “lấy trí mà trị nước, là cái vạ cho nước”.
Huống chi bậc trị nước mà ban hành nhiều điều cấm kỵ thì dân chúng càng
nghèo khổ, bởi thiếu tự do hành động và ngôn ngữ, ... mà dân chúng trở nên đa
mưu xảo kế để trục lợi thì nước nhà phải sa vào hỗn loạn tăm tối. Người dân cần
thực thà, ít dục vọng, thì nước mới dễ trị. Bậc trị nước mà quá khắt khe, đem
pháp lệnh mà áp đặt trên đầu dân để đề phòng, thì chúng dân cũng tìm đủ mánh
khóe thủ đoạn để trốn tránh; gây ra mưu mô gian trá càng ngày càng thêm; dân
càng khó trị thì bọn đạo tặc càng nhiều. Dùng vô vi mà trị thì ít can thiệp đến
việc người, không dùng tư tâm mà hành động, dùng “bất ngôn chi giáo” mà dạy
Tư tưởng Vô vi của Đạo gia - Ảnh hưởng lên đời sống xã hội ngày nay.
Nhóm 1 – Cao học đêm 9 Trang 13
dân, lấy gương mẫu của mình mà sửa dân... thì dân không hay là mình có làm
gì, nhưng rồi chúng tự sửa đổi lấy mình mà không cần đến sự bắt buộc hay cấm
đoán, ban hành pháp lệnh: “Ngã vô vi nhi dân tự hóa”. Chính phủ yên tĩnh vô vi
thì dân sẽ biến thành chất phác. Chính phủ tích cực làm việc thì dân đầy tai họa.
Theo Lão Tử hành động hay nhất là đừng can thiệp đến việc đời; nhưng nếu đời
cần ta phải làm thì ta hãy làm cái không làm một cách kín đáo, khéo léo. Do đó
mà Lão Tử mới viết: “thiện hành vô triệt tích” và Ông gọi đây là giải pháp an
bang tế thế.
Lão Tử viết: “vi nhi vô bất vi, thủ thiên hạ thường dĩ vô sự. Cập kỳ hữu sự bất
túc dĩ thủ thiên hạ.” Theo ý đó, không làm mà không gì không làm; muốn được
thiên hạ phải dùng vô vi; dùng hữu vi không đủ để được thiên hạ:
“Vô vi huyền diệu khôn bì,
Không làm mà chẳng việc chi không làm.
Vô vi mà được thế gian,
Càng xoay xở lắm đời càng rối beng.”
Bậc thánh nhân trị vì thiên hạ phải bằng lẽ tự nhiên của đạo vô vi, và chủ trương
xóa bỏ hết mọi ràng buộc về mặt đạo đức, pháp luật đối với con người để trả lại
cho con người cái bản tính tự nhiên vốn có của nó.
Lão Tử mơ ước đưa xã hội trở về thời đại nguyên thủy chất phác, mơ ước cô lập
cá nhân với xã hội để hòa tan con người vào đạo (tự nhiên). Xã hội lý tưởng
theo Lão Tử là xã hội của những nước nhỏ, dân ít, có thuyền xe nhưng không đi,
có gươm giáo nhưng không dùng, bỏ văn tự, từ tư lợi, không học hành… . Dân
hai nước ở cạnh nhau, dù cách nhau bởi một bờ dậu nhỏ hay một con mương
cạn, cùng nghe tiếng chó sủa tối, tiếng gà gáy sáng … , nhưng đến già, đến chết
họ không bao giờ qua lại thăm nhau.
Chương 80 trong quyển Đạo đức kinh Lão Tử viết:
“Nước ta bé nhỏ dân thưa,
Tư tưởng Vô vi của Đạo gia - Ảnh hưởng lên đời sống xã hội ngày nay.
Nhóm 1 – Cao học đêm 9 Trang 14
Vài mươi tôi giỏi, ta chưa hề dùng.
Dạy dân sợ chết làm lòng,
Cho nên dân chẳng vẫy vùng phiêu lưu.
