Sau một năm gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển động tích cực để từng bước đáp ứng yêu cầu cam kết khi gia nhập WTO. Cụ thể ở một số nội dung cơ bản: Việc hoàn thiện khung pháp lý được khẩn trương thực hiện; Tăng trưởng GDP cả năm ước đạt 8,48%, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt mức kỷ lục và ước tăng 21,5% so với năm 2006; Thị trường tài chính nói chung tăng trưởng mạnh, trong đó thị trường chứng khoán đang ổn định và phát triển, vốn hoá có khả năng đạt xấp xỉ 50% GDP, nguồn vốn nước ngoài chảy vào Việt Nam nhiều hơn (cả FDI, thông qua thị trường chứng khoán và kiều hối)
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2981 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vài nét về tổ chức thương mại thế giới (WTO), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phán diễn ra rất gay go và quyết liệt nhưng cuối cùng đã đi đến thành công trên khía cạnh phù hợp với chủ trương của chính phủ và các cam kết của WTO.Cũng giống như các DN khác,các DN ngân hàng sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng cao nhưng ngược lại cũng có thêm nhiều cơ hội .Vậy làm thế nào để tận dụng thời cơ một cách tốt nhất và làm thế nào để ngăn chặn sự cạnh tranh của các đối thủ khác .
Vài nét về tổ chức thương mại thế giới(WTO)
1.Tìm hiểu chung:
Tổ chức Thương mại Thế giới (tiếng Anh: World Trade
Organization, viết tắt WTO)là một tổ chức quốc tế đặt trụ sở ở Genève, Thụy Sĩ, có chức năng giám sát các hiệp định thương mại giữa các nước thành viên với nhau theo các quy tắc thương mại. Hoạt động của WTO nhằm mục đích loại bỏ hay giảm thiểu các rào cản thương mại để tiến tới tự do thương mại. Ngày 13 tháng 5 năm 2005, ông Pascal Lamy được bầu làm Tổng giám đốc thay cho ông Supachai Panitchpakdi, người Thái Lan, kể từ 1 tháng 9 năm 2005. Tính đến ngày 25 thang 1 năm 2008, WTO có 153 thành viên. Mọi thành viên của WTO được yêu cầu phải cấp cho những thành viên khác những ưu đãi nhất định trong thương mại, ví dụ (với một số ngoại lệ) những sự nhượng bộ về thương mại được cấp bởi một thành viên của WTO cho một quốc gia khác thì cũng phải cấp cho mọi thành viên của WTO.
2.Nguyên tắc hoạt động
Không phân biệt đối xử
+)Đãi ngộ quốc gia:không được đối xử với hàng hoá và dịch vụ nước ngoài cũng như những người kinh doanh các hàng hoá và dịch vụ đó kém hơn mức độ đãi ngộ dành cho các đối tượng tương tự trong nứơc.
+)Đãi ngộ tối huệ quốc:các ưu đãi thương mại của một thành viên dành cho các thành viên khác cũng phải được áp dụng cho tất cả các thành viên trong WTO.
Tự do mậu dịch hơn nữa: dần dần thông qua đàm phán .
Tính dự đoàn thông qua liên kết và minh bạch :các quy định và quy chế thương mại phải được công bố công khai và thực hiện một cách ổn định .
Ưu đãi hơn cho các nước đang phát triển : giành những lợi nhuận và ưu đãi hơn cho các thành viên là các quốc gia đang phát triển trong khuôn khổ các chỉ định của WTO.
Thiết lập môi trường cạnh tranh bình đẳng cho thương mại giữa các nước thành viên .
