Tiểu luận Vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam

Tại đại hội lần thứ nhất của hội Việt Nam cách mạng thanh niên (5-1929) đã xảy ra sự bất đồng giữa các đại biểu về việc thành lập Đảng cộng sản, thực chất là sự khác nhau giữa các đại biểu muốn thành lập ngay một Đảng cộng sản và giải thể tổ chức hội Việt Nam cách mạng thanh niên, với nhưng đại biểu cũng muốn thành lập Đảng cộng sản nhưng không muốn tổ chức đảng ở giữa đại hội thanh niên và không muốn giải tán Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Trong bối cảnh đó các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời.

doc15 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 17835 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tìm ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam: con đường cách mạng vô sản – mở tiền đề cho việc thành lập Đảng cộng sản. 1.1, Hoàn cảnh đất nước ta trước khi Bác ra đi tìm đường cứu nước Cuối thế kỷ XIX, mặc dù triều đình phong kiến nhà Nguyễn ký các hiệp ước Harmand (1883), Patenotre (1884), đầu hàng thực dân Pháp, song phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp vẫn diễn ra. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Tiêu biểu nhất cho thời kỳ này là phong trào Cần Vương (1885-1896), cuộc khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang), cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy,…Tuy nhiên các cuộc khởi nghĩa này đều bị thực dân Pháp dập tắt trong biển máu. Thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ gaii cấp phong kiến và hệ tư tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc Việt Nam. Sang đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Về mặt phương pháp, tầng lớp sĩ phu lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX có sự phân hóa thành 2 xu hướng. Một bộ phận chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập dân tộc, khôi phục lại chủ quyền quốc gia bằng biện pháp bạo động . Một bộ phận khác lại coi cải cách là giải pháp để tiến tới khôi phục độc lập. Đại diện của xu hướng bạo động là Phan Bội Châu, ông chủ trương dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài, chủ yếu là Nhật Bản, để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước theo mô hình quân chủ lập hiến của Nhật. Ông lập ra Hội Duy Tân( 1904), tổ chức phong trào Đông Du( 1906-1908). Rồi sau đó về Trung Quốc lập ra Việt Nam Quang Phục Hội( 1912) với ý định tập hợp lực lượng rồi kéo quân về nước võ trang bạo đông chống Pháp, giải phóng dân tộc, nhưng rồi cũng không thành công. Đại biểu xu hướng cải cách là Phan Chu Trinh, với chủ trương vận động cải cách văn hóa, xã hội, động viên lòng yêu nước trong nhân dân, đả kích bọn phong kiến vua quan thối nát, thực hiện chấn dân khí, hậu dân sinh, mở mang dân quyền, phản đối đấu tranh vũ trang,…Hoạt động cách mạng của Phan Chu Trinh đã góp phần thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên về phương pháp, “Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương,...điều đó là sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủi lòng thương.” Ngoài ra trong thời kỳ này ở Việt Nam còn có nhiều phong trào đấu tranh nổ ra, theo đó các tổ chức đảng phái cũng bắt đầu ra đời. Các đảng phái chính trị tư sản và tiểu tư sản đã góp phần thúc đẩy phong trào yêu nước chống Pháp , đặc biệt là Tân Việt cách mạng Đảng và Việt Nam quốc dân Đảng. Trong nội bộ Tân Việt cách mạng Đảng thì khuynh hướng cách mạng theo quan điểm vô sản đã thắng thế, còn Việt Nam quốc dân Đảng là một đảng chính trị theo xu hướng dân chủ tư sản. Về sau cuộc khởi nghĩa của Việt Nam quốc dân Đảng đã bị thực dân Pháp dập tắt, còn số đảng viên tiên tiến còn lại trong Tân Việt tích cực chuẩn bị để tiến tới thành lập một chính đảng theo chủ nghĩa Mac-Lenin. 1.2, Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyên Ái Quốc Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19-5-1890, quê ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Lúc nhỏ có tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành. Lớn lên giữa lúc nước mất nhà tan, đau xót trước cảnh lầm than của đồng bào. Nguyễn Tất Thành sớm có chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc. Ngày 5-6-1911. Nguyễn Tất Thành rời đất nước ra đi tìm đường cứu nước, xem các nước làm thế nào rồi trở về giúp đồng bào. Gần mười nǎm bôn ba khắp các châu lục (1911-1920), Người đến những nước thuộc địa và những nước đế quốc như Anh, Mỹ, Pháp... quan sát, nghiên cứu, suy nghĩ, đã phát hiện một chân lý: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ của giai cấp công nhân với nhân dân lao đồng ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa... Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc trở lại Pháp. Khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công, Người tham gia những hoạt động chính trị sôi nổi ngay trên đất Pháp như : tham gia hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Năm 1919, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6 - 1919, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt nhóm người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi “ Bản yêu sách 8 điểm” đến Hội nghị Vécxai, nhằm tố cáo chính sách của Pháp và đòi Chính phủ Pháp thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Mặc dù không được chấp nhận, nhưng “ Bản yêu sách” đã gây tiếng vang lớn đối với nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa của Pháp. Vào tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin đăng trên báo Nhân đạo. Người tìm thấy trong luận cương của Lênin lời giải đáp về con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam, về vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới… Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Tháng 12 nǎm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp họp ở Tua, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản và chủ trương thành lập Đảng cộng sản Pháp. Giải thích việc làm đầy ý nghĩa đó, đồng chí Nguyễn Ái Quốc viết: "Đệ tam Quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ. Còn Đệ nhị Quốc tế không hề nhắc đến vận mạng các thuộc địa. Vì vậy, tôi đã bỏ phiếu tán thành Đệ tam Quốc tế. Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đây là tất cả những điều tôi muốn." Sự kiện này đánh dấu ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người – từ yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn. “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản “.Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định : “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin, con đường cách mạng Việt Nam không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản.” 2, Sau khi tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị mọi mặt cho sự ra đời của một chính đảng vô sản ở Việt Nam. 2.1, Chuẩn bị về tư tưởng : 2.1.1, Thời kỳ ở Pháp (1919-1923) : Người xác định kẻ thù chính của nhân dân ta Từ khi trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã xúc tiến mạnh mẽ việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào giải phóng dân tộc và phong trào vô sản ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Năm 1921 Người cùng với một số nhà yêu nước của các nước thuộc địa khác như: Angiêri, Tuynidi, Marốc ... thành lập " Hội liên hiệp thuộc địa" để tuyên truyền, tập hợp lực lượng chống chủ nghĩa đế quốc. Năm 1922 : Ra báo “ Le Paria” ( Người cùng khổ ) vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc, góp phần thức tỉnh các dân tộc bị áp bức đứng lên tự giải phóng.Nguyễn Ái Quốc là người phụ trách chính của tờ báo. Nǎm 1925, được sự giúp đỡ của những người cộng sản Pháp, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp của đồng chí Nguyễn ái Quốc viết bằng tiếng Pháp được xuất bản lần đầu tiên ở Pari. Tư tưởng, quan điểm cơ bản của Người về chiến lược và sách lược cách mạng thuộc địa đã bước đầu thể hiện trong tác phẩm. Bản án chế độ thực dân Pháp tố cáo trước nhân dân Pháp và thế giới những tội ác của bọn thực dân không chỉ ở Việt Nam, Angiêri mà ở khắp các thuộc địa. Bằng biểu tượng "con đỉa hai vòi", Nguyễn Ái Quốc đã làm cho người đọc thấy rằng: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp vô sản và nhân dân lao động bị áp bức, bị bóc lột ở các nước chính quốc và các dân tộc thuộc địa. Bản án chế độ thực dân Pháp đã góp phần vào việc thiết lập sự liên minh giữa cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, phải thực hiện sự liên minh chật chẽ với nhau để chống kẻ thù chung, vì "chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc tế giành được thắng lợi cuối cùng". 