Xe kia thuyền nọ đìu hiu,
Nào ai muốn cưỡi, muốn chèo mà chi.
Binh kia giáp nọ ủ ê,
Chẳng ai dở dói nghĩ khoe, nghĩ bày.
Dạy dân trở lại thắt dây,
Sống đời thuần phác tháng ngày tiêu dao.
Cho dân ăn uống thanh tao,
Cho dân ăn mặc bảnh bao, chững chàng.
Cho dân đời sống bình an,
Cho dân phong tục dịu dàng đẹp tươi.
Liên bang nào cách mấy mươi,
Gà kêu, chó cắn đòi nơi rõ ràng.
Tuy rằng gần gũi tấc gang,
Suốt đời dân chúng nào màng tới nơi.”
Lão Tử viết: “Bất thượng hiền, sử dân bất tranh. Bất quí nan đắc chi hóa, sử
dân bất vi đạo. Bất kiến khả dục, sử dân tâm bất loạn”. Tạm dịch là: “Không
sùng thượng hiền tài, khiến cho dân không tranh. Không quí của khó được,
khiến cho dân không trộm cướp. Không phô trương những gì kích thích lòng
ham muốn, khiến cho lòng dân không loạn.” Hay: “Thị dĩ thánh nhân chi trị, hư
kỳ tâm, thực kỳ phúc, nhược kỳ chí, cường kỳ cốt. Thường sử dân vô tri vô dục.
Sở phù trí giả bất cảm vi dã.”. Nghĩa là bậc thánh nhân trị nước là phải làm cho
dân: Trống lòng; No dạ; Yếu chí; Mạnh xương. Thường khiến cho dân không
biết, không ham. Khiến cho kẻ trí không dám làm gì cả.
Tư tưởng Vô vi của Đạo gia - Ảnh hưởng lên đời sống xã hội ngày nay.
Nhóm 1 – Cao học đêm 9 Trang 15
Vô vi về đạo trị nước, cũng có nghĩa là: “phi dĩ minh dân, tương dĩ ngu chi”,
nghĩa là không làm cho dân khôn lanh, mà làm cho dân trở nên thực thà. Chữ
“ngu” ở đây không phải có nghĩa là ngu si, mà là “thực thà”... tức là cái “ngu”
của những bậc thánh trí: “minh đạo nhược muội”.
Chúng ta có thể thấy rằng ngày nay các nhà cầm quyền vì bày vẽ quá nhiều luật
pháp, lễ nghi, hình thức, nên đã làm cho dân con mất thiên chân thiên tính, để
rồi chạy theo những văn minh, những kiến thức kiến văn giả tạo bên ngoài.
Những cái đó không đem lại hạnh phúc, an bình cho con người được; trái lại
chúng chính là mầm loạn lạc chia ly. Vì thế, cho nên theo Lão tử chủ trương
không can thiệp vào đời sống dân, không đem kiến văn, kiến thức dạy dân. Có
thể lý giải:
Vì con người là một nghệ phẩm tối cao, không được nhào nắn bậy bạ.
Đạo Đức kinh chương 29 viết:
“Những muốn nặn muốn nhào thiên hạ,
Suy cho cùng chẳng khá được nào.
Lòng người nghệ phẩm tối cao.
Ai cho ta nặn ta nhào tự do?
Lòng người ai nắm giữ hoài,
Già tay nặn bóp bao đời tiêu ma…”
Vì thánh nhân chỉ giúp cho vạn vật sống tự nhiên theo thiên chân, thiên
lý mà thôi. Đạo Đức kinh chương 64 viết:
“Cho nên hiền thánh trên đời,
Chỉ say Đạo cả chơi vơi ngàn trùng.
Của khan, vật hiếm chẳng mong,
Của đời người tế đèo bòng mà chi.
Học là học đạo siêu vi,
Dạy đời lầm lạc hướng đi tuyệt vời.