Các doanh nghiệp ngân hàng trong điều kiện hiện nay(Việt Nam thành thành viên của WTO)
Theo cam kết ra nhập WTO ,các tổ chức tài chính tín dụng nước ngoài được tham gia ngày một mở rộng và sâu hơn trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Điều đó sẽ mang lại nhiều cơ hội cũng như sẽ đặt ra nhiều thách thức cạnh tranh khi hệ thống ngân hàng trong nước vốn còn quá nhỏ bé so với các ngân hàng nước ngoài.Sức ép đối với các ngân hàng trong nước sau khi Việt Nam ra nhập WTO:
Điểm mạnh của các ngân hàng trong nước:
Theo Ông Douglas A. Jaffe - Phó Giám đốc Dịch vụ tài chính khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của Financial Insights đã nhận định:
“Nhiều người cho rằng tham gia vào WTO thì sẽ khó khăn, nhưng tôi cho rằng đây là một cơ hội để tăng cường thêm hoạt động kinh doanh, hiểu biết trong ngành NH, học từ các mô hình tốt nhất của thế giới để các NH VN chọn ra mô hình tốt nhất cho mình. Ví dụ về các NH bên Trung Quốc dựa vào đối tác để học hỏi kinh nghiệm, tiếp cận môi trường mới. Tham gia vào WTO, vì thế, sẽ có thuận lợi.
Các NH VN có ưu thế mạnh là nắm vững khách hàng của mình, họ cần dựa vào đối tác nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm, mô hình để tạo ra các dịch vụ tốt hơn cho khách hàng.”
-Trước hết là mạng lưới.Các NHTM trong nước trước hết có một mạng lưới rộng khắp thông qua các chi nhánh và cơ sở giao dịch.
Vd: Đến nay mạng lưới hoạt động của VietinBank đã hoạt đông ở 56/64 tỉnh, thành phố trong cả nước với 3 sở giao dịch, 138 chi nhánh và gần 700 phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm.
-Thứ hai,các ngân hàng trong nước đã thiết lập được mối quan hệ với các hệ thống khách hàng .Mỗi ngân hàng đã có hệ thống khách hàng truyền thống để chăm sóc và ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ từ nhiều năm , đặc biệt là khối ngân hàng thương mại nhà nước .
-Thứ ba,với thâm niên hoạt động của mình ,các ngân hàng nội địa rất am hiểu tập quán phong tục ,tâm lý khách hàng Việt Nam. Đây là một lợi thế trong việc chăm sóc khách hàng.
Những hạn chế:
-Năng lực tài chính còn non yếu .Theo dự đoán của VAFI-Hiệp hội các nhà đầu tư Tài chính VN ,quy mô trung bình của hệ thống ngân hàng thương mại VN 5 năm tới chỉ vào khoảng 100triệu USD/ngân hàng , đây là khoảng cách rất xa so với mức trung bình 1-2 tỷ USD/ngân hàng ở các nước trong khu vực
-Thứ hai,các ngân hàng nước ngoài có thế mạnh về cung cấp dịch vụ ,trong khi các ngân hàng nội địa hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực tín dụng .Theo HSBC,doanh thu từ thanh toán quốc tế chiếm 1/3 tổng doanh thu của ngân hàng này,khách hàng là công ty Việt Nam cách đây 3 năm chỉ chiếm 3%,nay đã chiếm 50% trên tổng số khách hàng của HSBC,dự đoán 3 năm nữa tăng len 70%.
-Thứ ba,là vấn đề công nghệ .Các ngân hàng nước ngoài vượt khá xa về trình độ công nghệ ngân hàng với hệ thống máy móc thiết bị cũng như các ứng dụng công nghệ thông tin trong nghiệp vụ ngân hàng
-Thứ tư là trình độ quản lý.Yếu tố này liên quan về vấn đề nhân sự .VN còn thiếu rất nhiều các chuyên gia cao cấp trong lĩnh vực ngân hàng . Điều này không những đáng lo ngại cho các ngân hàng nội địa trong vấn đề quản lý ngân hàng mà còn là nguy cơ cạnh tranh nhân lực giữa các ngân hàng sẽ đẩy chi phí tiền lương,tiền công lao động lên cao.Các ngân hàng trong nước sẽ gặp khó khăn và phải đối mặt với sự chảy máu chất xám .Bên cạnh những điểm hạn chế này còn gọi là những nguy cơ tìêm ẩn nêu trên ,các ngân hàng trong nước còn gặp phải vấn đề đáng lo ngại nữa là thị phần co hẹp.
