Tiểu luận Vài nét về chương trình hỗ trợ lãi suất 2009 của Chính phủ và tác động của nó đến các doanh nghiệp

MỤC LỤC

MỤC LỤC 1

Phần I: MỞ ĐẦU 2

Phần II: NỘI DUNG 4

I. Lãi suất – công cụ hiệu quả điều tiết nền kinh tế 4

1. Lý thuyết chung về lãi suất 4

2. Ảnh hưởng của lãi suất đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 6

II. Chương trình hỗ trợ lãi suất của Việt Nam 8

1. Bối cảnh thực hiện: khủng hoảng kinh tế vĩ mô Việt Nam và thế giới (cuối năm 2008) 8

a. Tình hình thế giới 8

b. Tình hình Việt Nam 9

2. Nội dung chương trình hỗ trợ lãi suất 11

a. Hỗ trợ vay vốn ngắn hạn 12

b. Hỗ trợ vay vốn trung và dài hạn 12

3. Tình hình giải ngân của chương trình hỗ trợ lãi suất 6 tháng đầu năm 2009 14

Bảng: Tiến độ giải ngân gói kích cầu từ tháng 03 tới tháng 06 năm 2009 14

III. Tác động của chương trình hỗ trợ lãi suất tới hoạt động sản xuất kinh doanh 17

1. Tác động tích cực 17

2. Tác động tiêu cực 19

IV. Đánh giá chung về chương trình hỗ trợ lãi suất và một số giải pháp đề xuất 21

1. Đánh giá chương trình hỗ trợ lãi suất 21

a. Ưu điểm 21

b. Nhược điểm 22

2. Một số giải pháp đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả của chương trình 24

Đối với các ngân hàng thương mại: 25

Đối với các doanh nghiệp: 25

Đối với các cơ quan quản lý vĩ mô: 26

Phần III: KẾT LUẬN 27

Danh mục tài liệu tham khảo: 28

 

 