Tư tưởng Vô vi của Đạo gia - Ảnh hưởng lên đời sống xã hội ngày nay.
Nhóm 1 – Cao học đêm 9 Trang 16
Giúp ai thanh thả đường trời,
Chứ không chọc nước quấy trời uổng công.
Vì đem điều xảo trá, đem kiến văn kiến thức dạy dân, là làm hại dân,
làm cho họ trở nên xa Đạo, xa trời, trở nên bất trị, chứ không làm lợi
cho họ. Đạo Đức kinh chương 65 viết:
“Nên những kẻ am tường đạo cả,
Chẳng đem điều xảo trá dạy dân,
Muốn dân chất phác ôn thuần...”
Kết luận về tư tưởng vô vi:
Tóm lại, vô vi là hành động trở về nguồn cội, từ bỏ tất cả những gì phiền phức đa
đoan của văn minh giả tạo... đã làm che lấp chân Tánh, cái Đạo nơi lòng. “Vi học
nhật ích, vi đạo nhật tổn, tổn chi hựu tổn dĩ chí ư vô vi”. Theo học thì ngày một
thêm, còn theo đạo thì càng ngày càng bớt… bớt rồi lại bớt nữa, bớt cho đến vô vi.
Tuy nhiên, đạo vô vi không phải là không làm gì cả, mà thực sự: “Vi vô nhi vô bất
vi” nghĩa là không làm mà không có gì là không làm, làm một cách hết sức tự nhiên
và kín đáo (thiện hành vô triệt tích), đem cái tự nhiên mà giúp một cách tự nhiên,
không tư tâm, không vị kỷ. Người thi ân không biết là thi ân, người thọ ân cũng
không dè là thọ ân. Bậc trị nước mà dùng đến cái đạo vô vi, dân không hay là mình
bị trị... dĩ nhiên được thiên hạ, mà tự mình cũng không bao giờ bị hại.
1.3. Tư tưởng vô vi – Góc nhìn từ Đạo Phật
1.3.1. Tư tưởng vô vi của Đạo Phật
Nếu nhận định nghiêm túc thì khái niệm vô vi chỉ có ở Lão học, nó
không giống với với khái niệm “vô của tánh không trung đạo duyên
khởi”. “Vô của tánh không trung đạo duyên khởi” của triết lý Trung
Quốc có nguồn gốc từ tư tưởng kinh “Bát Nhã” và luận “Duy thức” của
Phật giáo Đại thừa Ấn Độ và được truyền vào Trung Quốc. Tư tưởng “vô
của tánh không trung đạo duyên khởi” ở Trung Quốc được duy trì và
Tư tưởng Vô vi của Đạo gia - Ảnh hưởng lên đời sống xã hội ngày nay.
Nhóm 1 – Cao học đêm 9 Trang 17
phát triển mạnh để sau đó trở thành một thái độ và triết sống của con
người Trung Quốc. Triết lý mà người ta hay nói là “vô vi của đạo Phật”
đó là triết lý “tánh không của Bát Nhã”, tánh không này chẳng phải
không làm gì cả mà là tánh không trung đạo duyên khởi, không để cho
các vọng niệm sai lầm mê chấp của con người ảnh hưởng và tác đọng
đến sự tồn tại của vạn sự vạn vật mà tiếp nhận sự tồn tại và không tồn tại
của vạn vật theo các nhân duyên sanh khởi và hoại diệt của bản thân sự
vật. Khi nhân duyên hòa hợp đủ thi các pháp sanh thì gọi là hữu nhưng
tánh chất của pháp được gọi là hữu đó là không thật, nó chịu sự chi phối
của luật “sanh – trụ – dị – diệt” và biến đổi tùy theo nhân duyên. Khi các
nhân duyên không đầy đủ thì không có sự xuất hiện của các pháp và cái
không xuất hiện này không phải là “vô” là “không” trống rỗng mà không
có tác dụng tạo tác của ý thức và cũng không có sự hòa hợp của các nhân
duyên nên pháp không xuất hiện. Sự xuất hiện tồn tại của vạn vật trong
mối tương quan của tánh không trung đạo duyên khởi này không phải là
“vô” và “ không” mà là không có tánh chất cố định thật mà tùy theo nhân
duyên mà sanh hay diệt. Cái bản chất duy trì huệ mạng của con người và
vạn vật để vận hành và tồn tại theo quy luật “ vô của tánh không trung
đạo duyên khởi” đó không phải là ý thức mà là trí tuệ của Như Lai Tạng.