Những cơ hội và nguy cơ đối với doanh nghiệp ngân hàng hiện nay:
1.Cơ hội
a,Cơ hội trực tiếp:
Cơ hội cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng trong nước tiếp cận thị trường tài chính quốc tế đã phát triển ở mức cao hơn. Ðây là cơ hội để học tập và nâng cao trình độ quản trị và cung cấp dịch vụ, phát triển các loại hình và kỹ năng kinh doanh mới mà các ngân hàng trong nước chưa có hoặc có ít kinh nghiệm, như kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế, tín dụng thương mại quốc tế, dịch vụ ngân hàng điện tử, quản lý quỹ, môi giới tiền tệ, quản lý rủi ro, v.v.
Các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam cho phép các ngân hàng nước ngoài được đầu tư mua cổ phần của các ngân hàng trong nước. Do đó, đây cũng là cơ hội cho các ngân hàng trong nước tăng vốn, tiếp thụ kiến thức, kinh nghiệm và công nghệ hiện đại về quản lý và hoạt động ngân hàng, vì các ngân hàng nước ngoài được lựa chọn làm đối tác chiến lược đều là các ngân hàng lớn có danh tiếng.
Thống kê của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam, tính đến nay các Ngân hàng nước ngoài (NHNNg) đã có mặt tại Việt Nam dưới các hình thức: 34 chi nhánh NHNNg, 4 NH liên doanh và trên 40 văn phòng đại diện đến từ hơn 10 quốc gia, hiện tập trung chủ yếu tại TP: Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Hầu hết các NHNNg có mặt tại VN đều trong Top 1.000 ngân hàng lớn trên thế giới.
Tăng trưởng nhanh, sinh lời, và thâm nhập sâu vào thị trường - đó là những dấu hiệu khởi sắc của các chi nhánh NHNNg tại Việt Nam thời gian qua. Mới đây, HSBC - NHNNg lớn nhất tại Việt Nam đã chính thức mua lại 10% vốn điều lệ của Techcombank để trở thành nhà đầu tư chiến lược của NHCP này. Trước đó, ANZ đã mua cổ phần Sacombank; Standard Chartered mua cổ phần ACB, OCBC Singapore mua cổ phần của VPBank theo tỷ lệ 10% vốn điều lệ...Xu hướng này đang tiếp diễn rất khả quan với việc một số NHNNg khác cũng đang tiếp cận và sẽ sớm tham gia các NHTMCP khác (giới quan sát đang dự đoán tới đây có thể là Citibank ở NHCP Đông Á -PV ).
Đặc biệt, các Cty tài chính nước ngoài cũng bắt đầu bày tỏ mối quan tâm và tìm hiểu để thành lập Cty tài chính 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Những cuộc “kết hôn” giữa NH “nội” và NH “ngoại”, theo các chuyên gia, chính là sự chuẩn bị khôn ngoan của các NHNNg để đặt chân vào thị phần vốn rất màu mỡ mà các NH nội đang chiếm giữ.
Trước thực tế này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) khi soạn thảo nghị định mua bán cổ phần NH trong giai đoạn hiện nay đã nhất quán: giữ nguyên hạn mức sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các NHTM niêm yết trên sàn chứng khoán khống chế “room” ở mức 30% (các đối tác đàm phán WTO đã chấp nhận - PV).
Theo tính toán, đến cuối năm 2005, thị phần của các chi nhánh NHNNg xét về dư nợ khoảng hơn 9%, tăng gần 1% so với năm 2004. Tổng dư nợ của tất cả chi nhánh NHNNg tăng gần 30% so với năm ngoái, với tổng giá trị cho vay lên tới 49.000 tỷ VND; trong đó tỷ lệ nợ quá hạn giảm từ hơn 0,1% xuống chỉ còn 0,06%.