2.1.2, Thời kỳ ở Liên Xô (1923-1924) : Người tham gia hoạt động quốc tế và học tập kinh nghiệm từ Cách mạng Tháng Mười Nga. Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật từ Pari sang Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế Nông dân lần thứ nhất ( 10-1923 ), và Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V ( 7-1924 ) ... Ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc tích cực nghiên cứu các vấn đề về dân tộc và thuộc địa. Người đã có các tham luận quan trọng tại các đại hội quốc tế, viết nhiều bài cho các báo " Sự Thật" - cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng Sản Liên Xô, tạp chí " Thư tín Quốc tế" của Quốc tế Cộng Sản. Nguyễn Ái Quốc tiếp tục phát triển và hoàn thiện thêm tư tưởng về cách mạng giải phóng dân tộc, thông qua hoạt động thực tiễn và nghiên cứu sách báo mácxít. Nguyễn Ái Quốc đã nêu rõ mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa với cách mạng chính quốc, về vai trò của giai cấp nông dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đây là bước chuẩn bị quan trọng về chính trị, tư tưởng cho sự thành lập Đảng Cộng Sản ở Việt Nam. 2.1.3, Thời kỳ ở Trung Quốc (1924-1927) : Hình thành quan niệm lý luận cách mạng cơ bản Tháng 11 năm 1924, với tư cách là uỷ viên Bộ phương Đông của Quốc tế cộng sản, trực tiếp phụ trách Cục phương Nam, Nguyễn Ái Quốc đã từ Liên Xô đến Quảng Châu (Trung Quốc) để hoạt động, xây dựng phong trào và đào tạo cán bộ cách mạng cho một số nước ở Đông Nam Á. Tại đây, đồng chí đã cùng với các nhà lãnh đạo cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, v.v..sáng lập ra Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á - Đông. Tháng 6 năm 1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Chương trình và Điều lệ của Hội nêu rõ mục đích là : làm cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới. Sau khi cách mạng thành công, Hội chủ trương thành lập Chính phủ nhân dân, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, tiến lên xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, thực hiện đoàn kết với giai cấp vô sản các nước, với phong trào cách mạng thế giới. Từ năm 1925 đến năm 1927, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã mở các lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ cách mạng Việt Nam. Hội đã xây dựng được nhiều cơ sở ở các trung tâm kinh tế, chính trị trong nước. Năm 1928, Hội thực hiện chủ trương “ vô sản hóa ”, đưa hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để rèn luyện lạp trường, quan điểm giai cấp công nhân, để truyền bá chủ nghĩa Mac-Lênin và lý luận giải phóng dân tộc nhằm thúc đẩy sự phát triển của phong trào cách mạng Việt Nam. Đầu nǎm 1927, cuốn “ Đường cách mệnh “ gồm những bài giảng của Người trong các lớp đào tạo cán bộ ở Quảng Châu, được Bộ tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á - Đông xuất bản. Trong tác phẩm quan trọng này, đồng chí Nguyễn ái Quốc nêu ra những tư tưởng cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mang Việt Nam. Đường cách mệnh chỉ rõ đối tượng đấu tranh của cách mạng Việt Nam là tư bản đế quốc chủ nghĩa, phong kiến địa chủ; đồng thời, chỉ rõ động lực và lực lượng cách mạng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc của một hai người, do đó phải đoàn kết toàn dân. Nhưng cái cốt của nó là công – nông và phải luôn ghi nhớ rằng công – nông là người chủ cách mệnh, công – nông là gốc của cách mệnh. Nguyễn Ái Quốc khẳng định : Muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo, Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin. Về phương pháp cách mạng, Người nhấn mạnh đến việc giác ngộ và tổ chức quần chúng cách mạng, phải làm cho quần chúng hiểu rõ mục đích cách mạng, biết đồng tâm hiệp lực để đánh đổ giai cấp áp bức mình, làm cho cách mạng biết cách làm, phải có “ mưu chước ‘’, có như thế mới đảm bảo thành công cho cuộc khởi nghĩa với sự nổi dậy của toàn dân. Tác phẩm Đường cách mệnh đã đề cập những vấn đề cơ bản của một cương lĩnh chính trị, chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đường cách mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội và tác phẩm Đường cách mệnh đã trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng, lý luận chính trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam. 2.2, Chuẩn bị về tổ chức 2.2.1, Các tổ chức do Người thành lập