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1983 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vài nét về chương trình hỗ trợ lãi suất 2009 của Chính phủ và tác động của nó đến các doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể bán cho các nhà đầu tư. Các ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại mua MBS đồng thời cho quỹ rủi ro và nhà đầu tư khác vay để mua MBS. Khi giá nhà giảm, thị trường chứng khoán đóng băng vào năm 2007, các ngân hàng phát hiện trong sổ sách có khoảng 600 tỷ USD tài sản tài chính được thiết kế trên các MBS, CDO… và các loại chứng khoán khác mà giá trị của chúng không thể xác định được. Tổng mệnh giá của chúng lên tới 2500 tỷ USD, do ngân hàng và các nhà đầu tư nắm giữ. Tình trạng nợ xấu và xiết nợ giữa các ngân hàng và các hộ gia đình làm cho “bong bóng kinh tế Mỹ” vốn đã phình to càng trở nên dễ vỡ. Khi tình trạng mất ổn định xảy ra, người ta soi xét giá trị nền tảng của nhiều loại công cụ tài chính. Giá thị trường của các hợp đồng phái sinh tăng từ 75000 tỷ USD trong năm 1997 lên tới 600000 tỷ USD trong năm 2007, tức là gấp hơn 10 lần GDP toàn cầu. Tình trạng thiếu hụt thanh khoản ngay sau đó đẩy nền công nghiệp ô tô Mỹ tới bờ vực phá sản, các hãng ô tô châu Âu, Nhật Bản , Hàn Quốc, Trung quốc cũng phải nhận hỗ trợ từ chính phủ. Doanh số bán hàng các công ty sụt giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên. Sau sự sụp đổ của Lehman Brother – ngân hàng đầu tư lớn nhất của Mỹ, ngày 15/9/2008 thì cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ đã lộ rõ thành một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hết sức nghiêm trọng, cả về phạm vi, cấp độ, sức lan tỏa (Tổng số nợ thế chấp nhà ở được chứng khoán hóa vào năm 2006 đã lên tới 14.000 tỷ USD, tương đương GDP của Mỹ). Năm 2008, Mỹ cắt giảm 2 triệu việc làm, trong đó riêng tháng 11 là gần nửa triệu việc làm, tỷ lệ thất nghiệp bị đẩy lên tới 6,7%. Công nghiệp chế biến của Mỹ, khu vực đồng Euro, Anh, Nhật Bản và cả Trung Quốc đều suy giảm. Tới tháng 11/2008 xuất khẩu của Nhật Bản giảm 27% so với cùng kỳ năm trước, Đài Loan là 24% và Hàn Quốc là 18%. Singapore và Hong Kong liên tiếp giảm tốc độ tăng trưởng trong hai quý liên tiếp, Trung Quốc cũng phải đối mặt với suy giảm xuất khẩu sau 7 năm liên tục tăng trưởng, giá nhà Thượng Hải giảm tới 20% trong quý 3 năm 2008… Cuối năm 2008 nhiều nước châu Âu đã phải nhận trợ giúp của IMF. b. Tình hình Việt Nam: Trước tình hình khủng hoảng toàn cầu, Việt Nam cũng không nằm ngoài vùng ảnh hưởng do là một nước nhỏ, nhập siêu, có độ mở cửa cao (khoảng 160%), phụ thuộc nhiều vào kinh tế thế giới. Cuộc khủng hoảng có tác động xấu tới nền kinh tế Việt Nam qua các mặt chủ yếu sau: Thứ nhất, xuất khẩu có xu hướng giảm do Việt Nam có tới trên 50% nhu cầu xuất khẩu đến từ Mỹ, Nhật Bản và châu Âu (năm 2007: Mỹ 26%, Nhật 16%, châu Âu 19%) . Kim ngạch xuất khẩu Việt nam xấp xỉ 70% GDP nên sự suy giảm này có thể tác động mạnh tới kinh tế Việt Nam, đặc biệt là qua tiêu dùng. Thứ hai, dự trữ ngoại tệ của Việt Nam giảm do: đầu tư nước ngoài, du lịch và kiều hối đều có xu hướng giảm. Điều này tác động rất xấu tới một nền kinh tế nhỏ, mở cửa và có tỷ lệ “Đôla hóa” khá cao như Việt Nam. Vốn FDI đăng ký năm 2008 ở Việt Nam là 60 tỷ USD nhưng chỉ có một lượng nhỏ phần vốn này được giải ngân, Financial Times dự báo FDI toàn cầu sẽ giảm mạnh trong 2009, khoảng 15%. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam rơi vào tình trạng thiếu tín dụng trầm trọng, không thể vay hoặc phải trả lãi suất quá cao, có thể dẫn tới phá sản. Cuối cùng, ngân sách Chính phủ có thể bị thâm hụt lớn hơn do giá hàng hóa cơ bản giảm, nguồn thu từ các loại thuế đều có xu hướng giảm. Thuế VAT, thuế xuất nhập khẩu và thụ tiêu thụ đặc biệt chiếm tới 16% ngân sách Chính phủ đều giảm. Sự thâm hụt ngân sách kéo dài có thể đẩy nền kinh tế vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng hơn khi Chính phủ buộc phải tăng cung tiền để bù đắp bội chi ngân sách. Tóm lại, có thể thấy cuộc khủng hoảng làm suy giảm sản lượng của những nền kinh tế hàng đầu thế giới, kéo theo là đà suy giảm toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Tiêu dùng và đầu tư trong nước giảm, thương mại quốc tế, các dòng vốn và đầu tư bị thu hẹp… Nhiều nước được dự đoán sẽ có mức tăng trưởng âm trong năm 2009. Các nước đang phát triển giảm tăng trưởng khoảng 30%. Các nền kinh tế lớn đều hạn chế suy thoái bằng hạ lãi suất, khôi phục thanh khoản và chỉ tiêu ngân sách. Trong khi đó khủng hoảng toàn cầu lại làm Việt Nam bị giảm đầu tư trong nước và kim ngạch xuất khẩu nên sẽ bị giảm cầu nội địa. Năm 2008, nhiều chỉ số kinh tế của Việt Nam diễn biến phức tạp, không đạt mục tiêu kế hoạch: - GDP thực tế tăng 6,23% (trong khi năm 2007 là 8,48% và mục tiêu kế hoạch điều chỉnh là 7,0%), trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,79%, đóng góp 0,68 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,33%, đóng góp 2,65 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 7,2%, đóng góp 2,9 điểm phần trăm. Đặc biệt năm 2008 khu vực xây dựng gần như không có tăng trưởng. - Giá tiêu dùng tăng khá cao và diễn biến phức tạp; kết quả là giá tiêu dùng tháng 12 năm 2008 so với tháng 12 năm 2007 tăng 19,89% và chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm tăng 22,97%. - Bội chi ngân sách Nhà nước năm 2008 ước tính bằng 13,7% tổng số chi, trong đó 77,3% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và 22,7% được bù đắp từ nguồn vay nước ngoài. - Xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ đều tăng. Xuất khẩu tăng mạnh chủ yếu do giá thế giới tăng. Trong khi đó nhập khẩu hàng hóa nguyên vật liệu chững lại ở những cuối năm do sản xuất có dấu hiệu đình trệ, còn nhập khẩu hàng tiêu dùng có xu hướng tăng lại thể hiện sự “tấn công” của hàng tiêu dùng nước ngoài vào thị trường Việt Nam. Ước tính nhập siêu năm 2008 là 17,5 tỷ USD, tăng 24,1 % so với năm 2007, bằng 27,8% tổng kim ngạch xuất khẩu. - Thất nghiệp gia tăng, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi khu vực thành thị ước tính 4,65%. Thiên tai, dịch bệnh trên gia súc, gia cầm xảy ra liên tiếp thêm vào đó giá cả hàng hoá tiêu dùng, xăng dầu và vật tư nông nghiệp tăng cao đã tác động không nhỏ đến sản xuất và đời sống của nông dân. Theo báo cáo của các địa phương, năm 2008 cả nước có 957,5 nghìn lượt hộ thiếu đói, tăng 32,3% và 4 triệu lượt nhân khẩu thiếu đói, tăng 32,7% so với năm 2007. Có thể thấy mặc dù Việt Nam chưa hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới nhưng tác động của cuộc khủng hoảng tới tăng trưởng kinh tế nước ta là không nhỏ. Nếu Chính phủ không có những hành động đúng đắn can thiệp vào nền kinh tế thì Việt Nam có thể sẽ suy giảm mạnh trong 2009 (hầu hết các tổ chức quốc tế như Ngân hàng phát triển châu Á ADB, quỹ tiền tệ thế giới IMF, BMI, Citigroup đều dự đoán năm 2009 Việt nam chỉ đạt mức tăng trưởng khoảng 5%, nhiều tổ chức còn đưa ra những con số thấp hơn). Do đó việc kích thích tổng cầu, tăng đầu tư là một trong những chiến lược tất yếu nhằm nhanh chóng đưa Việt Nam ra khỏi khủng hoảng và tăng trưởng ổn định trở lại. Một trong những hành động kích thích nền kinh tế đầu tiên của Việt Nam là chương trình hỗ trợ lãi suất 4% cho các hoạt động đầu tư. 2. Nội dung chương trình hỗ trợ lãi suất: Chương trình hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản suất - kinh doanh. Đây là