Bên cạnh đó, huy động vốn của chi nhánh cũng tăng hơn 20%, chủ yếu từ nguồn tiền gửi (nhất là của tổ chức và doanh nghiệp); tỷ lệ khách hàng là DN hiện nay trên 70%, thậm chí đến 100%.
b,Cơ hội gián tiếp:
Tạo cơ hội và thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước tích cực cạnh tranh thị trường để tồn tại và phát triển, không chỉ ở trong nước mà còn mở rộng hoạt động ra khu vực và thế giới. Các doanh nghiệp này (cả trong nước và nước ngoài) sẽ trở thành các khách hàng tiềm năng của ngân hàng. Ngân hàng là nhà cung cấp dịch vụ. Vì vậy, ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng sẽ có điều kiện phát triển tốt khi khách hàng - những người sử dụng dịch vụ của họ làm ăn tốt và phát triển.
2.Nguy cơ- thách thức
Hiện nay, số lượng các ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam đã khá nhiều, hơn 30 ngân hàng. Tuy nhiên, quy mô về vốn và hoạt động vẫn còn nhỏ bé, do đó hạn chế khả năng mở rộng mạng lưới trong nước và quốc tế, đầu tư phát triển công nghệ ngân hàng hiện đại để đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ cũng như mở rộng đối tượng khách hàng.
Các ngân hàng trong nước vẫn chỉ tập trung vào các dịch vụ huy động và cho vay truyền thống, chất lượng dịch vụ chưa cao. Trong khi đó, trước sự tham gia thị trường ngày càng sâu rộng của các ngân hàng nước ngoài, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng tăng, các ngân hàng trong nước sẽ đối mặt với nguy cơ mất dần lợi thế về dịch vụ ngân hàng bán lẻ với mạng lưới các kênh phân phối và cơ sở khách hàng đã có sẵn.
Ngoài ra, mở cửa thị trường tài chính ngân hàng không chỉ buộc các ngân hàng trong nước cạnh tranh thị trường với các ngân hàng nước ngoài mà còn phải cạnh tranh thị trường với các định chế tài chính phi ngân hàng. Nhiều quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm, công ty tài chính nước ngoài đang nghiên cứu thị trường Việt Nam, một thị trường được đánh giá là rất nhiều tiềm năng, với tốc độ tăng trưởng nhanh trong khi mức độ và trình độ cung cấp dịch vụ tài chính còn ở giai đoạn phát triển ban đầu. Các tổ chức này sẽ cạnh tranh thị trường mạnh với ngân hàng về các hoạt động huy động vốn cũng như đầu tư.
Thêm vào đó, với việc mở cửa thị trường tài chính, các ngân hàng trong nước phải đối mặt với nhiều rủi ro thị trường. Chẳng hạn rủi ro về giá, tỷ giá và lãi suất và các rủi ro hệ thống, bắt nguồn từ sự lan truyền của các cuộc khủng hoảng, các cú sốc kinh tế tài chính khu vực và trên thế giới. Rủi ro cũng có thể đến từ các doanh nghiệp là khách hàng của ngân hàng do làm ăn thua lỗ, thất bại trong cạnh tranh. Khi có bất cứ một biến động tài chính nào thì những ngân hàng quy mô nhỏ dễ bị tổn thương hơn cả.
Theo TS Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ chiến lược phát triển NHNN, thách thức lớn nhất đối với các NHTM Việt Nam khi mở cửa đó chính là gia tăng áp lực cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa.
Điểm yếu của các NHTM “nội” là quy mô tài chính của các NH còn rất nhỏ (trung bình từ 20 đến 250 triệu USD - PV); nợ xấu của các NH Việt Nam theo tiêu chuẩn kế toán quốc tế còn lớn; 5 NHTMNN chiếm thị phần tín dụng đến 75% nhưng tổng vốn tự có cũng chỉ trên 1 tỷ USD, chưa đạt hệ số an toàn vốn tối thiểu (8%), khả năng tăng vốn và xử lý nợ xấu của các NHTMNN còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, sản phẩm dịch vụ của các NH trong nước còn đơn điệu, tính tiện ích chất lượng chưa cao.
Theo yêu cầu gia nhập WTO, Việt Nam không được áp dụng các hạn chế định lượng đối với số nhà cung cấp dịch vụ, tổng giá trị giao dịch về dịch vụ, số lượng nghiệp vụ, số người tham gia làm việc tại các NH.