ra Năm 1921, nhờ sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng với một số chiến sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa của Pháp lập ra Hội liên Hiệp Thuộc địa nhằm tập hợp tất cả những người ở thuộc địa sống trên đất Pháp đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Hội quyết định xuất bản tờ báo Người cùng khổ, do Bác làm chủ nhiệm kế bút. Cuối năm 1921, tại đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Pháp họp ở Macxay, Người đã trình bày dự thảo nghị quyết về vấn đề “ chủ nghĩa cộng sản và thuộc địa” và ý kiến nghị thành lập Ban Nghiên Cứu thuộc địa trực thuộc ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Pháp. Kiến nghị đó được Đại hội chấp nhận . Năm 1922, Ban nghiên cứu thuộc địa được cư làm trưởng tiểu ban nghiên cứu về vấn đề Đông Dương. Tháng 6-1925, Người sáng lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, hạt nhân là Cộng sản đoàn. Cơ quan tuyên truyền của Hội là tuần báo báo Thanh niên. Đây là một bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm 1925-1927, người mỏ nhiều lớp huấn luyện chính trị tại Quảng Châu, đào tạo một đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Sau các khóa học một số được chọn đi học ỏ trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, một số được cử đi học trường quân sự Hoàng Phố, còn phần lớn trở về nước để “ truyền bá lí luận giải phóng dân tộc, và tổ chức nhân dân”. 2.2.2, Cách thức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên Sự truyền bá chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh vào trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước gắn liền với xây dựng các tổ chức cơ sở của Hội ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng. Số hội viên của Hội tăng mạnh. Năm 1928, có 300 hội viên, năm 1929 có 1700 hội viên. Tổ chức cũng được xây dựng trong nhiều nhà máy, hầm mỏ. Một số đảng viên tiên tiến trong Tân Việt cũng ngả theo Hội, nhiều người đã trở thành hội viên của Hội. Việc truyền bá lí luận giải phóng dân tộc và tổ chức vận động nhân dân dấy lên một phong trào dân tộc chủ ở Việt Nam ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là phong trào công nhân. Trong những năm 1926-1929, phong trào công nhân đã có sự lãnh đạo của các tổ chức như Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Công hội đỏ và các tổ chức cộng sản ra đời trong năm 1929. Ở giai đoạn này nhiều cuộc bãi công diễn ra. Từ năm 1928 đến năm 1929, có khoảng 40 cuộc đấu tranh của công nhân diễn ra trong toàn quốc. Các cuộc đấu tranh của công nhân Việt Nam trong những năm 1926-1929 mang tính chất chính trị rõ rệt. Mỗi cuộc đấu tranh đã có sự liên kết giữa các nhà máy, các nghành và các địa phương. Phong trào công nhân có sức lôi cuốn phong trào dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. 3, Năm 1930, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng và soạn thảo cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng 3.1, Nguyễn Ái Quốc đứng đầu trong hội nghị thành lập Đảng Tại đại hội lần thứ nhất của hội Việt Nam cách mạng thanh niên (5-1929) đã xảy ra sự bất đồng giữa các đại biểu về việc thành lập Đảng cộng sản, thực chất là sự khác nhau giữa các đại biểu muốn thành lập ngay một Đảng cộng sản và giải thể tổ chức hội Việt Nam cách mạng thanh niên, với nhưng đại biểu cũng muốn thành lập Đảng cộng sản nhưng không muốn tổ chức đảng ở giữa đại hội thanh niên và không muốn giải tán Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Trong bối cảnh đó các tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời. Đông Dương cộng sản Đảng ra đời ngày 17-6-1929, tại Hà Nội, do đại biểu các tổ chức cộng sản ở miền bắc thành lập. An Nam cộng sản Đảng thành lập vào mùa thu năm 1929, do các đại biểu trong hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Trung Quốc và Nam Kỳ thành lập. Sự ra đời của hai tổ chức cộng sản trên làm cho nội bộ Đảng Tân Việt phân hoá, những đảng viên tiên tiến của Tân Việt đứng ra thành lập Đông Dương cộng sản liên đoàn. Mặc dù đều giương cao ngọn cờ chống đế quốc, phong kiến, xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam, nhưng ba tổ chức cộng sản trên hoạt động phân tán, chia rẽ đã ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng ở Việt Nam lúc này. Vì vậy, việc khắc phục sự chia rẽ, phân tán