Tiểu luận Vài nét về WIPO và quan hệ hợp tác WIPO – Việt Nam

Việt Nam tham gia WIPO ngày 02 tháng 6 năm 1976 khi phê chuẩn Công ước thành lập WIPO. Trong các Điều ước quốc tế về SHTT do WIPO quản lý, đến nay Việt Nam đã tham gia:

- Hiệp định hợp tác bằng sáng chế;

- Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp: Công ước này áp dụng cho sở

hữu công nghiệp theo nghĩa bao gồm sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, mẫu hữu ích, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý (chỉ dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ) và chống cạnh tranh không lành mạnh;

- Thoả ước và Nghị định thư Madrit về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá.

Trong quá trình hội nhập và gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đang xem xét tham gia các Điều ước quốc tế sau về SHTT:

- Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ

(TRIPS);

- Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật;

- Công ước Geneva về bảo hộ người ghi âm, chống sao chép trái phép bản ghi

âm;

 

doc9 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2795 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vài nét về WIPO và quan hệ hợp tác WIPO – Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VÀI NÉT VỀ WIPO VÀ QUAN HỆ HỢP TÁC WIPO – VIỆT NAM CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ TỔ CHỨC SỞ HỮU TRÍ TUỆ THẾ GIỚI (WIPO) Quá trình thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới, có tên tiếng Anh là World Intellectual Property Organization, tên viết tắt WIPO, là một trong số các tổ chức chuyên môn của hệ thống các tổ chức chuyên môn của Liên Hợp Quốc (UN), ra đời kể từ khi Công ước thành lập Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới được ký kết ngày 14/7/1967, tại Stockholm-Thuỵ Điển, có hiệu lực năm 1970. Tuy nhiên, nguồn gốc của WIPO bắt đầu từ năm 1883 và 1886 khi thông qua công ước Paris và Công ước Berne. Cả hai công ước này đều quy định việc thành lập hai Văn phòng quốc tế và được đặt dưới sự giám sát của Chính phủ Liên bang Thuỵ Sỹ, đến năm 1893 hai Văn phòng được hợp nhất, cho đến trước khi trở thành WIPO, Văn phòng có tên gọi là BIRPI. Thành viên của WIPO Công ước thành lập WIPO tuyên bố quyền tham gia sẽ được dành cho mọi quốc gia là thành viên LHQ - tức là chỉ có quốc gia mới có thể trở thành thành viên WIPO. Quốc gia muốn gia nhập gửi Đơn xin gia nhập tới TGĐ WIPO tại Geneva. Riêng các nước thành viên Công ước Paris và Công ước Bern chỉ có thể trở thành thành viên WIPO nếu họ đã ký kết/phê chuẩn hoặc gia nhập ít nhất là các điều khoản hành chính của Văn kiện Stockholm (1967) của Công ước Paris hoặc văn kiện Paris (1971) của Công ước Bern. Hiện nay WIPO có 179 nước thành viên. Việt Nam cũng là thành viên của WIPO. Sứ mệnh và nhiệm vụ của WIPO Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) là một trong số 16 cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc. Sứ mệnh của WIPO là thúc đẩy hợp tác quốc tế trong việc sáng tạo, phổ biến, sử dụng và bảo vệ các sản phẩm của trí tuệ con người, nhằm thúc đẩy kinh tế, văn hoá và xã hội của loài người. Hiệu quả của nó là góp phần cân đối giữa khuyến khích sáng tạo trên toàn thế giới, một mặt bằng cách bảo hộ thích đáng các lợi ích và tinh thần của người sáng tạo, và mặt khác đem lại cơ hội dự hưởng các lợi ích văn hoá và kinh tế xã hội của các sáng tạo đó trên toàn thế giới. Nhiệm vụ của WIPO là: làm hài hoà luật pháp và thủ tục các quốc gia về sở hữu trí tuệ; cung cấp các dịch vụ đăng ký quốc tế đối với quyền sở hữu công nghiệp; trao đổi thông tin về sở hữu trí tuệ; hỗ trợ kỹ thuật và pháp lý cho các nước đang phát triển và các nước khác; hỗ trợ tranh chấp sở hữu trí tuệ của cá nhân; sử dụng công nghệ thông tin như một công cụ lưu giữ, tiếp cận và sử dụng thông tin sở hữu trí tuệ quý giá. Cơ cấu tổ chức Đứng đầu WIPO là một Tổng Giám đốc (TGĐ). Giúp việc TGĐ là các Phó TGĐ và Ban thư ký. Về cơ cấu, theo Công ước thành lập WIPO, tổ chức này gồm 4 cơ quan chính là Đại hội đồng, Hội nghị, Ủy ban điều phối, Văn phòng Quốc tế (Ban thư ký).  