một quyết định quan trọng của Chính phủ trong gói kích cầu và duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm giảm giá thành sản phẩm và tạo việc làm năm 2009. a. Hỗ trợ vay vốn ngắn hạn: Ngày 23/01/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 131/QĐ-NHNN về việc cho vay vốn ngắn hạn cho hoạt động sản xuất kinh doanh với nội dung như sau: - Các tổ chức tín dụng thực hiện chương trình cho vay theo quy định của pháp luật bao gồm tất cả các loại hình ngân hàng thương mại đang hoạt động tại Việt Nam: Ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng thương mại Cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, ngân hàng 100% vốn nước ngoài và Quỹ tín dụng nhân dân trung ương. - Đối tượng vay vốn: tất cả các tổ chức (doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ gia đình …), cá nhân vay vốn lưu động để sản xuất - kinh doanh, đặc biệt chú trọng khu vực sản xuất vật chất, xuất khẩu. - Các khoản vay: chương trình hỗ trợ cho các khoản vay ngắn và trung hạn bằng VND theo các hợp đồng tín dụng được ký kết và giải ngân trong năm 2009. - Thời hạn vay được hỗ trợ lãi suất tối đa là 8 tháng đối với các khoản vay theo hợp đồng tín dụng được ký kết và giải ngân trong khoảng thời gian từ 1/2/2009 - 31/12/2009. -  Mức hỗ trợ lãi suất cho khách hàng vay là 4%/năm, tính trên số tiền vay và thời hạn cho vay thực tế nằm trong khoảng thời gian quy định nêu trên; khi thu lãi cho vay, các ngân hàng thương mại giảm trừ số tiền lãi phải trả cho khách hàng vay. - Tổng giá trị chương trình hỗ trợ là 17000 tỷ đồng (1 tỷ USD trong tổng 8 tỷ USD của gói kích cầu – xấp xỉ 10% GDP), tương đương với khoảng 420000 tỷ đồng vốn vay sẽ được giải ngân. b. Hỗ trợ vay vốn trung và dài hạn: Bổ sung cho chương trình hỗ trợ vốn vay ngắn hạn, ngày 04/04/2009 các NHTM bắt đầu thi hành hỗ trợ lãi suất cho vay vốn trung và dài hạn theo tinh thần quyết định 443/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Nội dung của Quyết định tương tự như việc cho vay vốn ngắn hạn. - Các khoản vay được hỗ trợ lãi suất là vay trung, dài hạn bằng đồng Việt Nam. - Đối tượng vay vốn: các tổ chức, cá nhân thực hiện đầu tư mới để phát triển sản xuất - kinh doanh, kết cấu hạ tầng theo các hợp đồng tín dụng ký kết trước và sau ngày 1/ 4 2009, được giải ngân (một hoặc nhiều lần) trong khoảng thời gian từ ngày 1/4 đến 31/12/2009, thuộc các ngành, lĩnh vực kinh tế:  Ngành nông, lâm nghiệp Ngành thủy sản Công nghiệp khai thác mỏ Ngành công nghiệp chế biến Ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước Ngành xây dựng( trừ công trình xây dựng văn phòng(cao ốc) cho thuê, công trình xây dựng, sửa chữa mua nhà để bán) Ngành thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình Ngành vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc Hoạt động khoa học và công nghệ - Mức lãi suất hỗ trợ cho khách hàng vay là 4%/năm, tính trên số tiền vay và thời hạn cho vay thực tế. - Thời gian thực hiện: từ ngày 01 tháng 4 năm 2009 đến 31 tháng 12 năm 2011. - Thời hạn vay được hỗ trợ lãi suất tối đa là 24 tháng, kể từ ngày giải ngân đối với các khoản vay theo hợp đồng tín dụng ký kết trước và sau ngày 01 tháng 4 năm 2009 mà được giải ngân trong khoảng thời gian từ ngày 01 tháng 4 đến 31 tháng 12 năm 2009. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang lâm vào suy thoái việc thực hiện kích cầu nhằm vào bảo đảm an sinh xã hội, đặc biệt hướng tới hỗ trợ người nghèo, cho đồng bào ở vùng sâu, vùng xa...là định hướng rất đúng đắn của Chính phủ. Cụ thể 420000 tỷ đồng vốn vay hỗ trợ 4% lãi suất cho hoạt động sản xuất kinh doanh có thể được coi là hành động tương đối “mạnh tay” của Việt Nam đầu năm 2009. Tuy nhiên, theo ý kiến của nhiều chuyên gia, gói kích cầu sẽ phản tác dụng nếu chúng ta chi tiêu không hiệu quả và sẽ gây ra tái lạm phát cao do cơ sở hạ tầng Việt Nam con nhiều yếu kém và bất cập. Việc tăng tín dụng đột ngột sẽ tạo đà cho lạm phát quay trở lại và khuyến khích nhập khẩu trong khi nguồn dự trữ ngoại tệ của Việt Nam rất thấp (khoảng 250 USD/người, so với 1500USD/người của Trung Quốc) khó có thể tài trợ cho nhập khẩu. Bên cạnh đó tín dụng tăng nhanh sẽ tạo ra bong bóng tài sản, đạc biệt là trên thị trường chứng khoán và bất động sản, ảnh hưởng tới sự bền vững của tăng trưởng. Để tránh tình trạng thất thoát, lãng phí các nguồn vốn vay, gia tăng gánh nặng nợ nần và các hiện tượng "đầu cơ nóng" với các dự án vay chất lượng thấp hoặc triển khai kém, giải ngân không đúng mục đích; Chính phủ cần theo sát hoạt động của chương trình, đảm bảo cho vay kịp thời, đúng đối tượng, hiệu quả. Nếu thực hiện tốt thì gói kích cầu sẽ tạo ra “cú hích” thúc đẩy tăng trưởng, đảm bảo cân đối vĩ mô và còn có thể kiểm soát được lạm phát. 3. Tình hình giải ngân của chương trình hỗ trợ lãi suất 6 tháng đầu năm 2009: Có thể nói gói kích cầu là một chiếc phao cứu hộ cho một tỷ lệ không nhỏ các doanh nghiệp, bởi theo số liệu thống kê thì trong năm 2008 có tới hơn 30% các doanh nghiệp nhỏ và vừa làm ăn thua lỗ, nợ đọng kéo dài, thậm chí đứng trên bờ vực phá sản. Tuy nhiên, việc thực hiện chương trình đã thực sự hiệu quả hay chưa? Trước hết chúng ta nhìn lại tiến độ giải ngân sau gần 4 tháng thực hiện chương trình hỗ trợ lãi suất qua bảng 1. Bảng 1: Tiến độ giải ngân gói kích cầu từ tháng 03 tới tháng 06 năm 2009 (Đơn vị: tỷ đồng) Stt Ngày NHTM nhà nước và Quỹ tín dụng nhân dân TW Ngân hàng thương mại cổ phần NH liên doanh, NH nước ngoài Công ty tài chính Tổng dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất Dư nợ Tăng Dư nợ Tăng Dư nợ Tăng Dư nợ Tăng Dư nợ Tăng 1 28/02/2009 72630 18854 1543 93027 2 6/3/2009 89430 16800 22607 3753 1669 126 113708 20681 3 13/3/2009 114537 25107 26837 4230 2938 1269 144312 30604 4 20/3/2009 115659 1122 31731 4894 4513 1575 151903 7591 5 26/3/2009 133602 17943 37265 5534 7559 3046 296 178722 26819 6 3/4/2009 151010 17408 42141 4876 8633 1074 347 51 202131 23409 7 10/4/2009 162256 11246 46128 3987 9669 1036 371 24 218424 16293 8 16/4/2009 175934 13678 50316 4188 10096 427 474 103 236820 18396 9 23/4/2009 187660 11726 55245 4929 11042 946 953 479 254900 18080 10 29/4/2009 197709 10049 58443 3198 11447 405 1186 233 268776 13876 11 7/5/2009 202773 5064 60851 2408 11975 528 1074 -111.8 276673 7897 12 14/5/2009 212298 9525 65647 4796 12774 799 1167 93.22 291886 15213 13 21/5/2009 218472 6174 67476 1829 13768 994 1665 497.9 301382 9496 14 28/5/2009 230597 12125 71408 3932 15068 1300 2002 336.3 319075 17693 15 4/6/2009 240032 9435 73953 2545 15619 551 2303 301.3 331907 12832 16 11/6/2009 243531 3499 75901 1948 16287 668 2712 409 338431 6525 (Nguồn: Tổng hợp từ Website Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) Ngay sau khi chương trình bắt đầu, để đẩy nhanh tiến độ thực hiện, Ngân hàng nhà nước đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn cụ thể tới các NHTM (1436/NHNN ngày 03/03, Thông tư số 05/2009/NHNN ngày 7/4/2009) thực hiện nghiêm túc các thủ tục hỗ trợ lãi suất, kiểm soát các khoản vay và công bố công khai các trường hợp từ chối hỗ trợ, tăng cường tiến độ giải ngân. Từ bảng có thể thấy tín độ giải ngân không đồng đều qua các tuần, tăng dư nợ hàng tuần của các khối ngân hàng đều biến động phức tạp do chịu nhiều tác động của thị trường trong nước và thế giới. Các khoản vay tập trung nhiều trong tháng 03 và sau đó có xu hướng giảm. Tính tới 11/06 tổng dư nợ cho vay đã thực hiện là 338431 tỷ đồng Trong đó, khối