Ông Lê Đắc Sơn, Tổng giám đốc NHTM ngoài quốc doanh VPbank tiên đoán: “Chắc chắn sẽ có một cuộc chảy máu nhân lực cấp cao và chuyên nghiệp từ các NH Việt Nam sang NH nước ngoài bởi hiện tại nhu cầu về nhân lực (đặc biệt là các NHTMCP), mỗi năm tăng tối thiểu 50%”.
Cách giữ người tốt nhất bây giờ, theo ông Sơn, là: Các NHTM trong nước phải có lực lượng kế cận và thay thế khi cần thiết. Khi đó, nguồn lực nếu bị “chảy máu” sang NH ngoại cũng sẽ không ào ào, mà dịch chuyển từ từ.
Việc mở cửa thị trường tài chính nội địa sẽ làm tăng rủi ro thị trường về giá cả, tỷ giá, lãi suất. Hệ thống các NH trong nước sẽ phải đối mặt các rủi ro khủng hoảng, các cú sốc kinh tế tài chính khu vực và trên thế giới khi lan truyền; mất dần lợi thế về khách hàng và hệ thống kênh phân phối, nhất là từ sau năm 2010, khi những phân biệt về huy động vốn, sản phẩm dịch vụ, việc đặt máy ATM sẽ căn bản bị loại bỏ.
Một thách thức mà chính các NHTM trong nước sẽ phải tự giải quyết đó là việc có thể một bộ phận khách hàng chiến lược của hệ thống NHTM đang hưởng sự bảo hộ của Nhà nước (nhất là DNNN sản xuất trong các lĩnh vực nhiên liệu, sắp thép, xi măng, phân bón, giấy, hoá chất) khi họ làm ăn kém hiệu quả sẽ tăng rủi ro đối với hoạt động của các ngân hàng.
Giải pháp để tận dụng cơ hội và giải quyết nguy cơ
Sau một năm gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam đã có những chuyển động tích cực để từng bước đáp ứng yêu cầu cam kết khi gia nhập WTO. Cụ thể ở một số nội dung cơ bản: Việc hoàn thiện khung pháp lý được khẩn trương thực hiện; Tăng trưởng GDP cả năm ước đạt 8,48%, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt mức kỷ lục và ước tăng 21,5% so với năm 2006; Thị trường tài chính nói chung tăng trưởng mạnh, trong đó thị trường chứng khoán đang ổn định và phát triển, vốn hoá có khả năng đạt xấp xỉ 50% GDP, nguồn vốn nước ngoài chảy vào Việt Nam nhiều hơn (cả FDI, thông qua thị trường chứng khoán và kiều hối)…
Về phía Ngân hàng Nhà nước
Việc khởi động chung và có lẽ cũng là quan trọng nhất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN)nhằm đáp ứng yêu cầu đã cam kết khi gia nhập WTO là việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật với phương châm: Hoàn thiện và minh bạch. Việc hoàn thiện pháp luật của NHNN tức là việc nghiên cứu bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành mới các quy định pháp luật phục vụ công tác quản lý của NHNN. Chính vì vậy, ngay từ khi chuẩn bị thực hiện hội nhập, NHNN đã khởi động và đang xúc tiến các chương trình: Xây dựng NHNN Việt Nam trở thành Ngân hàng Trung ương hiện đại; Chỉ đạo việc tổng kết các Luật Ngân hàng và tiến hành thành lập Ban soạn thảo Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng cũng như thực hiện các bước triển khai Đề án thanh toán không dùng tiền mặt, tiếp tục thực hiện Đề án hiện đại hoá công nghệ ngân hàng giai đoạn II…
Trong việc xây dựng NHNN Việt Nam trở thành Ngân hàng Trung ương hiện đại, NHNN đã và đang thực hiện các công việc chủ yếu như:
- Tổng kết và đang xúc tiến khẩn trương hoàn thành Dự thảo mới Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các Tổ chức tín dụng. Trong quá trình soạn thảo Luật Ngân hàng Nhà nước, việc xác định địa vị pháp lý của NHNN Việt Nam đã được chú trọng, trong đó: xác định rõ mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ; các hoạt động quản lý và thanh tra giám sát theo thông lệ quốc tế, phù hợp với đặc điểm Việt Nam.