Đại hội đồng (ĐHĐ) là cơ quan quyền lực cao nhất của WIPO. ĐHĐ  bổ nhiệm TGĐ trên cơ sở đề nghị của UB điều phối. ĐHĐ họp một lần/năm (thường vào cuối tháng 9 hàng năm) xem xét và thông qua các Báo cáo của UB điều phối, của TGĐ WIPO, thông qua ngân sách tài chính của tổ chức, thông qua các biện pháp do TGĐ đề ra. TGĐ đứng đầu Ban Thư ký, Ban này bao gồm các nhân viên được WIPO tuyển chọn trên cơ sở chuyên môn có tính tới yếu tố hợp lý về địa lý. Trong thời gian họp Đại hội đồng WIPO, theo thông lệ, sẽ diễn ra song song các cuộc họp thường kỳ của các nước tham gia các Điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ do WIPO quản lý (thường gọi là cuộc họp của Hiệp hội như Hiệp hội Paris, Hiệp hội Berne, Hiệp hội Madrid vv...) Một số nét về sở hữu trí tuệ (SHTT) Quyền sở hữu trí tuệ bao gồm: Quyền sở hữu công nghiệp, Quyền tác giả và Quyền đối với giống cây trồng. Hoạt động của WIPO rất phong phú, đa dạng. Ngoài Công ước thành lập, WIPO còn quản lý 22 Điều ước quốc tế về Sở hữu trí tuệ, trong đó có 16 Điều ước về Sở hữu công nghiệp và 6 Điều ước về Quyền tác giả. Ví dụ: Trên trường quốc tế, vị trí của WIPO đã có những thay đổi lớn so với khi mới thành lập: ngoài việc duy trì chức năng quản lý các Điều ước/Hiệp định được ký kết giữa các quốc gia, WIPO đẩy mạnh việc hợp tác liên chính phủ trong quản lý hoạt động sở hữu trí tuệ, song song với việc mở rộng và đa dạng hóa các loại hình hoạt động. Một ví dụ nổi bật là sự gia tăng các hoạt động đăng ký vào các Hiệp ước: Bằng Sáng chế (PCT), Thỏa ước Mađrit và Nghị định thư về Đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa, Hiệp ước La Hay về đăng ký quốc tế Kiểu dáng Công nghiệp v.v… WIPO cũng không dừng ở việc thúc đẩy các đối tượng bảo hộ SHTT, mà đang ngày càng tham gia vào việc giúp đỡ các nước đang phát triển trong việc soạn thảo xây dựng và thực thi pháp luật, trong việc thiết lập cơ cấu hành chính và thiết chế phù hợp, và trong việc giúp đào tạo nguồn nhân lực. giúp đào tạo nguồn nhân lực. Ngày nay, WIPO thực hiện việc tiếp cận toàn cầu không chỉ đối với vấn để SHTT, mà cả với vai trò SHTT trong khuôn khổ rộng lớn hơn với các vấn đề mới nổi như tri thức truyền thông, văn hóa dân gian, đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường. Thông qua mạng thông tin SHTT toàn cầu (WIPONET), WIPO góp phần nâng cao đáng kể sự hiểu biết của nhân dân về sơ hữu trí tuệ, về nhu cầu cổ vũ và bảo hộ sở hữu trí tuệ. Ngày sở hữu trí tuệ thế giới Ngày sở hữu trí tuệ thế giới được ra đời trên cơ sở tuyên bố tại cuộc họp của Đại Hội đồng Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) tháng 9 năm 1998 về việc thiết lập một sự kiện để tôn vinh sở hữu trí tuệ, ngày 7/4/1999, Giám đốc Cơ quan sở hữu công nghiệp quốc gia Angeri đã có đề xuất lấy một ngày nào đó trong năm làm Ngày Sở hữu trí tuệ thế giới nhằm thiết lập một khuôn khổ cho việc khuyến khích và nâng cao nhận thức, mở ra không gian mới cho hoạt động đổi mới và công nhận những thành quả của những người tạo ra tài sản trí tuệ trên phạm vi toàn thế giới. Ngày 9/8/1999, phái đoàn của Trung Quốc tại WIPO đã đề xuất thông qua “Ngày Sở hữu trí tuệ thế giới” nhằm đẩy mạnh hơn nữa nhận thức về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, khuyếch trương vai trò của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trên phạm vi toàn thế giới, khuyến khích