Mọi con người đều có sẵn trí tuệ này nhưng mạt na thức chấp trước sanh
ra các thứ ngã chấp về thâm căn con người, trần cảnh của thế giới mà
sanh ra vô số sanh vọng ảo tưởng. Khi con người nhận thức được bản
chất vạn pháp là không thật có, là duyên khởi thì các thức điên đảo được
chuyển thành trí tuệ sáng suốt và cứu cánh viên mãn của tầm nhìn về trí
tuệ đó là Phật tánh, là Như Lai Tạng, là Niết Bàn.
Tuy nhiên, cần kết hợp nội dung “bát nhã tánh không trung đạo” và quá
trình vận hành của các pháp theo chiều thuận và nghịch từ tâm sanh chấp
có ra vạn pháp, ngay từ vạn pháp có cái nhìn sáng suốt không chấp trước
Tư tưởng Vô vi của Đạo gia - Ảnh hưởng lên đời sống xã hội ngày nay.
Nhóm 1 – Cao học đêm 9 Trang 18
để đưa thức trở lại với bản tánh thanh tịnh của Như Lai, quá trình kết hợp
không của “bát bất trung đạo” và “bách pháp duy thức” để triển khai ý
“vô của tánh trung đạo duyên khởi”. Triển khai được “vô của tánh không
trung đạo” thì mới rõ được điểm gần giống và khác nhau của vô vi của
Lão Tữ và vô vi trong “vô của tánh không trung đạo duyên khởi” của
Phật học.
1.3.2. So sánh về vô vi của Đạo gia và vô vi của Đạo Phật
Tư tưởng vô vi của Lão giáo vẫn ở trong cuộc đời dù không bon chen,
tranh dành, nhưng còn tư tượng Phật Giáo bắt đầu từ chữ “Không” và có
khuynh hướng xuất thế.
Phật - Lão - Nho là 3 triết thuyết lớn ảnh hưởng quan trọng tới đời sống
tinh thần của người phương đông trong đó có người Việt chúng ta. Ngã
Phật từ bi, Lão chủ vô vi, Nho dụng hữu vi mà độ, mà răn, mà tế thế. Chủ
thể của Nho là người quân tử, đối tượng của Lão là các bậc đế vương,
còn Phật gia chỉ mong độ chúng sanh đạt thành Phật đạo. Bàn về vô vi thì
luận trong tư tưởng của Lão giáo và Phật giáo đều có đề cập. Thật sự có
khác nhau về cơ bản trong tư tưởng vô vi của hai giáo, đó là sự chấp
nhận “cái nguyên lý ban đầu” của Lão không giống “nhân duyên” của
Phật còn “hành xử vô vi” thì giống nhau.
Lão viết : “Đại Đạo phế hữu nhân nghĩa” , lại viết: “hành vô vi chi Đạo”
tức là Lão tin rằng có một quyền năng rất lớn bao trùm thế giới đó là
Đạo, Đạo có sức mạnh lan tỏa khắp vũ trụ ảnh hưởng tới thịnh suy của
mọi đời người, mọi thời cuộc. Đó là “cái nguyên lý ban đầu” mà Lão Tử
đã đưa ra như là một đấng Toàn năng điều khiển thế giới, đó là nguyên lý
“hữu thần” trong hầu hết giáo lý của các tôn giáo ngoại trừ Phật giáo.