- Hoàn thành dự thảo và trình Chính phủ ban hành Nghị định về tổ chức và hoạt động của NHNN thay thế Nghị định số 52/2003/NĐ-CP ngày 19/5/2003 của Chính phủ.
- Khẩn trương hoàn thành dự thảo Luật giám sát an toàn hoạt động ngân hàng, Luật bảo hiểm tiền gửi để trình Chính phủ ban hành trong thời gian tới.
- Hoàn thành Đề án cải cách Thanh tra ngân hàng và xây dựng hệ thống giám sát từ xa.
- Hoàn thiện để trình Chính phủ các Nghị định bổ sung, sửa đổi Nghị định số 86/1999/NĐ-CP về quản lý ngoại hối, Nghị định số 91/1999/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngân hàng.
- Xây dựng và ban hành kế hoạch triển khai đề án về thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006 - 2010 theo Quyết định số 291/TTg của Chính phủ.
- Triển khai thực hiện cải cách hành chính, với những việc trọng tâm là: rà soát, đơn giản hoá các thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức tín dụng và công tác chỉ đạo, điều hành của các đơn vị thuộc NHNN.
- Một trong những cam kết của ngành Ngân hàng đối với WTO là việc bảo đảm sự bình đẳng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM), đó là việc NHNN ban hành các quy định về cổ đông, cổ phần; về quản lý rủi ro…, đặc biệt là việc ban hành quy định về cấp phép đối với NHTM như: Ban hành hai Quyết định số 24/QĐ-NHNN ngày 7/6/2007 và Quyết định số 46/2007/QĐ-NHNN ngày 25 tháng 12 năm 2007 bổ sung sửa đổi Quyết định số 24 nói trên. Hiện, NHNN đã đồng ý về nguyên tắc thành lập mới cho bốn ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) là: Bảo Việt, Tài chính Dầu khí, Liên Việt, FPT và đang xem xét để cấp phép một NHTMCP nữa. Riêng bốn ngân hàng trên đã có vốn điều lệ tới 10.500 tỉ đồng, sẽ được ra đời và hoạt động vào đầu năm 2008. Mặt khác, NHNN cũng đang tiến hành việc dự thảo xây dựng Nghị định bổ sung, sửa đổi Nghị định số 48/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại.
- NHNN cũng đã có những đổi mới trong quản lý tiền tệ và hoạt động ngân hàng, trong đó đáng chú ý là Quyết định số 3039/QĐ-NHNN ngày 24/12/2007 của Thống đốc NHNN, theo đó NHNN quản lý biên độ tỷ giá chính thức, đồng thời tạo sự thông thoáng trong quản lý và nâng cao tính tự chủ trong hoạt động này của NHTM. Mặt khác NHNN cũng đang tích cực triển khai các biện pháp nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục tình trạng đô la hoá nền kinh tế. Lượng kiều hối chảy vào Việt Nam tăng mạnh, ước cả năm trên 7,5 tỷ USD, vượt khá nhiều so với 2006…
-Nâng cao hiệu lực pháp lý và đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật về thị trường ngân hàng nhằm tạo ra hành lang pháp lý phù hợp cho các ngân hàng hoạt động. Tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại thực sự kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, tách bạch kinh doanh và chính sách. Sắp xếp, sáp nhập, giải thể một số ngân hàng thương mại không đủ điều kiện. Bãi bỏ một số hạn chế đang cản trở các ngân hàng thương mại mở rộng các hoạt động dịch vụ mới...
-Nâng cao hiệu quả quản lý của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về dịch vụ ngân hàng.
-Nâng cao hiệu lực của công tác kiểm tra, giám sát. Nghiêm cấm cạnh tranh bất hợp pháp, gây mất ổn định thị trường. Giám sát hoạt động của các ngân hàng trong việc cung cấp thông tin trung thực cho khách hàng, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên cung cấp và sử dụng dịch vụ. Từng bước nghiên cứu và thành lập cơ quan giám sát tài chính thống nhất, trực thuộc Chính phủ, độc lập với Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính, thực hiện chức năng giám sát toàn bộ các hoạt động của các tổ chức tài chính.