các quốc gia công khai hóa và phổ cập pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tăng cường nâng cao nhận thức pháp lý chung về quyền sở hữu trí tuệ, khuyến khích hoạt đông sáng tạo đổi mới ở các nước và tăng cường giao lưu quốc tế trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ”. Tháng 10 năm 1999, Đại hội đồng WIPO đã thông qua tuyên bố lấy ngày 26 tháng 4 là ngày Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (công ước Stockholm 1967) bắt đầu có hiệu lực (26/4/1970) làm Ngày sở hữu trí tuệ thế giới. Tổ chức Sở hữu trí tuệ xác định mục tiêu của Ngày sở hữu trí tuệ thế giới là:           -   Nâng cao nhận thức về ảnh hưởng của sáng chế, quyền tác giả, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp v.v.tới cuộc sống thường nhật;           -   Tăng cường hiểu biết về vai trò của việc bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ đối với việc thúc đẩy hoạt động sáng tạo và đổi mới;           -   Tôn vinh hoạt động sáng tạo và những thành quả mà các nhà sáng chế đã đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội trên phạm vi toàn cầu;           -   Khuyến khích tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ của người khác. CHƯƠNG 2: QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM – WIPO Việt Nam tham gia các Điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ Việt Nam tham gia WIPO ngày 02 tháng 6 năm 1976 khi phê chuẩn Công ước thành lập WIPO. Trong các Điều ước quốc tế về SHTT do WIPO quản lý, đến nay Việt Nam đã tham gia: Hiệp định hợp tác bằng sáng chế; Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp: Công ước này áp dụng cho sở hữu công nghiệp theo nghĩa bao gồm sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, mẫu hữu ích, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý (chỉ dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ) và chống cạnh tranh không lành mạnh; Thoả ước và Nghị định thư Madrit về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hoá. Trong quá trình hội nhập và gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đang xem xét tham gia các Điều ước quốc tế sau về SHTT: Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS); Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật; Công ước Geneva về bảo hộ người ghi âm, chống sao chép trái phép bản ghi âm; Công ước Brusels về phân phối tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh; Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng; Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới. Quan điểm của WIPO về phát triển sở hữu trí tuệ (SHTT) ở Việt Nam WIPO khẳng định vai trò của SHTT trong việc thúc đẩy sáng tạo và chuyển giao công nghệ và chỉ ra sự cần thiết để bảo đảm rằng hệ thống SHTT mang lại lợi ích kinh tế và xã hội. WIPO cũng đề cập đến các lợi ích của Chiến lược quốc gia về SHTT, cách thức mà Việt Nam khai thác và sử dụng tốt nhất hệ thống SHTT nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và văn hóa và các biện pháp mà WIPO có thể hỗ trợ nhằm giúp Việt Nam tăng cường năng lực hệ thống SHTT quốc gia. Trả lời câu hỏi về việc WIPO đánh giá thế nào về SHTT tại Việt Nam, TS Francis Gurry cho rằng “Việt Nam đang chuyển sang một giai đoạn mới của phát triển kinh tế, vai trò của SHTT ngày càng được nâng cao. WIPO đã nhìn thấy sự gia tăng đáng kể các ứng dụng của SHTT trong các doanh nghiệp tại Việt Nam và SHTT ngày càng góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới, phát triển của Việt Nam”. Theo tiến sĩ Francis Gurry, Tổng Giám đốc Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO), sở hữu trí tuệ phải có giá trị thương mại; các doanh nghiệp không nên coi việc thực hiện sở hữu trí tuệ như một việc cần tuân thủ mà phải coi sở