giữa các tổ chức cộng sản là yêu cầu cấp thiết của cách mạng nước ta, là nhiệm vụ cấp bách trước mắt của tất cả những người cộng sản Việt Nam. Ngày 27-10-1929, Quốc tế Cộng sản gửi những người Cộng sản Đông Dương tài liệu “Về việc thành lập một Đảng Cộng sản ở Đông Dương”, yêu cầu những người cộng sản Đông Dương phải khắc phục ngay sự chia rẽ giữa các nhóm cộng sản và thành lập một đảng của giai cấp vô sản. Nhận được tin về sự chia rẽ của những người cộng sản ở Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đến Trung Quốc. Người chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng, tại Hương Cảng, Trung Quốc. “ Với tư cách là Phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương”, Người chủ động triệu tập “ đại biểu của hai nhóm (Đông Dương và An Nam)” và chủ trì Hội Nghị hợp nhất đảng tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc). Hội nghị bắt đầu họp từ ngày 6-1-1930. Thành phần Hội nghị hợp nhất gồm: 1 đại biểu của Quốc tế Cộng sản, 2 đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng, 2 đại biểu An Nam Cộng sản Đảng. Hội nghị thảo luận đề nghị của Nguyễn Ái Quốc gồm 5 điểm lớn, với nội dung: Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương. Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược của Đảng. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước Cử một Ban Trung ương lâm thời gồm chín người, trong đó có hai đại biểu chi bộ cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương. Hội nghị nhất trí với Năm điểm lớn theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc và quyết định hợp nhất các tổ chức cộng sản, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo ra. Ngày 24-2-1930, theo yêu cầu của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời họp và ra Nghị quyết chấp nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoàn tất việc hợp nhất ba tổ chức công sản ở Việt Nam. 3.2, Người đã soạn thảo ra cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Các văn kiện được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam như: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xác định các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam: Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là : “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng là đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập. Sau đó lập chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông. Về kinh tế thì thủ tiêu hết các thứ quốc trái, tịch thu toàn bộ sản nghiệp của tư bản đế quốc Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý. Tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa chia cho dân nghèo, bãi bỏ các sưu thuế. Về văn hóa thì phổ thông giáo dục theo công nông hóa, nam nữ bình đẳng,… Về lực lượng cách mạng : Lực lượng cách mạng là giai cấp công nhân và nông dân nhưng bên cạnh đó cũng phải liên minh đoàn kết với tiểu tư sản, lợi dụng hoặc trung lập phú nông, trung nông, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam chưa rõ mặt phản cách mạng. Về lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đảng là đội tiên phong cho giai cấp vô sản. Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. 4, Kết luận Qua những gì đã tìm hiểu ở trên ta thấy được rằng: 1/ Sau gần 10 năm tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc đồng thời đó là cơ sở lý luận của Đảng. 2/ Nguyễn Ái Quốc đã chuyển bị về tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam: a) Tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lênin vào nước ta thông qua các sách báo: Nhân đạo, Đời sống công nhân, Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường cách mạng v.v... b) Thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin chuẩn bị thành lập Đảng. 3/ Đến 1929, ba tổ chức cộng sản ra đời nhưng lại công kích lẫn nhau. Yêu cầu của lịch sử cần phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước. Với thiên tài và uy tín, Nguyễn Ái Quốc đã thống nhất 3 tổ chức cộng sản thành 1 đảng duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam. 4/ Người đã vạch ra cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đặt nền tảng cho đường lối cách mạng của Đảng ta. Tóm lại Hồ Chí Minh có vai trò rất lớn đối với sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể nói Bác là người đã sáng lập ra