NHTM nhà nước và Quỹ tín dụng nhân dân TW đạt gần 72% (243531 tỷ đồng), khối NHTM chỉ chiếm 75901 tỷ đồng, tương đương 22,4%, còn lại NH có vốn nước ngoài và các công ty tài chính lần lượt chiếm 4,8% và 0,8%. Những con số trên cho thấy vai trò đi đầu trong khôi phục kinh tế của khối NHTM nhà nước với quy mô và thị phần lớn. Đồng thời chúng cũng thể hiện sự thận trọng trong quá trình cho vay của các tổ chức tín dụng ngoài nhà nước. Theo đối tượng khách hàng vay vốn: Tính tới ngày 18/06 Doanh nghiệp Nhà nước 53.724,58 tỷ đồng, tăng 1.369,28 tỷ đồng (tương đương tăng 2,61% so với ngày 11/6/2009); doanh nghiệp ngoài nhà nước (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài …) 230.421,85 tỷ đồng, tăng 5.872,77 tỷ đồng (tương đương tăng 2,61%); hợp tác xã 2.604,62 tỷ đồng, tăng 66,39 tỷ đồng (tương đương tăng 2.61%); hộ gia đình, cá nhân 59.420,01 tỷ đồng, tăng 1.514,44 tỷ đồng (tương đương tăng 2.61%); tổ chức khác 1.111,3 tỷ đồng, tăng 28,32 tỷ đồng (tương đương tăng 2.61%). Có thể nói sau hơn 4 tháng thực hiện, các tổ chức tín dụng đã cho vay được một lượng vốn vay tương đối lớn, 338431 tỷ đồng vốn vay đó nếu đến đúng điểm và được sử dụng hợp lý thật sự sẽ có tác dụng rất lớn trong khôi phục kinh tế và chống suy thoái ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc cấp tín dụng và sử dụng nguồn vốn vay của các doanh nghiệp vẫn tồn tại một số điểm sẽ được xem xét, đề cập trong những mục sau. III. Tác động của chương trình hỗ trợ lãi suất tới hoạt động sản xuất kinh doanh: 1. Tác động tích cực: Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới khủng hoảng, nền kinh tế Việt Nam có nguy cơ đi vào suy thoái, chương trình hỗ trợ lãi suất của Chính phủ cho các doanh nghiệp thực sự là một chương trình cấp thiết, có ý nghĩa trong việc khôi phục kinh tế. Nhìn vào toàn bộ nền kinh tế, sau hơn 4 tháng thực hiện, chương trình đã tạo ra nhiều tác động tích cực đối với nền kinh tế, đóng góp một phần không nhỏ vào công cuộc chống suy thoái của Việt Nam. Xét tổng thể nền kinh tế ta có thể thấy những tác động tích cực sau: Thứ nhất, về tình hình sản xuất hàng hóa và dịch vụ: Theo báo cáo mới nhất của mình, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo kinh tế toàn cầu tiếp tục lún sâu vào suy thoái với mức tăng trưởng năm nay sẽ là âm 1,3%, thấp nhất trong vòng hơn 60 năm trở lại đây. Trong bối cảnh âm u đó, thực sự nước ta đã đạt được những kết quả khá đáng khích lệ: - GDP của quý I năm 2009 là 311,136 nghìn tỷ đồng, tăng 3,1% so cùng kỳ năm 2008. Trong đó khu nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,4%; công nghiệp và xây dựng tăng 1,5%; riêng khu vực dịch vụ tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2008; đóng góp 42,8% GDP. - Tháng 4-2009 giá trị sản lượng công nghiệp tăng 5,4% so cùng kỳ, gộp cả 4 tháng đầu năm thì công nghiệp tăng được 3,3% so cùng kỳ. Khu vực nông nghiệp-nông thôn đã được chú trọng đầu tư; chính sách hỗ trợ lãi suất đã duy trì được nhịp điệu sản xuất kinh doanh và đảm bảo công ăn việc làm. Đặc biệt, 4 tháng đầu năm nay nước ta đã xuất khẩu được hơn 2 triệu tấn gạo và dự kiến cả năm sẽ xuất khoảng 5,5 triệu tấn, tăng nửa triệu tấn so với năm 2008. Giá thu mua lúa gạo cũng tăng nhẹ đã cải thiện được đời sống cũng như tạo thêm sự phấn khởi cho bà con nông dân. Kim ngạch xuất khẩu cả nước 4 tháng đầu năm đạt 18,64 tỷ USD, xấp xỉ cùng kỳ và một số mặt hàng có dấu hiệu tăng trưởng như dệt may, gạo, chè, hạt tiêu… - Tính chung 5 tháng đầu năm giá trị sản xuất công nghiệp đạt 265,64 nghìn tỷ đồng, tăng 4% so với cùng kỳ năm trước. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản cũng tăng nhẹ, ước tính khoảng 0,8-1%. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tính chung 5 tháng đầu năm đạt 452,3 nghìn tỷ đồng, tăng 21% so với cùng kỳ. Kim ngạch xuất khẩu tháng 5 đạt 4,4 tỷ USD, tăng 2,8% so với tháng trước. Có thể thấy trong bối cảnh kinh tế toàn cầu mất ổn định, chính sách kích cầu của Chính phủ đã có tác dụng vào nền kinh tế nước nhà, giữ cho hoạt động sản xuất kinh doanh dần khôi phục sau một năm 2008 đầy sóng gió và thử thách. Mặc dù chỉ là những biến đổi nhỏ nhưng đây là dấu hiệu cho thấy nền kinh tế đang tăng trưởng khả quan, các giải pháp kích cầu đã phát huy tác dụng. Những mặt tích cực trên cho thấy nước ta đã đạt được hai mục tiêu cơ bản là ngăn chặn được sự suy giảm kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội. Thêm vào đó, sau quyết định 131 về việc hỗ trợ lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, quyết định số 443-TTG về việc mở rộng hỗ trợ lãi suất 4% cho cả hoạt động trung và dài hạn lại hứa hẹn một tình hình sản xuất kinh doanh khả quan hơn cho các doanh nghiệp. Thứ hai, về tình hình giá cả thị trường: Theo đánh giá của Bộ Công Thương vào tháng 4/2009, chương trình hỗ trợ lãi suất đã giúp nhiều doanh nghiệp giảm chi phí vay vốn tới khoảng 35%, giá thành sản phẩm giảm từ 2-5%. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5 năm 2009 tăng 0,44% so với tháng trước và tăng 5,58% so với cùng kỳ. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 5 tháng đầu năm 2009 tăng 11,59% so với 5 tháng đầu năm 2008. Như chúng ta đã biết, chỉ số giá tiêu dùng là một thước đo khá tốt về tình hình kinh tế, khi CPI tăng thì mức sống của người dân được cải thiện. Một nền kinh tế có chỉ số giá tiêu dùng giảm là một nền kinh tế bất ổn và đáng lo ngại. Năm 2008, tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam ở mức khá cao, trong khi đó CPI 3 tháng cuối năm lại có xu hướng giảm dần. Cụ thể là tháng 10/2008 CPI Việt Nam giảm 0,19% so với tháng 9, sau đó tiếp tục giảm 0,76% vào tháng 11 và 0,68% vào tháng 12, đó thực sự là một bức tranh ảm đạm của nền kinh tế Việt. Sang năm 2009, sau khi chính sách kích cầu của Chính phủ được tung ra CPI đã dần tăng trở lại, thị trường trong nước lại nóng dần lên. Điều này là một tín hiệu tốt cho việc phục hồi của nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng. Thông qua giảm chi phí đầu vào, giá thành sản phẩm của doanh nhiệp giảm, cầu hàng hóa tăng lên vừa kích thích nền kinh tế phát triển và vừa làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Sau cái nhìn toàn bộ tổng thể nền kinh tế, chúng ta có thể tìm hiểu về thực trạng các doanh nghiệp những tháng đầu năm 2009. Các chuyên gia nhận định nhiều doanh nghiệp đang tăng tốc đón đầu phục hồi kinh tế. Đợt kích cầu đầu tiên với một lượng vốn đáng kể được rót vào thị trường đã giải quyết được khá nhiều vấn đề. Sau đó, chương trình hỗ trợ vốn trung và dài hạn đã làm cho cộng đồng doanh nghiệp có thêm nhiều niềm tin và động lực làm việc mặc dù thực tế vẫn chưa như ý. Nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn vay vốn để tái khởi động các dự án bị hoãn trước đây do kẹt vốn; các ngành thương mại, dịch vụ, tài chính đang “hồi sinh”, dần tăng trưởng trở lại… Tháng 4 và tháng 5, công tác xúc tiến đầu tư và thương mại cũng nhộn nhịp hẳn lên với nhiều đoàn nhà đầu tư nước ngoài đến tìm hiểu cơ hội hợp tác. Hàng loạt doanh nghiệp công bố kết quả hoạt động kinh doanh khả quan vào tháng 4 như Tổng công ty Hóa chất Việt Nam, cho biết, riêng quý I năm nay, lượng phân bón tiêu thụ của doanh nghiệp đã tăng gấp ba lần quý IV năm 2008, đạt 900.000 tấn các loại. Tổng công ty Máy và thiết bị công nghiệp cũng công bố giá trị sản xuất đạt 56,8 tỷ đồng, tăng 64% so với tháng 3… Bên cạnh đó, mặt hàng vật liệu xây dựng đã thoát khỏi