Phật chỉ ra rất nhiều thế giới thần linh nhưng tất cả đều bị chi phối của
“luật nhân quả” , nên dưới góc nhìn của Phật giáo chúng thần, thiên,
Tư tưởng Vô vi của Đạo gia - Ảnh hưởng lên đời sống xã hội ngày nay.
Nhóm 1 – Cao học đêm 9 Trang 19
nhơn, atula ... cũng chỉ là quảng đại chúng sanh cần phải tu tập, tuyệt
nghiệp mới thành Phật đạo. Phật nói “ta là Phật, các ngươi sẽ là Phật” tức
chỉ ra nhơn duyên sanh quả Phật do tu đắc mà thành, chứ không có vị
Phật nào của các vị Phật điều khiển sự “thành Phật” của chúng sanh, hay
nói khác đi là sự thịnh suy của mọi đời người, mọi thời cuộc do chính
nhân duyên của đời người đó, thời cuộc đó quyết định. Đây là nguyên lý
“vô thần” của Phật giáo và nó là sự khác nhau cơ bản về tư tưởng so với
các tôn giáo khác trong đó đó Lão giáo.
“Hành vô vi chi Đạo” nghĩa đen là không làm gì cả, có nghĩa là bảo ta
“không làm cái không nên làm” chứ không phải là bảo ta làm biếng, các
bậc đế vương thấy được cái không nên làm để không làm tức là Thánh
đế, nhưng lẽ thường người đời thường xảo biện nên Đạo lớn của Lão tử
khó thành.
Lão Tử than: “Đại Đạo phế hữu nhân nghĩa, huệ trí xuất hữu đại ngụy”.
Loài người càng khôn ngoan hơn thì sự dối trá càng nhiều hơn và dùng
“Lễ” để che đậy khéo léo hơn , và cái sự làm “cái không nên làm” ngày
càng nhiều hơn , chính vì thế mà Lảo Tử vô cùng khinh “Lễ” đặt nó
xuống cùng trong trật tự xếp đặt của Ngài đó là Đạo-Đức-Nhân-Nghĩa-
Lễ. Có lẽ không đắc thời để phổ biến thuyết Đại Đạo của mình nên Lão
làm cái nên làm của mình là mất đi, mặc cho hậu thế bình phẩm. Cũng
đúng thôi vì Lão chỉ dùng vô vi để dạy cách làm vua, mong trên đời xuất
hiện nhiều Thánh đế - một chuyện khó xảy ra vì mấy ai không tư lợi hám
giành quyền lực - nhờ Nho học hữu vi các vị quân vương mới được bảo
vệ bằng bình phong lễ giáo rất hữu hiệu, nào là Tam cương, Ngũ thường,
thuyết Thiên mệnh ... Nói như vậy không có nghĩa là không tồn tại Đạo
gia, mà tư tưởng Đạo gia luôn phát triển, góp phần giáo dục nhân sinh
quan cho từng cá nhân, luôn tự răn mình phải làm người tốt, không để ảo
Tư tưởng Vô vi của Đạo gia - Ảnh hưởng lên đời sống xã hội ngày nay.
Nhóm 1 – Cao học đêm 9 Trang 20
ảnh hữu vi lôi kéo cám dỗ, lịch sử đã minh chứng có nhiều tấm gương
hành vô vi chi sự mà tên tuổi lưu mãi nghìn thu. Đạo Phật thường bảo
“không gây nghiệp chướng thì không phải trả nghiệp”, lời răn này thấy
sao giống lời của Lão bảo “đừng làm cái không nên làm” vì thế nói về lối
hành xử vô vi thì Phật - Lão tương đối giống nhau , có khác chăng chỉ là
mục đích cuối cùng của hai đạo.
Không những thế đạo Lão còn quan niệm về cái tâm của con người:
“Tướng do tâm sanh
Tâm tịnh Thần sáng
Thần sáng Trí minh
Tâm bất tịnh, Thần suy
Thần bất tịnh Trí bất minh”.
Cũng tương tự như Phật giáo với quan niệm “Nhất thiết duy tâm tạo” , tất
cả đều do tâm này làm chủ tạo tác những thiện nghiệp hoặc ác nghiệp.
