Tiểu luận Vai trò của cán cân thanh toán quốc tế Việt Nam

 

Kim ngạch nhập khẩu 9 tháng tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước do lượng và giá nhập khẩu đều tăng cao. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá của 5 mặt hàng (xăng dầu, sắt thép, phân bón, chất dẻo và giấy) thì tổng kim ngạch hàng hoá nhập khẩu 9 tháng năm 2008 ước tính đạt 58 tỷ USD, tăng 33,7% so với cùng kỳ năm trước.

 

Hàng hoá nhập khẩu từ các nước ASEAN vẫn chiếm tỷ trọng lớn và tăng với tốc độ cao, ước tính 9 tháng đạt 15,7 tỷ USD, chiếm 24,4% tổng kim ngạch hàng hoá nhập khẩu, tăng 70% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là Trung Quốc 12 tỷ USD, chiếm 18,6% và tăng 44,6%; EU 4,1 tỷ USD, chiếm 6,4% và tăng 13,8%. Một số thị trường khác tuy thị phần không lớn nhưng cũng có tốc độ tăng cao như Mỹ tăng 80%; Nhật Bản tăng 51%; Hàn Quốc tăng 50%; Đài Loan tăng 45%.

 

Nhập siêu những tháng gần đây đã giảm nhanh (Từ mức nhập siêu 3,2 tỷ USD tháng 4 đã giảm xuống còn 1,9 tỷ USD tháng 5; 728 triệu USD tháng 6; 753 triệu USD tháng 7; 258 triệu USD tháng 8 và 500 triệu USD tháng 9). Nhập siêu hàng hóa 9 tháng là 15,8 tỷ USD, tăng 86% so với cùng kỳ năm trước và bằng 32,6% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu.

 

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3778 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vai trò của cán cân thanh toán quốc tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0 Tăng tài sản Có +100 (nhập khẩu trái phiếu) Tài khoản vốn Giảm tài sản Nợ - 100 Tăng tài sản Nợ +100 (xuất khẩu trái phiếu) 4. Chính phủ Mỹ tặng VN hàng hoá trị giá 100 triệu đô la để giúp đồng bào bị bão lụt BP của Việt Nam BP của Mỹ Tài khoản vãng lai Nhập khẩu hàng hoá - 100 Thu chuyển giao một chiều +100 Tài khoản vãng lai Xuất khẩu hàng hoá + 100 Chi chuyển giao một chiều - 100 5.Chính phủ tặng VN trị giá 100 triệu đôla bằng cách ghi Có vào tài khoản của ngân hàng nhà nước VN mở tại Mỹ BP của Việt Nam BP của Mỹ Tài khoản vãng lai Thu chuyển giao một chiều +100 Tài khoản vốn Tăng tài sản Có - 100 Tài khoản vãng lai Chi chuyển giao một chiều - 100 Tài khoản vốn Tăng tài sản Nợ + 100 Ai cũng thấy rằng cán cân vãng lai là phần quan trọng nhất trong cán cân thanh toán trong phần nghiên cứu này nhóm xin xoáy sâu vào cán cân vãng lai. Trong quá trình phát triển, các nước luôn phải đối phó với trình trạng thâm hụt cán cân vãng, theo kinh nghiệm của các nước ngưỡng thâm hụt an toàn là khoản 5% GDP. Tuy nhiên ở việt nam năm 2007 thâm hụt vào khoản 9.6%GDP và theo một vài nghiên cứu của các tổ chức trong năm 2008 tình trạng thâm hụt càng nghiêm trọng hơn nếu tình hình không được kiểm soát thì tình trạng này có thể dẫn đến những kết quả khó lường. Tuy nhiên, bức tranh của nền kinh tế Việt Nam có ảm đạm như vậy không? Rủi ro của một cuộc khủng hoảng cán cân thanh toán và hệ quả là khủng hoản tiền tệ là hiện hữu đến mức độ nào? Đâu là nguyên của tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai lớn như hiện nay và đâu là giải pháp khả thi? Đây là những câu hỏi mà nhóm sẽ trả lời sau đây. IV,Phân tích tình hình nhập siêu của Việt Nam. Phân tích tình hình: Biểu đồ 1: Cán cân thương mại, xuất khẩu và nhập khẩu Nguồn: Sherman Chan và Tu Packard, “Is Vietnam Facing a Curency Crisic?” June, 11, 2008 Bản nhận định của Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế toàn cầu (CEIC) thuộc Ngân hàng Standard Chartered đã tập trung vào ba điểm chính: Thâm hụt thương mại dần được thu hẹp và chỉ số FDI tăng đã giúp giảm mối lo về một cuộc khủng hoảng tiền tệ Số liệu cho thấy chính sách thắt chặt tiền tệ không mấy tác động đối với nền kinh tế Ngân hàng Nhà nước cần thắt chặt chính sách tiền tệ hơn nữa để bảo đảm nguồn vốn. Trong khi phỏng đoán về một cuộc khủng hoảng tiền tệ do sự thâm hụt trong cán cân thanh toán hoành hành trong tháng 4 và 5 vừa qua, tâm lý thị trường vẫn tiếp tục thận trọng nhưng đang dần được cải thiện. Mặc dù nhiều người cho rằng thị trường tiền tệ khó có thể trải qua một sự suy giảm mạnh nhưng nghiên cứu của CEIC vẫn cho rằng tốc độ tăng trưởng chậm dần sẽ tạo ra áp lực cho ngành ngân hàng và tạo môi trường không mấy thuận lợi cho tăng trưởng về trung hạn. Nhiều ý kiến cho rằng tình hình lạm phát không mấy thuận lợi cho chính sách tiền tệ. Dù thanh toán quốc tế vẫn được duy trì ổn định nhưng Chính phủ cũng cần phải duy trì lãi suất cao để bảo đảm nguồn vốn trong nước. Standard Chartered bank vẫn giữ quan điểm là lãi suất cần được đẩy lên hơn nữa để tránh ảnh hưởng quá mức tới lãi suất thực. Thâm hụt thương mại được cải thiện rõ rệt trong hai tháng 6 và 7, ít hơn 1 tỉ đô la Mỹ mỗi tháng, so với con số trung bình từ tháng 1 đến tháng 5 là 2,7 tỉ đô la (Biểu đồ 1). Thâm hụt thương mại trong 7 tháng đầu năm là 15 tỉ đô la. Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu đã mang lại nhiều lợi ích. Kim ngạch xuất khẩu trong hai tháng 6 và 7 đạt hơn 6,2 tỉ đô la mỗi tháng, tăng 53,7% và 46,1% lần lượt so với cùng kỳ năm trước, và đây là lần đầu tiên kể từ tháng 11 năm 2006, kim ngạch xuất khẩu vượt quá kim ngạch nhập khẩu Biểu đồ 2: Thâm hụt thương mại dần thu hẹp Nguon: CEIC Biểu đồ 3: Dòng vốn FDI gia tăng hàng tháng Thị trường đang chứng kiến sự gia tăng về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cam kết đang chảy vào trong bối cảnh thâm hụt cán cân thanh toán. FDI cam kết trong 7 tháng đầu năm đạt 44 tỉ đô la. Trong hai tháng 6 và 7, Chính phủ đã phê duyệt tổng số 30 tỉ đô la các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Số liệu của nguồn vốn FDI cho thấy trong tháng 6 Đài Loan dẫn đầu với 8 tỉ đô la và Nhật Bản là 6,2 tỉ đô la, trong khi đó Malaysia (3,5 tỷ đô la) và Thái Lan (3,8 tỷ đô la) lại dẫn đầu về dự án FDI trong tháng 7. 2. Liệu thâm hụt cán cân vãng lai của Việt Nam có khả năng chịu đựng được? Sau nhiều năm đạt mức thâm hụt cán cân vãng lai giảm dần và ở mức không đáng kể: năm 2003: 4,9%; năm 2004: 3,4%; năm 2005: 0,9%; năm 2006:  0,3%, đến năm 2007, thâm hụt cán cân vãng lai tăng đột biến và đạt mức kỉ lục là 9,6%. Đây là mức thâm hụt cao nhất trong hơn 10 năm trở lại đây (xem biểu đồ 4). Biểu đồ 4: Thâm hụt cán cân vãng lai Việt Nam giai đoạn 2000 - 2007 (% so với GDP) Dự kiến cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam giai đoạn 2001- 2007 Năm Cán cân tài khoản vãng lai Cán cân tài khoản vốn Sai số thống kê và bỏ sót Cán cân thanh toán quốc tế XK hàng hoá ròng XK dịch vụ ròng Thu nhập thuần tuý từ nước ngoài Cán cân tài khoản vãng lai FDI thuần FPI thuần ODA thuần Cán cân vốn 2001 -1.135 -572 -420 -2.127 +1.638 - +1.500 +3.138 ± 5% +1.011 2002 -3.027 -750 -564 -4.341 +1.038 - +1.528 +2.566 ± 5% -1.775 2003 -5.062 -778 -630 -6.470 +1.029 - +1.422 +2.451 ± 5% -4.019 2004 -5.449 -872 -850 -7.171 +1.103 - +1.650 +2.753 ± 5% -4.418 2005 -4.536 -1.106 -1.030 -6.669 +1.744 - +1.787 +3.531 ± 5% -3.138 2006 -5.065 -1.179 -1.314 -7.558 +4.312 +3.000 +2.360 +9.672 ± 5% +2.114 2007 -14.121 -367 -1.886 -16.374 +5.900 +6.200 +2.660 +14.766 ± 5% -1.608 Trong giai đoạn 2001- 2007 đã diễn ra sự thâm hụt kép cả cán cân thương mại hữu hình và cán cân thương mại vô hình. Tổng mức thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai cộng dồn của cả giai đoạn sẽ vào khoảng 72,5 tỷ USD (bằng 17,6% GDP). Trong đó, thâm hụt cán cân thương mại hữu hình chiếm 78,6%, thâm hụt cán cân thương mại vô hình chiếm 21,4% (riêng thâm hụt cán cân dịch vụ chiếm 8,64%, thâm hụt cán cân thu nhập chiếm 12,68%). Ngoài ra, năm 2008 dự kiến mức nhập siêu chiếm tới 57,4% tổng mức nhập siêu của cả giai đoạn và sẽ tác động mạnh đến thâm hụt cán cân vãng lai của giai đoạn 2001- 2008. Như vậy, thực tế này đang đặt ra một vấn đề cấp bách trong điều tiết kinh tế vĩ mô là phải có các giải pháp đồng bộ để kiềm chế nhập siêu, cải thiện cán cân thương mại và đây là việc làm có ý nghĩa quyết định đến việc cải thiện cán cân tài khoản vãng lai. Trái ngược với trạng thái luôn thâm hụt của cán cân tài khoản vãng lai, cán cân vốn của Việt Nam luôn ở trong trạng thái thặng dư từ năm 2001 đến nay. Tổng mức thặng dư của cán cân vốn trong 8 năm qua ước đạt khoảng 51,875 tỷ USD, bù đắp được trên 71% tổng mức thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Như vậy, mức thâm hụt cán cân thanh toán tổng thể cộng dồn của cả giai đoạn 2001- 2008 chỉ vào khoảng 20,62 tỷ USD, bằng khoảng 29% tổng mức thâm hụt cán cân thanh toán tài khoản vãng lai và bằng khoảng 5% GDP. Nhập siêu theo nhóm chủ thể nhập khẩu của Việt Nam Năm/chủ thể nhập khẩu 2005 2006 2007 Giai đoạn 2001- 2008 I. Các doanh nghiệp có vốn FDI a. xuất khẩu: - Tính cả xuất khẩu dầu thô 18.553 23.013 27.776 86.356 - Không tính xuất khẩu dầu thô 11.180 14.749 19.288 56.570 b. nhập khẩu: 13.640 16.489 21.715 65.864 c. nhập khẩu ròng: - Tính cả xuất khẩu dầu thô +4.913 +6.524 +6.061 +20.492 - Không tính xuất khẩu dầu thô -2.460 -1.740 -2.427 -9.249 d. Tỷ lệ xuất siêu so với kim ngạch XK (%) 26,5 28,3 21,8 23,7 II. Các doanh nghiệp trong nước: - xuất khẩu 13.889 16.813 20.785 65.090 - nhập khẩu 18.425 28.402 40.967 118.614 - xuất khẩu ròng -4.536 -11.589 -20.182 -53.524 - Tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch XK (%) 32,6 68,9 97,1 82,2 III. Tổng số (I+ II) - xuất khẩu 32.442 39.826 48.561 151.445 - nhập khẩu 36.978 44.891 62.682 189.390 - xuất khẩu ròng -4.536 -5.065 -14.121 -37.945 - Tỷ lệ nhập siêu so với kim ngạch XK (%) 19,3 12,7 29,1 25 Tính chung 9 tháng năm 2008, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 48,6 tỷ USD, tăng 39% và kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt khoảng 64,4 tỷ USD, tăng 48,3% so với cùng kỳ năm trước... Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 9/2008 ước tính đạt 5,3 tỷ USD, tăng 39,4% so với cùng kỳ năm trước, nhưng giảm 11,9% so với tháng trước do lượng và giá xuất khẩu của một số mặt hàng giảm; trong đó dầu thô giảm 279 nghìn tấn, kim ngạch giảm 394 triệu USD; hàng dệt may giảm 101 triệu USD; giày dép giảm 72 triệu USD; gạo tuy tăng 39 nghìn tấn nhưng kim ngạch giảm 39 triệu USD; thuỷ sản giảm 33 triệu USD. Nếu tính theo từng khu vực của nền kinh tế: khu vực kinh tế trong nước đạt 21,9 tỷ USD, tăng 44,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) đạt 17,8 tỷ USD, tăng 28,1%; dầu thô đạt 8,8 tỷ USD, tăng 52%. Trong tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu 9 tháng, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm 32,7%, nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chiếm 44,5%; nhóm hàng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 22,8%. Kim ngạch xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng trong 9 tháng đều tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Đến nay đã có 10 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD là: Dầu thô đạt 8,8 tỷ USD, tăng 52%; hàng dệt may đạt 6,8 tỷ USD, tăng 20,2%; giày dép đạt 3,4 tỷ USD, tăng 18,2%; thuỷ sản đạt 3,3 tỷ USD, tăng 21,9%; gạo đạt 2,4 tỷ USD, tăng 89,7%; sản phẩm gỗ đạt 2 tỷ USD, tăng 19,4%; điện tử, máy tính đạt 1,9 tỷ USD, tăng 25,5%; cà phê đạt 1,6 tỷ USD, tăng 9,6%; cao su đạt 1,3 tỷ USD, tăng 33,6%; than đá đạt 1,1 tỷ USD, tăng 55,5%. Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng tăng cao chủ yếu vẫn do yếu tố giá xuất khẩu tăng, đặc biệt giá một số mặt hàng tăng liên tục trong 7 tháng đầu năm. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá của 8 mặt hàng (Dầu thô, than đá, gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều, chè) và trị giá tái xuất hàng hoá thì tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu 9 tháng năm 2008 chỉ tăng 14,8% so với cùng kỳ năm trước. Nếu tính theo giá trị từng thị trường: thị trường Mỹ đạt giá trị cao nhất với 8,5 tỷ USD, tăng 17% (Hàng dệt may đạt 3,8 tỷ USD; sản phẩm gỗ 780 triệu USD; giày dép 730 triệu USD; dầu thô 660 triệu USD); thị trường ASEAN đạt 8,4 tỷ USD, tăng 42%; EU đạt 7,8 tỷ USD, tăng 21% (hàng dệt may 1,2 tỷ USD, giày dép 1,9 tỷ USD); Ôx-trây-li-a đạt 3,5 tỷ USD, tăng 67%; Trung Quốc 3,3 tỷ USD, tăng 43%. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 9/2008 ước tính đạt 5,8 tỷ USD, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm trước và giảm 7,6% so với tháng 8/2008. Kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng giảm so với tháng trước là: Xăng dầu, sắt thép, sữa, chất dẻo, máy móc thiết bị, ô tô; trong đó xăng dầu giảm 308 triệu USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng giảm 96 triệu USD. Tính chung kim ngạch hàng hóa nhập khẩu 9 tháng ước tính đạt 64,4 tỷ USD, tăng 48,3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 43 tỷ USD, tăng 53,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 21,4 tỷ USD, tăng 39,5%. Trong tổng kim ngạch hàng hoá nhập khẩu 9 tháng, tư liệu sản xuất chiếm 90,7%; hàng tiêu dùng chiếm 5,7%. Kim ngạch nhập khẩu 9 tháng tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước do lượng và giá nhập khẩu đều tăng cao. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá của 5 mặt hàng (xăng dầu, sắt thép, phân bón, chất dẻo và giấy) thì tổng kim ngạch hàng hoá nhập khẩu 9 tháng năm 2008 ước tính đạt 58 tỷ USD, tăng 33,7% so với cùng kỳ năm trước. Hàng hoá nhập khẩu từ các nước ASEAN vẫn chiếm tỷ trọng lớn và tăng với tốc độ cao, ước tính 9 tháng đạt 15,7 tỷ USD, chiếm 24,4% tổng kim ngạch hàng hoá nhập khẩu, tăng 70% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là Trung Quốc 12 tỷ USD, chiếm 18,6% và tăng 44,6%; EU 4,1 tỷ USD, chiếm 6,4% và