hữu trí tuệ giúp cho doanh nghiệp phát triển sản xuất. Phát biểu tại buổi tọa đàm, giao lưu với các tổ chức và cá nhân đạt giải thưởng WIPO, tổ chức ngày 20/1, tiến sĩ Gurry nhấn mạnh sở hữu trí tuệ đóng góp cho sự phát triển nền kinh tế. Các sản phẩm, doanh nghiệp sẽ có vị trí trên thị trường và qua đó tạo được hình ảnh của Việt Nam ra nước ngoài. Trong vòng 10 năm tới sẽ có sự bùng nổ lớn về sở hữu trí tuệ ở Việt Nam; nhu cầu về bằng sáng chế từ các doanh nghiệp trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam tăng đòi hỏi việc bảo vệ bằng sáng chế, quyền sở hữu trí tuệ phải tốt hơn. Việt Nam đã có hạ tầng cơ sở pháp lý về sở hữu trí tuệ khá tốt nhưng cần tập trung vào việc thực thi và nâng cao năng lực thực hiện liên tục vì sở hữu trí tuệ thay đổi, phát triển thường xuyên. Trong điều kiện còn hạn chế của Việt Nam, các doanh nghiệp nhỏ phải xác định lựa chọn phát triển chính, có định hướng để trong quá trình phát triển liên tục đảm bảo việc bảo mật thông tin, tiếp cận sở hữu trí tuệ kịp thời. Có hai cách để sử dụng các sáng chế đã được công bố là hỏi trực tiếp tác giả hoặc khai thác tối đa những sáng chế đã qua 20 năm sử dụng Hoạt động hợp tác giữa WIPO và Việt Nam Là thành viên của WIPO, hàng năm Việt Nam đều cử đại biểu tham dự các cuộc họp quan trọng và các hội thảo, hội nghị do WIPO tổ chức (riêng năm 2005, ta đã cử 22 lượt cán bộ dự các Hội nghị hội thảo nói trên. Đặc biệt cuối năm 2009, tại Thụy Sỹ  diễn ra khoá họp lần thứ 47 Đại hội đồng Tổ chức Sở hữu trí tuệ (SHTT) thế giới WIPO. Đây là khoá họp thường niên của Đại hội đồng WIPO, nhưng năm nay lần đầu tiên khoá họp được triệu tập ở cấp bộ trưởng. Đã có 47 quốc gia thành viên cử bộ trưởng hoặc thứ trưởng phụ trách về SHTT tham dự và phát biểu tại khóa họp này. Tại khoá họp Việt Nam đã được bầu vào Uỷ ban điều phối của WIPO. Đây là lần thứ 2 trong 26 năm (kể từ khi Việt Nam là thành viên WIPO) Việt Nam được giữ trọng trách này. Theo Thứ trưởng BộKHCN Nguyễn Quân, việc tham gia Uỷ ban điều phối (cơ quan chịu trách nhiệm về hoạt động và nhân sự của WIPO), Việt Nam sẽ có điều kiện tham gia vào việc định hướng phát triển của WIPO trong thời gian tới, để hoạt động SHTT phục vụ hiệu quả cho phát triển kinh tế xã hội của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Đồng thời, WIPO đã cử nhiều cán bộ, chuyên gia sang giúp Việt Nam đào tạo cán bộ về các lĩnh vực chuyên môn như Kiểu dáng công nghiệp, Patent, Sáng chế vv... WIPO đã cung cấp trang thiết bị và tài liệu cho Cục SHTT trong khuôn khổ dự án PCT-ROAD phục vụ nhu cầu chuyển đơn đăng ký quốc tế theo PCT qua mạng Internet cho văn phòng Quốc tế của WIPO. Nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam đăng ký quốc tế nhãn hiệu ra nước ngoài cũng như người nước ngoài đăng ký vào Việt Nam, năm 2006, Chính phủ Việt Nam đã phê chuẩn việc tham gia Nghị định thư Mađrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa. Trong những năm gần đây, Việt Nam luôn nhận được sự giúp đỡ quý báu của WIPO về cả kinh nghiệp xây dựng hệ thống pháp luật về SHTT cũng như việc đào tạo nguồn nhân lực, tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước, thông tin về SHTT. Với sự nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ của WIPO, Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện và đáp ứng các yêu cầu có tính quốc tế, kể cả trong khuôn khổ WTO về những vấn đề thực thi quyền SHTT. Cụ thể hoạt động WIPO hỗ trợ Việt Nam phát triển tài sản trí tuệ Cuối tháng 8/2009, Đoàn chuyên gia của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) đã sang thăm và làm việc với Cục Sở hữu trí tuệ để thảo luận về kế hoạch hợp tác và hỗ trợ Việt nam xây dựng. Tại buổi làm việc với Đoàn, Cục SHTT đã giới thiệu