Nó tương ứng với những hành nghiệp mà chúng sanh đó đã tạo thiện hay
bất thiện mà hiện tướng “thần minh trí sáng”. Có thể nói hai quan điểm
về tâm của hai tư tưởng tương tự nhau, đó là điểm tương đồng. Ông
khuyên “tri nhân giả trí, tự tri giả minh”, nghĩa là biết người khác chỉ
mới là trí, nhưng tự biết mình thì mới là sáng. Như vậy ông chú trọng đến
việc tự chinh phục bản thân hơn là chinh phục kẻ khác. Nên bằng lòng
với cái mình có, “tri túc chi túc hà thời túc, tri nhàn chi nhàn hà thời
nhàn”, nghĩa là biết đủ thì đủ và lúc nào cũng đầy đủ cả, biết nhàn thì
nhàn và lúc nào cũng nhàn cả. Một đặc tính căn bản của sách lược vô vi
của Lão Tử là tiết kiệm. Thánh nhân không phí sức, phí công thi triển tài
năng, mà ngược lại thì tằn tiện trong mọi trường hợp để bồi bổ, nuôi
dưỡng ngay cả trong lúc phải thi thố tài năng. Sự sung mãn, dồi dào đến
từ nỗ lực tiết kiệm lâu dài sẽ đem đến thắng lợi. Đạo Phật cũng khuyên
Tư tưởng Vô vi của Đạo gia - Ảnh hưởng lên đời sống xã hội ngày nay.
Nhóm 1 – Cao học đêm 9 Trang 21
người nên biết đủ với những gì mình đã có, không lãng phí mà biết giữ
gìn phước về sau. Sự tạo phước rất khó khăn nên phải biết tích trữ phước,
nếu không khi phước không còn thì ắt phải bị đọa lạc.
2. Ảnh hưởng của Tư tưởng vô vi của Đạo gia lên xã hội thời này
Đạo của Lão Tử vạch một lối thoát cho những ai, là kẻ bất mãn thế cuộc nhiễu
nhương, đầy cạm bẫy như thời Xuân Thu Chiến Quốc, có được một lẽ sống
riêng, hợp với bản chất chân thật của mình. Đồng thời tránh được lối phản
kháng bằng hành động phạm pháp cá nhân, hoặc bạo lực tập thể, khiến cho xã
hội mà mình đã bất mãn càng thêm hỗn loạn, rối ren.
Tuy nhiên, thuyết "vô vi" của Lão Tử dễ bị người ta mượn cớ trốn tránh trách
nhiệm, nhất là những người công chức ăn lương nhà nước, lại có tâm lý tiêu
cực, họ bảo nhau: "Ít làm ít lỗi, chẳng làm thì không có lỗi".
Tư tưởng Vô vi của Đạo gia - Ảnh hưởng lên đời sống xã hội ngày nay.
Nhóm 1 – Cao học đêm 9 Trang 22
Chương 3
ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG VÔ VI LÊN
ĐỜI SỐNG XÃ HỘI NGÀY NAY
Tư tưởng Vô vi là hành động được tiến hành theo hai nguyên tắc:
Không hành động cố sức, để khỏi phung phí năng lực;
Không hành động ngược lại với tự nhiên.
1. Trong thái độ, quan niệm sống và hành động
Tư tưởng vô vi giúp con người nhận thức tự nhiên, xã hội và ứng xử phù hợp
với quy luật của tự nhiên và sự phát triển của xã hội. Đồng thời, giúp con người
nhận thức bản thân mình trong mối quan hệ với đời sống tâm linh, giúp con
người cân bằng tâm hồn mình.
Vô vi là kỹ năng làm cho mọi sự trông có vẻ dễ dàng. Nó là nghệ thuật hành
động hoàn toàn không tự ý thức. Vô vi là sống tự tin và hồn nhiên. Trong trạng
thái vô vi, “làm mà như không làm”, tâm trí thao tác rất nhanh và rất hữu hiệu,
tới độ ta không có thời giờ bắt kịp nó, và như thế, ta hoàn toàn tín nhiệm vào
những gì đang xảy ra.