tăng 13,8%. Một số thị trường khác tuy thị phần không lớn nhưng cũng có tốc độ tăng cao như Mỹ tăng 80%; Nhật Bản tăng 51%; Hàn Quốc tăng 50%; Đài Loan tăng 45%. Nhập siêu những tháng gần đây đã giảm nhanh (Từ mức nhập siêu 3,2 tỷ USD tháng 4 đã giảm xuống còn 1,9 tỷ USD tháng 5; 728 triệu USD tháng 6; 753 triệu USD tháng 7; 258 triệu USD tháng 8 và 500 triệu USD tháng 9). Nhập siêu hàng hóa 9 tháng là 15,8 tỷ USD, tăng 86% so với cùng kỳ năm trước và bằng 32,6% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu. Xuất khẩu hàng hoá tháng 9 và 9 tháng năm 2008 Nghìn tấn, triệu USD Thực hiện tháng 8 năm 2008 Ước tính tháng 9 năm 2008 Cộng dồn 9 tháng năm 2008 9 tháng năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007 (%) Lượng Trị giá Lượng Trị giá Lượng Trị giá Lượng Trị giá TỔNG TRỊ GIÁ 6018 5300 Khu vực kinh tế trong nước 2564 2450 21936 144,1 Khu vực có vốn đầu tư NN 3454 2850 26639 135,1     Dầu thô 1244 850 8808 152,0     Hàng hoá khác 2210 2000 17831 128,1 MẶT HÀNG CHỦ YẾU Dầu thô  1359 1244 1080 850 10137 8808 90,7 152,0 Than đá 1201 137 1300 130 17057 1140 72,3 155,5 Dệt, may 921 820 6831 120,2 Giày dép 392 320 3439 118,2 Túi xách, ví, va li, mũ, ô dù 66 55 595 129,6 Điện tử, máy tính 233 230 1897 125,5 Sản phẩm mây tre, cói, thảm 18 18 165 100,6 Sản phẩm gốm sứ 26 22 252 104,0 Đá quý, kim loại quý và sản phẩm 38 20 704 533,7 Dây điện và cáp điện 78 70 733 118,1 Sản phẩm nhựa 83 80 674 133,8 Xe đạp và phụ tùng xe đạp 7 7 66 110,1 Dầu mỡ động, thực vật 9 10 84 263,9 Đồ chơi trẻ em 13 13 83 150,5 Mỳ ăn liền 10 11 85 148,0 Gạo 361 289 400 250 3692 2435 92,6 189,7 Cà phê 49 110 50 110 767 1619 78,4 109,6 Rau quả 33 30 282 125,3 Cao su 71 211 80 230 459 1256 92,0 133,6 Hạt tiêu 8 28 7 25 72 255 111,3 123,6 Hạt điều 18 99 18 100 124 696 114,0 151,5 Chè 11 16 12 17 81 113 98,4 127,2 Sản phẩm gỗ 228 210 2030 119,4 Thủy sản 483 450 3323 121,9 Nhập khẩu hàng hoá tháng 9 và 9 tháng năm 2008 Nghìn tấn, triệu USD Thực hiện tháng 8 năm 2008 Ước tính tháng 9 năm 2008 Cộng dồn 9 tháng năm 2008 9 tháng năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007 (%) Lượng Trị giá Lượng Trị giá Lượng Trị giá Lượng Trị giá TỔNG TRỊ GIÁ 6276 5800 64403 148,3 Khu vực kinh tế trong nước 3815 3550 42966 153,1 Khu vực có vốn đầu tư NN 2461 2250 21437 139,5 MẶT HÀNG CHỦ YẾU Ô tô(*) 194 110 1976 220,4     Trong đó: Nguyên chiếc 1,9 56 1,4 25 45,9 881 280,1 267,1 Máy móc, thiết bị, dụng cụ  và phụ tùng 1146 1050 10502 135,4 Điện tử, máy tính và linh kiện 294 300 2647 131,0 Xăng dầu 1104 1088 950 780 10473 9754 110,2 182,9 Sắt thép 332 368 300 330 7032 5706 127,8 168,1     Trong đó: Phôi thép 82 74 80 65 2075 1495 131,9 195,3 Phân bón 154 81 160 83 2668 1289 100,4 200,9     Trong đó: Urê 35 16 35 16 634 251 137,9 211,5 Chất dẻo 127 253 120 230 1313 2327 114,0 135,6 Hóa chất 163 175 1443 141,8 Sản phẩm hoá chất 146 150 1234 135,9 Tân dược 74 75 614 121,6 Thuốc trừ sâu 33 30 391 150,4 Giấy 61 56 60 55 698 575 114,0 132,0 Nguyên phụ liệu dệt, may, da 177 200 1816 115,2 Vải 333 350 3320 115,1 Sợi dệt 34 68 40 78 313 610 102,3 114,8 Bông 24 40 25 42 221 343 133,5 167,0 Thức ăn gia súc và NPL 126 120 1418 161,3 Lúa mỳ 49 20 50 21 551 235 62,8 107,0 Gỗ và NPL gỗ 86 80 854 114,7 Sữa và sản phẩm sữa 35 30 387 131,0 Dầu mỡ động thực vật 67 65 577 197,7 Xe máy(*) 58 56 575 112,9     Trong đó: Nguyên