về hoạt động của Bộ phần thường trực của Cục tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc và kế hoạch phát triển thành Trung tâm Hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ. Đại diện của WIPO đánh giá cao kế hoạch này và cho rằng việc thành lập Trung tâm thể hiện sự quan tâm của Việt Nam đến hoạt động sáng tạo, bảo hộ và thương mại hóa tài sản trí tuệ. Đoàn khẳng định cam kết của WIPO trong việc hỗ trợ Cục xây dựng thành công Trung tâm này. Các nội dung hợp tác về khai thác thông tin sáng chế và đào tạo, huấn luyện về sở hữu trí tuệ cũng đã được hai Bên thảo luận, thống nhất. Trong chuyến viếng thăm chính thức của Tổng Giám đốc WIPO tháng 01/2010, Việt Nam đã ký Thỏa thuận về hỗ trợ phát triển Bộ phận thường trực của Cục SHTT tại Hòa Lạc với WIPO. Mục tiêu của Thỏa thuận là thiết lập một cơ chế hợp tác giữa hai Cơ quan trong việc tạo ra và cung ứng các dịch vụ hỗ trợ cho việc phát triển công nghệ và các hoạt động sáng tạo thông qua Bộ phận thường trực của NOIP đặt tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc, tiến tới xây dựng Trung tâm Phát triển tài sản trí tuệ. Theo Thỏa thuận đã ký, WIPO sẽ hỗ trợ NOIP triển khai một số các hoạt động như sau: 1. Đào tạo cán bộ làm công tác hỗ trợ phát triển công nghệ và sáng tạo; 2. Tạo thuận lợi trong việc tiếp cận với các cơ sở dữ liệu sáng chế và các tài liệu khác của WIPO và của các tổ chức khác; 3. Tổ chức các hoạt động nâng cao nhận thức của công chúng về các dịch vụ hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ; 4. Xuất bản một số tài liệu tuyên truyền về thông tin sáng chế của WIPO cho công chúng Việt Nam. Để tạo điều kiện cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam về sở hữu trí tuệ, WIPO đang có các chương trình hợp tác, tăng cường năng lực; tiếp tục nghiên cứu các dự án khác cho Việt Nam như chương trình đào tạo từ xa bằng tiếng Việt về sở hữu trí tuệ hay chương trình hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ về sở hữu trí tuệ. WIPO cũng đang cân nhắc việc thực hiện cấp chứng nhận cho các cá nhân, doanh nghiệp đoạt giải thưởng để họ có thể sử dụng. Với việc đăng ký lấy bằng sáng chế quốc tế, WIPO hỗ trợ 90% phí đăng ký và đang nghiên cứu để có thể trong vòng 3-4 tháng tới đưa ra giới thiệu Hệ thống dịch tự động, trong đó có hỗ trợ việc dịch tự động từ tiếng Việt sang tiếng Anh. Những nhà sáng chế độc lập có thể truy cập cơ sở dữ liệu của WIPO tìm hiểu về thông tin khoa học, bằng sáng chế hoặc qua những ấn phẩm khoa học định kỳ xuất bản bằng giấy được đưa lên trang web www.wipo.int. Với những hỗ trợ tích cực từ phía WIPO, Quỹ hỗ trợ sáng tạo kỹ thuật Việt Nam đã trao tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp sáng tạo kỹ thuật Việt Nam" Tổng Giám đốc WIPO nhằm ghi nhận sự hỗ trợ, giúp đỡ của WIPO cũng như của Ông đối với Việt Nam. Ngoài ra, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) còn phối hợp với một số Cơ quan Sở hữu trí tuệ của các quốc gia khác tổ chức các Hội thảo nhằm cung cấp các thông tin về chính sách sở hữu trí tuệ dành cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các dịch vụ của WIPO, chia sẻ kinh nghiệm của các doanh nghiệp nước khác trong việc sử dụng sở hữu trí tuệ để nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp theo Hội thảo, các chuyên gia của WIPO và Cục Sở hữu trí tuệ có thể tiến hành tư vấn chuyên sâu cho một số doanh nghiệp của Việt Nam về cách thức quản lý, sử dụng và khai thác tài sản sở hữu trí tuệ, cũng như tổ chức một đoàn khảo sát cho một số doanh nghiệp đến tham quan, học tập kinh nghiệm của các doanh nghiệp nước ngoài.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVài nét về wipo và quan hệ hợp tác wipo – việt nam.doc
Tài liệu liên quan