-Chủ động nới lỏng các quy chế về sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài trên cơ sở đảm bảo kiểm soát hiệu qủa. Cần tính toán số lượng các chủ thể nước ngoài. Việc cấp phép cần phải căn cứ vào nhu cầu và khả năng cung cấp của thị trường, số lượng các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính trong nước tại thời điểm đó trên thị trường.
2. Về phía các ngân hàng thương mại
Đối chiếu với những cam kết khi gia nhập WTO, những việc mà NHTM Việt Nam đã và đang thực hiện có thể kể đến là:
- Cơ bản hoàn thành xử lý nợ xấu, đẩy mạnh cơ cấu lại tài chính và tiến hành khẩn trương việc cổ phần hoá các NHTM nhà nước, theo đó VCB đã IPO vào ngày 26/12/2007 vừa qua với kết quả tốt; Ngân hàng Nhà đồng bằng sông Cửu Long, Ngân hàng Công thương Việt Nam và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cũng đã tích cực thực hiện các bước cần thiết để tiến hành cổ phần hoá, như: khẩn trương tiến hành hiện đại hoá công nghệ; củng cố tổ chức; ký hợp đồng với đối tác nước ngoài trong việc tư vấn cổ phần hoá... Xu hướng xây dựng tập đoàn tài chính ngân hàng đang diễn ra khá mạnh ở những NHTM lớn của Việt Nam cũng đang được quan tâm chuẩn bị, trong đó Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Công thương Việt Nam đã có những bước đi tích cực.
- Các NHTMCP đang đẩy mạnh cơ cấu lại, trong đó đặc biệt là việc tăng năng lực tài chính. Hầu hết các NHTMCP nông thôn đã tăng vốn và đã chuyển đổi thành NHTMCP đô thị. Các NHTM đã tìm các đối tác chiến lược để hợp tác đầu tư và hỗ trợ cùng phát triển. Song song với việc này là tích cực thực hiện các biện pháp tăng vốn, trong đó các NHTMCP thực hiện phát hành thêm cổ phiếu (cho cả nhà đầu tư chiến lược và cổ đông hiện hữu) nhằm đáp ứng yêu cầu của Nghị định số 41 nêu trên của Thủ tướng Chính phủ Trong 2 năm 2006 và 2007, các NHTMCP được phép tăng vốn điều lệ 31.768 tỷ đồng, trong đó bằng phát hành cổ phiếu: 19.945 tỷ đồng, lớn nhất là NHTMCP: Đông Nam á (2.000 tỷ đồng); á Châu (1.530 tỷ đồng); Đông á (1.000 tỷ đồng), Quân đội (955 tỷ đồng)… Một số ngân hàng có vốn điều lệ tăng mạnh là: Đông Nam á(từ 250 tỷ đồng lên 3000 tỷ đồng), Quân Đội (từ 780 tỷ đồng lên 2000 tỷ đồng), Xuất nhập khẩu (từ 700 tỷ đồng lên 2800 tỷ đồng)... Sau khi tăng vốn, tổng vốn điều lệ của các NHTMCP đạt 36.950 tỷ đồng. Trên cơ sở đó, các NHTM, nhất là các NHTMCP đã mở rộng phạm vi và địa bàn hoạt động, thị phần hoạt động tín dụng của các ngân hàng này đã thay đổi đáng kể: đến tháng 11năm 2007, các NHTM nhà nước đạt 435,6 ngàn tỷ đồng, chiếm gần 70%; Các NHTMCP đạt 180,4 ngàn tỷ đồng, chiếm 27,7% và như vậy cơ cấu cho vay của các NHTMCP đã tăng đáng kể so với trước đây. Một minh chứng cụ thể là: Cùng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, thị phần tín dụng tăng khá mạnh tăng từ 60 - 120% năm.