chiếc 7,6 7,3 8,0 7,6 105,7 105,6 113,6 108,1  (*) Nghìn chiếc, triệu USD - Qúi 1 năm 2008 nhập khẩu là 23.4 tỉ đồng so với xuất khẩu là 13.3 tỉ. - Tính hết quí 2 kinh ngạch nhập khẩu cả nước là 48.84 tỉ đô tăng 61.7% so với cùng kì năm ngoái. Trong đó kinh gạch xuất khẩu là 30.63 tỉ đô tăng 35.9% so với cùng kì năm ngoái (cao nhất từ trước đến nay). Mức nhập siêu là 18.21 tỉ đô chiếm 46.5% so với kinh ngach xuất khẩu (tỉ lệ này ở 4 tháng đầu năm xấp xỉ 64 %). Các mặc hàng xuất khẩu chủ đạo là : dầu thô gạo, cao su, hạt điều, than đá … đều tăng. Ngoài ra đáng chú y là các mặt hàng tái xuất khẩu tăng vượt trội so với trước như săt, thép (tăng 251 tr đô so với tháng trước), vàng nguyên liệu ( tăng 157tr đô so với tháng trước).. Nhập khẩu tháng 6 là 6.93 tỉ đô giảm mạnh so với tháng 5. Các nhóm hàng chủ lực đều đã giảm mạnh (trừ xăng dầu, tân dược và thức ăn gia súc). Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng (đây là nhóm hàng dứ kiến không suy giảm trong những tháng tiếp theo), xăng dầu, sắt thép, phân bón, chất dẻo nguyên liêu thức ăn gia súc … Tính chung cho 8 tháng đầu năm xuất khẩu ước tính được 43.3 tỉ USD tăng 31.9% so với cùng kì năm ngoái. Trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 19.6 tỉ USD (tăng 43.9%), khu vực có vốn đầu tư nước ngoài không tính dầu thô đạt 15.8 tỉ USD ( tăng 28%), dầu thô đạt 7. tỉ USD (tăng 53.3%). Nhập siêu 8 tháng đầu năm 16 tỉ USD bằng 36.8% tổng kinh ngach xuất khẩu. tăng 39% so với cùng kì. Tháng 9 xuất khẩu giảm chỉ đạt 5.3 tỉ USD so với thang 8 là 6 tỉ USD (đây là tháng thứ 2 xuất khẩu giảm. nhập khẩu cũng giảm nên mức nhập siêu thấp. Nhập siêu 6 tháng gần đây (dvt:tr đô) Nguy cơ khủng hoảng của thâm hụt tài khoản vãng lai. Thâm hụt thương mại và thâm hụt tài khoản vãng lai được hiểu là nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu và tiêu dùng trong nước nhiều hơn khả năng sản xuất. Khi thâm hụt xãy ra, để có ngọai tệ trả cho các khoản nhập khẩu và thâm hụt này cần có dòng vốn chảy vào như: FDI, đầu tư gián tiếp, vay ngắn hạn và dài hạn, kiều hối và ODA. Nên thông thường thâm hụt thương mại thường đi kèm với thặng dư trên tài khoản vồn. Nếu không có thặng dư các nước phải sử dụng tới dự trữ ngoại hối để đáp ứng cho nhu cầu nhập khẩu của mình, nếu dự trữ không đủ thì chắc chắn sẽ dẫn đến việc đồng tiền bị mất giá. Còn ở việt nam thì sau, không phải đến 2007 việt nam mới nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai. Nhưng đến năm 2007 và đầu nữa năm 2008 thì tình hình trở nên nghiêm trọng hơn theo một nghiên cứu gần đây nhất đưa ra dự báo gồm 3 kịch bản cho năm 2008. Nhìn vào bảng 1 để thấy rõ điều này. BẢNG 1: Cán cân thanh toán việt nam và một số trường hợp Đơn vị: tỷ USD Tài khoản vãng lai Tài khoản vốn Tổng cộng Thâm hụt thương mại Lợi nhuận FDI chuyển ra Kiều hối ODA FDI Đầu tư gián tiếp Năm 2007 -10.3 -2.1 6.4 4 6.5 6.2 10.7 Năm 2008: TH1 -34.6 -2.1 8.2 5 6.5 2? -15 TH2 -27.7 -2.1 8.2 5 6.5 2? -8.1 TH3 -23.3 -2.1 8.2 5 6.5 2? -3.7 Số liệu theo trung tâm nghiên cứu chính sách và phát triển Trường hợp 1: Nếu không hạn chế được nhập siêu và các điều kiện khác là rất thuận lợi thì việt nam sẽ thiếu khoảng 15 tỷ USD, buộc phải sử dụng tới dự trữ ngoại hối, theo thông tin mới nhất thì dự trữ ngoại hối là vào khoảng 20 tỷ USD với khoảng dự trữ này thì việt nam có thể đảm bảo nhu cầu ngoại tệ trong