tình trạng ế ẩm của năm 2008. Năm tháng đầu năm, toàn ngành xây dựng thực hiện 41.398 tỷ đồng giá trị sản xuất kinh doanh, bằng 35% kế hoạch năm và bằng cùng kỳ năm 2008, trong đó một số đơn vị có sản lượng cao là Tổng Công ty Sông Đà, Tổng Công ty Xây dựng Hà Nội… 2. Tác động tiêu cực: Chính sách hỗ trợ lãi suất của chính phủ đến các doanh nghiệp có rất nhiều tác động tích cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng bên cạnh đó, chính sách này chưa hẳn đã là một liều thuốc tốt cho nền kinh tế. Việc được cấp cứu bằng nguồn vốn rẻ vô hình chung đã làm trì hoãn việc tái cấu trúc doanh nghiệp và ngân hàng – một nhiệm vụ “đau đớn” nhưng cần thiết. Chính sách này dường như là một sự bảo hộ với các doanh nghiệp trong nước, làm lỡ một cơ hội tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam vốn đã yếu kém trên trường thế giới. Không tự lực đối đầu với khó khăn, doanh nghiệp Việt Nam đến bao giờ mới trưởng thành? Việc thực hiện chương trình cũng còn nhiều điểm không công bằng. Nhìn vào kết quả hoạt động của các doanh nghiệp và tiến trình giải ngân ta thấy rằng vốn dùng cho hỗ trợ lãi suất chủ yếu chảy vào những doanh nghiệp quốc doanh. Các doanh nghiệp quốc doanh Việt Nam thực sự vẫn luôn hoạt động kém hiệu quả vì dựa dẫm vào nhà nước nay dường như lại được ưu ái hơn khi phải đối đầu với khó khăn, điều này thể hiện cơ chế còn quan liêu của nước ta. Không chỉ thế, bất công còn thể hiện ở chỗ trong QĐ-443 không cho phép các công ty cho thuê tài chính cho vay trong khi các công ty đó cũng là các tổ chức tín dụng, cũng hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Với các công ty tài chính, vốn dĩ họ đã chịu lép vế khi cạnh tranh với các NHTM trong cho vay, tài trợ dự án. Hơn thế nữa, xét trên tổng thể nền kinh tế, việc hỗ trợ các công ty tài chính cũng góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển vì thông qua các công ty này, các doanh nghiệp sản xuất cũng được thuê tư bản với giá rẻ hơn và hạ được giá thành sản phẩm. Ngoài những mặt tiêu cực đã nói ở trên, nguy cơ tái lạm phát sẽ hiện hữu trong những năm tới nếu sử dụng "gói kích cầu" kém hiệu quả, tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa nới lỏng cả về phạm vi và thời gian nhất là khi nền kinh tế Việt Nam và thế giới hồi phục trở lại, vì những nguyên nhân có tính cơ cấu của lạm phát trong nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nguyên vẹn.   IV. Đánh giá chung về chương trình hỗ trợ lãi suất và một số giải pháp đề xuất: 1. Đánh giá chương trình hỗ trợ lãi suất: a. Ưu điểm: Từ việc phân tích bối cảnh kinh tế Việt Nam, nội dung của chương trình, quá trình thực hiện và những tác động sơ bộ tới nền kinh tế có thể thấy được nhiều ưu điểm của chương trình hỗ trợ lãi suất của Chính phủ. Trong đó nổi bật những ưu điểm chủ yếu sau: Thứ nhất, trong bối cảnh Việt Nam đang lâm vào suy thoái kinh tế với khủng hoảng chung của kinh tế toàn cầu thì việc Chính phủ quyết định thực hiện kích cầu, tăng đầu tư, tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh là những hành động cần thiết, phù hợp với nhu cầu thực tiễn và xu hướng chung của thế giới. Đặc biệt, chương trình hỗ trợ lãi suất là chính sách “cứu sinh” cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam vượt qua khủng hoảng khi đang lâm vào tình trạng thiếu vốn, nợ nhiều và nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa thậm chí đang đứng trước nguy cơ phá sản vào thời điểm cuối năm 2008 – đầu năm 2009. Có thể nói đây là hành động thức thời của Việt Nam. Thứ hai, quá trì

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVài nét về chương trình hỗ trợ lãi suất 2009 của Chính phủ và tác động của nó đến các doanh nghiệp.doc
Tài liệu liên quan