Cộng sản Việt Nam. 5, Liên hệ thực tiễn vai trò của Hồ Chí Minh đối với Đảng ta hôm nay Dù Bác đã cách xa chúng ta hơn 40 năm nhưng vai trò của Người đối với Đảng và cuộc sống chúng ta hôm nay vẫn là rất lớn. Tư tưởng của Người không chỉ là kim chỉ nam cho định hướng, chính sách của Đảng mà còn đóng góp giáo dục thế hệ thanh thiếu niên hôm nay luôn kiên định với con đường xã hội chủ nghĩa mà Người đã dày công vun đắp. Qua những gì đã chứng minh ở trên ta thấy được rằng Người đóng vai trò rất lớn đối với việc thành lập Đảng. Trong những năm tháng chiến tranh cũng chính là Người đã dìu dắt Đảng ta, nhân dân ta vượt qua những khó khăn để dành được thắng lợi cuối cùng. Trong công cuộc đổi mới hôm nay, chúng ta đã tiến hành nhiều cải cách nhiều thay đổi để phù hợp với yêu cầu khách quan của thực tiễn. Thế nhưng vẫn luôn tuyệt đối trung thành theo con đường vô sản mà Người đã chọn. Bác là người đã đặt nền móng cho chủ nghĩa vô sản ở đất nước ta, và từ những tư tưởng của Người đã được Đảng và nhân dân áp dụng sáng tạo trong công cuộc công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước hôm nay. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh,Đảng ta đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng trên tất cả các mặt : tư tưởng-lí luận, chính trị tổ chức và cán bộ đạo đức..làm cho Đảng trong sạch vững mạnh,đạt tầm cao về đạo đức,trí tuệ bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi thử thách của lịch sử. Về chính trị: có đường lối chính trị đúng đắn,bản lĩnh chính trị vững vàng trong mọi tình huống phức tạp,một đường lối cứng rắn về chiến lược,mềm dẻo về sách lược,linh hoạt về biện pháp đấu tranh.Đặc biệt trong tình hình chính trị thế giới hiện nay,với những cuộc xung đột liên quan tới vũ khí hạt nhân thì Đảng ta cần phải có một bản lĩnh vững vàng để bảo vệ đất nước.Hiện nay, Việt Nam đã quyết định không cho nước ngoài thuê cảng Cam Ranh nữa,mà đã quyết định tự mình xây dựng cảng Cam Ranh bằng nguồn lực của chính mình và sẽ sẵn sàng cung cấp dịch vụ cho tàu hải quân tất cả các quốc gia . Đây là một đường lối đúng đắn, chúng ta không nghiêng về phía cường quốc kinh tế nào nữa, mà sẽ tự dựa vào sức mình để xây dựng cảng có vị trí tự nhiên tốt cũng như quân sự quan trong này. Hơn nữa trong các cuộc tranh chấp của các nước, chủ trương của Đảng ta là trung lập không theo phe phái nào. Tình hình thế giới hiện nay đang ngày càng phức tạp, tranh chấp trên Biển Đông cũng đang xấu đi. Nhưng vẫn theo những đường lối mềm dẻo mà Bác đã áp dụng khi nước ta vừa dành được độc lập năm 1945, chủ trương của Đảng vẫn là giải quyết các cuộc tranh chấp trên cơ sở các cuộc đàm phán ngoại giao, thỏa hiệp. Tuy nhiên như thế cũng không phải là chúng ta nhín nhường, chúng ta vẫn luôn cứng rắn bảo vệ chủ quyền đất nước ta, chuẩn bị các vũ khí tối tân nhằm trường hợp xấu nhất có thể xảy ra. Tuân theo di nguyện của Người, Đảng và nhân dân ta quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền cho đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa trường tồn. Về tư tưởng: Sự đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh đã được chứng minh qua những thắng lợi trong chiến tranh. Và giờ đây khi đất nước đang trong quá trình hội nhập với thế giới, cuộc chiến về diễn biến hòa bình cũng thầm lặng và cam go hơn hết. Trách nhiệm của Đảng không chỉ là duy trì những tinh hoa từ tư tưởng của Người mà còn phải phát huy sáng tạo trước những điều kiện hoàn cảnh mới. Bác đã thành lập và đặt nền móng cho chủ nghĩa xã hội ở đất nước ta, con đường của Người đã giải phóng ách nô lệ cho đồng bào ta. Vì thế mỗi người dân hôm nay phải phát huy tích cực hơn nữa xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp phồn vinh và kiên định theo con đường chủ nghĩa xã hội mà bác đã chọn. Về đạo đức,lói sống: Khi còn sống Bác vẫn thường căn dặn mỗi cán bộ,đảng viên phải coi trọng tu dưỡng đạo đức,cần kiệm liêm chính,chí công vô tư. Thế nhưng hiện nay những đức tính này dần dần đã bị suy thoái,và những hạn chế này đã là giảm sút nghiêm trọng niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Bởi vẫn có những người tham ô,lãng phí,gần đây nhất là vụ việc Vinashin đã làm thất thoát hơn 86.000 tỉ đồng,hay vụ án PMU 18

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTLTV1169.doc
Tài liệu liên quan