trường hợp xấu nhất. Do đó, khả năng và nguy cơ xãy ra khủng hoảng là không đến nổi nghiêm trọng như báo chí và một số báo các nước ngoài nhận định. Tuy nhiên với dự trữ như vậy là khá mỏng manh vì hai lý do sau: Thứ nhất: ngân hàng nhà nước và chính phủ có quyết tâm sử dụng cả 20 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền không? Thứ hai: trong trường hợp xãy ra tấn công tiền tệ thì việt nam có thể sử dụng tới quỹ dự phòng bình ổn của ASEAN nhưng trên thực tế bao giờ cũng gặp phải khó khăn về thực tiễn và giải ngân. Trường hợp 2 và 3: khả quan hơn, nếu các biện pháp nhập siêu của chính phủ phát huy tác dụng thì mức thâm hụt thương mại là 20 tỷ USD gần với mức mà chính phủ dự đoán, lúc đó chính phủ sẽ chắc chắn sử dụng dự trữ để cân bằng cán cân thanh toán. Như vậy dự trữ quốc gia sẽ bị suy giảm và kéo dài có thể bị cạn kiệt. Vì vậy, chính phủ và quốc hội với vai trò giám sát cần thực hiện những biện pháp không chỉ giảm nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai trong năm 2008. Mà còn những biện pháp dài hạn trong năm 2009 và sau đó để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô NGUYÊN NHÂN VÀ GIảI PHÁP CủA VấN Đề NHậP SIÊU VÀ THÂM HụT CÁN CÂN VÃNG LAI: Nguyên nhân nhập siêu : Khách quan : Đó là do yêu cầu đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước nên chúng ta đã tăng liên tục việc nhập khẩu máy móc thiêt bị kĩ thuạt hiên đại, công nghệ cao. Việc này không chỉ đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà cả doanh nghiêp trong nước. Ngoài ra thị trường chứng khoán phát triển tăng khả năng thu hút vốn của doanh nghiệp. Tất yếu họ sẽ phải mua máy móc thiết bị đầu tư.Trong khi đó giá cả thị trường khu vực và thế giới về các loạt hàng hoá có xu hướng ngày càng tăng. Tuy nhiên liệu đây có phải là nguyên nhân chính yếu hay không thì cần phải xem lại. Trong 8 tháng đầu năm nhập siêu rơi vào khu vực doanh nghiệp trong nước là chủ yếu. trong khi khu vực này lại có năng lực cạnh tranh yếu. Năm 2007, ngân hàng nhà nước thực hiện chính sách mở rộng tiền tệ. Bản thân chính sách tiền tệ lại có độ trễ nên nó sẽ ảnh hưởng đến tỉ giá của năm 2008. Điều đó dẫn đến đồng nội tệ phải giảm giá. Nhưng ngân hàng nhà nước lại không muốn để tỉ giá thay đổi. Vì thế một cách tương đối đồng nội tệ đã lên giá so với ngoại tệ. Vì thế tạo điều kiện nhập khẩu tăng. Như vậy một trong những nguyên nhân khách quan nữa đó chính là do chính sách của chính phủ. Xét trên quan điểm xuất khẩu, nhập siêu là do quản lí cơ cấu xuất nhập khẩu của nhà nước ta còn chưa tốt. Chủ quan : Do năng lực cạnh tranh của chính doanh nghiệp trong nước còn quá thấp, trước hết là so với khu vực Đông Á. Tuy nhiên lâu nay chúng ta chỉ đổ lỗi cho các nguyên nhân khách quan còn nguyên nhân chủ quan thì ta không chịu thừa nhận. Theo như quan điểm của một số người thì họ không chịu coi đây là nguyên nhân cơ bản nhưng thật chất thì đây mới chính là nguyên nhân cốt lỗi. Nếu như cứ trốn tránh mà không chịu chấp nhận để có những giải pháp kịp thời thì khó mà hạn chế được tình trạng nhập siêu. Trong năm 2007 khu vực doanh nghiệp trong nước có tỉ suất lợi nhuận trên vốn là 4.4% và trên doanh thu là 5.1% thấp hơn nhiều so với khu vực FDI có các con số tương ứng là 11.65% và 14.6%. Điều này cho thấy rõ năng lực cạnh tranh và năng lực hoạt động của các doanh nghiệp trong nước còn quá thấp. Có