Ảnh hưởng tích cực: con người liên tục rèn dũa để hoàn thiện bản thân, cải thiện
các kỹ năng: ví dụ như Lúc mới tập đi xe đạp, ta càng cố vặn người giữ thăng
bằng thì chiếc xe càng nghiêng, dễ ngã. Ta cố tránh hòn đá nhỏ giữa đường
nhưng sao bánh xe lại cứ xăm xăm chạy tới cán lên trên nó. Khi đã đạp xe thành
thạo, ta chỉ cần ý động là xe chuyển. Thậm chí đạt tới mức “đi xe”, buông hai
tay khỏi “ghi-đông”, ta vẫn có thể dùng ý để chuyển hông, cho xe lạng lách theo
ý muốn của mình.
Trong thời đại ngày nay, con người đôi lúc phải dùng trực giác để ra quyết định.
Cũng như theo quan niệm của vô vi, hành động là tự phát hoặc tự nhiên, không
phải là kết quả sự toan tính, cân nhắc. Đặc biệt trong những hoàn cảnh bế tắc,
Tư tưởng Vô vi của Đạo gia - Ảnh hưởng lên đời sống xã hội ngày nay.
Nhóm 1 – Cao học đêm 9 Trang 23
con người thời hiện đại đã suy tính tất cả mọi phương án và lựa chọn nhưng
không thể đưa ra kết luận cuối cùng, chính việc hành động và quyết định theo
bản năng sẽ giúp giảm bớt áp lực cho người đó, và nội tâm sẽ không phải ray rứt
khi đứng giữa ngã ba đường.
Thái độ đánh giá tính khả thi trước khi thực hiện: cũng như Trang Tử đã lập
luận rằng nếu cảm thấy không thể hành động có hiệu quả thì đừng làm, nếu
chẳng thể làm được gì thì cứ ở yên, đừng làm gì cả.
Ảnh hưởng tiêu cực: cũng chính do sự ảnh hưởng của tư tưởng này mà con
người phương Đông thường thụ động hơn người phương Tây, không có ý chí
chinh phục, cố gắng để đạt được mục tiêu đề ra. Mọi sự vật, hiện tượng đều
thường được đánh giá một cách trực quan rồi gán ghép cho nó rằng khó hay dễ,
hành động một cách tự nhiên không suy tính, từ đó gây ra nhiều hậu quả nghiêm
trọng, hoặc kết quả đạt được không như mong muốn, đẩy lùi sự phát triển của
xã hội.
Thuyết "vô vi" của Lão Tử dễ bị con người mượn cớ trốn tránh trách nhiệm,
nhất là những người công chức ăn lương nhà nước, lại có tâm lý tiêu cực, họ bảo
nhau: "Ít làm ít lỗi, chẳng làm thì không có lỗi".
“Việc khó trong đời, khởi nơi chỗ dễ.
Việc lớn trong đời, khởi nơi chỗ nhỏ.”
Trước khi tiến hành bất cứ việc gì, con người nên suy xét, đánh giá vấn đề, lựa
chọn phương cách và trình tự thực hiện từ dễ đến khó, từ lớn đến nhỏ. Thời kỳ
đầu quá độ lên CNXH ở Việt Nam là một ví dụ điển hình khi không đi theo con
đường từ Phong kiến – TBCN – XHCN, đã đưa đến không ít sai lầm và thất bại
khi chủ quan, duy ý chí, phủ định sạch trơn chủ nghĩa tư bản.
Sự phân biệt giữa thiện và ác: Nho gia và Ðạo gia có hai lối tiếp cận đạo đức
học khác nhau triệt để. Là người nhập thế, Nho
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tư tưởng Vô vi của Đạo gia - Ảnh hưởng lên đời sống xã hội ngày nay.pdf