Cùng với gia tăng các hoạt động dịch vụ, hiệu quả hoạt động của các NHTM đã được nâng cao. Năm 2007 được coi là năm “làm ăn phát đạt” của các NHTM, đặc biệt là các NHTMCP. Tính đến cuối tháng 9/2007, lợi nhuận trước thuế của các NHTM tăng khoảng 2 lần; Đến cuối tháng 9/2007, một số NHTMCP đạt lợi nhuận cao như: ACB đạt 1.400 tỷ đồng, ước tính cả năm sẽ vượt 20 - 30% kế hoạch năm; lợi nhuận của SacomBank hay Eximbank cũng phát triển khá mạnh, đều đạt trên 1.000 tỷ đồng.
- Ứng dụng công nghệ vào hoạt động của các NHTM được tăng cường hơn, do đó đã đẩy mạnh hoạt động dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán, trong đó thanh toán bằng thẻ ATM tăng khá mạnh (năm 2006 có 2500 máy, đến nay đã có 4300 máy). NHNN đang chỉ đạo các NHTM thực hiện kết nối thanh toán thẻ rút tiền tự động qua Công ty chuyển mạch tài chính quốc gia theo Đề án đã được Chính phủ phê duyệt và đến nay 2 công ty là: Banknet và Pvnet đã ký hợp đồng về việc kết nối 2 hệ thống thanh toán giữa 2 nhóm ngân hàng thương mại, chiếm phần lớn các NHTM lớn ở nước ta.
Các ngân hàng cần tăng cường cải cách một cách triệt để, nâng cao năng lực tài chính và hoạt động, thông qua huy động các nguồn đầu tư trong nước, tạo sự liên kết giữa các ngân hàng để hình thành các ngân hàng lớn hơn, lựa chọn các đối tác chiến lược lớn có uy tín để tranh thủ vốn, công nghệ và mạng lưới hoạt động toàn cầu của các ngân hàng này.
Các ngân hàng cũng cần đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ, và mở rộng khách hàng. Dịch vụ ngân hàng là loại hình dịch vụ có tính đặc thù, đòi hỏi uy tín cao. Vì vậy, mỗi ngân hàng cần xây dựng cho mình một hình ảnh đẹp, một thương hiệu mạnh, tin cậy. Thực tế hiện nay, các ngân hàng chưa chú trọng công tác quản lý rủi ro, kể cả các ngân hàng thương mại nhà nước lẫn các ngân hàng thương mại cổ phần. Do vậy, các ngân hàng nước ta cần từng bước xây dựng cho mình cơ chế quản lý rủi ro hiệu quả hơn.
3. Những việc cần thực hiện trong thời gian tới
Ngày 17 tháng 10 năm 2007, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 2449/QĐ-NHNN về “Chương trình hành động của NHNN Việt Nam thực hiện chương trình hành động của Chính phủ sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới giai đoạn 2007- 2012. Có thể tóm tắt những nội dung cơ bản sau đây:
- Xây dựng và phát triển thị trường tiền tệ: bao gồm hoàn thiện những điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng phù hợp với chuẩn mực của Việt Nam. Cụ thể là: Nâng cao năng lực xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ theo hướng: chủ động, linh hoạt, bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế…
- Phát triển toàn diện hệ thống các tổ chức tín dụng theo hướng hiện đại, hoạt động đa năng, đa dạng về sở hữu và về loại hình, đủ điều kiện hoạt động lành mạnh, ổn định và nâng cao năng lực cạnh tranh; đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng, tăng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng theo nguyên tắc thị trường…
- Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của NHNN, hoàn thiện các quy định quản lý, đặc biệt là việc nâng cao năng lực giám sát và quản lý rủi ro đối với các hoạt động của các tổ chức tín dụng.
- Đổi mới mạnh mẽ công tác cải cách hành chính, xây dựng NHNN Việt Nam trở thành Ngân hàng Trung ương hiện đại với mô hình tổ chức và quản lý mới; chú trọng phát triển nguồn nhân lực có chuyên môn nghiệp vụ cao…
Để thực hiện có hiệu quả chương trình hành động trên đây của NHNN, phải có bước đi phù hợp, trong đó đáng lưu ý là việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ, kiềm chế lạm phát, hạn chế tình trạng đô la hoá, nâng c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20617.doc