thể lí giải tình hình này bởi nhiều nguyên nhân khác nhau như :qui mô lao động, nguồn vốn đầu tư, trình độ khoa học kĩ thuật, trình độ tổ chức quản lí điều hành cũng như chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ lao động… Đặc biệt là nguồn nhân lực. Có thể thấy rõ có hai hạn chế và bất cập lớn về chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam: Năng lực quản trị của đội ngũ cán bộ quản lí trong doanh nghiệp còn nhiều yếu kém . Trình độ khoa hoc kĩ thuật tay nghề đội ngũ lao động có chuyên môn kĩ thuật cao còn thấp. Nguyên nhân thâm hụt tài khoản vãng lai: Theo Bernanke (2007) chủ tịch Quỹ dự trữ liên bang Hoa Kỳ thì thâm hụt tài khoản vãng lai chính là chênh lệch giữa đầu tư trong nước và tiết kiệm trong nước. Như vậy ở mức độ cơ bản nhất thì chúng ta cần xem xét 2 vấn đề: Đầu tư Tiết kiệm CA= S-I Trong đó: CA: current account mức thâm hụt/thặng dư của tài khoản vãng lai S: domestic savings mức tiết kiệm trong nền kinh tế I: investment đầu tư 5.1, Đầu tư tăng cao: Một trong những nguyên nhân gây ra thâm hụt tài khoản vãng lai chính là do nhu cầu đầu tư của khu vực tư nhân tăng cao hơn mức tiết kiệm trong nền kinh tế Những lí do khiến đầu tư tăng cao: Chính sách tiền tệ nới lỏng tại Việt Nam: khi thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ làm tăng đầu tư trong nước do trong ngắn hạn làm giảm lãi suất Chính sách tiền tệ còn tác động thông qua tỉ giá: thong thường khi áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng tạo nên áp lực giảm giá đồng nội tệ so với ngoại tệ. Khi tỉ gía hối đoái được thay đổi tự do : NK trở nên đắt hơn và XK trở nên rẻ hơn Khi tỉ giá không được tự do thay đổi thì đồng tiền nội tệ về bản chất là đã lên giá như vậy làm giảm XK tăng NK Trong một thời gian dài VN đã duy trì tỉ giá cố định gắn với đồng đôla Mỹ, khi lạm phát thấp đây là chính sách hợp lý làm tăng khả năng xuất khẩu của hàng hóa VN. Tuy nhiên từ cuối năm 2006 và 2007 lượng vốn đầu tư gián tiếp lẫn trực tiếp chảy vào VN tăng đột biến làm đồng Việt Nam tăng giá so với đồng tiền khác. Để duy trì tính cạnh tranh về giá của hàng XK, Ngân hàng Nhà nước đã tung một lượng tiền lớn để mua đôla Mỹ làm tăng dữ trữ ngoại hối. Theo thống kê cung tiền tăng 135%, mà năm 2007 là năm tăng trưởng tín dụng do vậy lạm phát tăng cao khoảng 20%. Lạm phát có tác động làm đồng tiền mất giá, nhưng việc giữ tỉ giá cố định về cơ bản là việc duy trì một đồng tiền định giá quá cao đã làm cho hàng VN mất tính cạnh tranh (trở nên đắt hơn) và hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn. Đây cũng chính là nguyên nhân của tình trạng nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai. Tăng trưởng nóng của thị trường chứng khoán: Trong năm 2006 và 2007 đã chứng kiến hàng loạt các công ty thực hiện cổ phần hóa ,lên sàn, phát hành thêm cổ phiếu. năm 2007 còn được nhìn nhận là năm của IPO. Với lượng vốn đầu tư được huy động qua kênh của thị trường chứng khoán, rõ ràng là mức đầu tư của VN tăng rất nhiều. Hệ quả tất yếu của việc tăng đầu tư là nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai 5.2,Tiết kiệm thấp, Thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai Một trong những nguyên nhân gây ra thâm hụt tài khoản vãng lai chính là thâm hụt ngân sách nhà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBai nop thay.DOC
  • pptslide TCQT.ppt
Tài liệu liên quan