MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
NỘI DUNG
I. Vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội. 2
1. Khái niệm của lực lượng sản xuất. 2
2. Vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống Xã hội 4
II. Sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam vào quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay. 6
1. Khái niệm công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 6
2. Sự vận dụng của Đảng Cộng Sản vào quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam. 8
3. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá tạo ra ngững kết quả và mối liên hệ với lực lượng sản xuất. 10
III. Giải pháp. 12
KẾT LUẬN 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO 16
17 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5377 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội và sự vận dụng của Đảng vào quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LờI NóI ĐầU
Trong quá trình phát triển lịch sử của loài người có rất nhiều giai đoạn hình thành và phát triển đất nước. Trải qua mỗi giai đoạn dều có rất nhiều nguyên nhân để dẫn đến sự thành công hay thất bại của chế độ xã hội đó. Trong đó vai trò của lực lượng sản xuất có phần lớn quyết định đến xã hội.
Là một nước đi theo con đường CNXH, và đang trong thời kì quá độ lên XHCN nên chúng ta gặp rất nhiều khó khăn trên các lĩnh vực, chính vì vậy muốn cho đất nước phát triển theo định hướng XHCN Đảng và nhà nước ta đã nghiên cứu rất kĩ về vai trò của lực lượng sản xuất và đã có sự vận dụng phù hợp lực lượng sản xuất vào quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá của nước ta hiện nay.
Qua nghiên cứu và tìm hiểu em đã chọn đề tài: “Vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội và sự vận dụng của Đảng vào quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay”.
Do hạn chế về hiểu biết nên trong bài viết của em sẽ khó tránh khỏi những sai sót. Em kính mong được các thầy cô chỉ bảo để bài viết của em được đầy đủ ý và sâu sắc hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
NộI DUNG
I. Vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội.
1. Khái niệm của lực lượng sản xuất.
1.1. Khái niệm:
Lực lượng sản xuất là yếu tố đông nhất, phát triển không ngừng, quyết định quan hệ sản xuất.
1.2. Cấu trúc lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất bao gồm yếu tố con người và những yếu tố vật của quá trình sản xuất.
a. Yếu tố con người:
Lực lượng sản xuất,trước hết là yếu tố con người có khả năng lao động,có kiến thức, có thói quen, kinh nghiệm và kỹ năng kỹ thuật sản xuất.
Khi phân tích về lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản C.Mác đã viết:trong tất cả những công cụ sản xuất thì lực lượng sản xuất hùng mạnh nhất là bản thân của cách mạnh. Như vậy Mác đã khẳng định con người là yếu tố có vai trò to lớn nhất, quyết định trong lực lượng sản xuất.
Lênin viết:Lực lượng sản xuất chủ yếu của nhân loại, là công nhân”. Giống như Mác,Lênin đặt con người vào vị trí hàng đầu , số 1:các ông đều coi con người phải là người công nhân, giai cấp tiên tiến, nghĩa là đều nhấn mạnh đến “chất lượng của người lao động, lực lượng sản suất.
Con người tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách là một yếu tố của lực lượng sản xuất, trước hết bằng chính sức mạnh cơ bắp của mình và trong quá trình đó, tự nhiên tác động trở lại làm con người ngày càng hoàn thiện về trí tuệ, đúng là lao đọng đã sáng tạo ra chính bản thân con người”. ở đây, con người là một sinh vật xã hội có trí tuệ cho nên khi tham gia vào qúa trình lao động, ngoài sức mạnh cơ bắp nó còn đựơc chỉ huy bằng trí tuệ.Thông qua hoạt động thực tiễn, con người dùng trí tuệ để nhận thức bản chất, quy luật của các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan, sử dụng chúng làm phương tiện sản xuất và con người không ngừng tạo ra cho mình những lực lượng sản xuất ngày càng lớn mạnh, tinh vi.
b. Yếu tố vật của quá trình sản xuất:
Nhấn mạnh vai trò của công cụ lao động và của yếu tố người trong lực lượng sản xuất, C.Mác không xem nhẹ đối tượng lao động bởi vì nó là yếu tố không thể thiếu trong quá trình sản xuất.Con người chỉ có thể dùng công cụ lao động để biến khả năng lao động của mình thành hiện thực và tạo ra những vật phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu của mình trên cơ sở những đối tượng lao động nhất định.
Nếu như trong tiến trình lịch sử tư liệu lao động càng phong phú, trí tuệ và năng lực của con người càng phát triển, khả năng nhận thức và cải biến tự nhiên của con người càng cao thì phạm vi đối tượng lao động càng được mở rộng. Điều đó nói lên rằng các yếu tố trong lực lượng sản xuất quan hệ rất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau một cách biện chứng như là những yếu tố của hệ thống.
Trong lực lượng sản xuất, công cụ lao động có một vai trò quan trọng, là thước đo sự chinh phục tự nhiên của con người. Với mục đích luôn muốn tăng năng suất và giảm cường độ lao động , con người dã sáng tạo ra chúng để nối dài các khí quan và tăng sức mạnh cơ bắp của mình. Nhờ đó mà công cụ ngày càng được hoàn thiện, hiện đại, nó có thể thay thế hầu hết các thao tác kĩ thuật khéo léo của con người, đó là vai trò to lớn cua công cụ lao động. Tuy nhiên, đã gọi là công cụ lao động, nó không thể ơ dạng nguyên thuỷ của tự nhiên, nó không thể tự ra đời mà phải có sự chế tạo của con người và chế tạo công cụ lao động chính là đặc trưng cơ bản để phân biệt giữa con người và con vật. Con người chính là động vật biết chế tạo công cụ lao động. Như vậy công cụ lao động yếu tố được coi là “động” của lực lượng sản xuất, chẳng qua cũng chỉ là phần tự nhiên được trí tuệ hoá mà thôi, công cụ lao động càng tinh vi, điều đó càng chứng tỏ con người càng hiện đại,càng tách xa thế giới tự nhiên.
1.3. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất.
Với tính cách một hệ thống, lực lượng sản xuất không ngừng biến đổi và thực tế đang có những biến đổi căn bản về chất ở thời đại chúng ta.Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cũng thể hiện tính khách quan của nó là lực lượng sản xuất luôn đi trước và xét cho cùng, quyết định sự phát triển xã hội.Tất nhiên chúng ta không nên “tuyệt đối hoá” quá mức vai trò “độc tôn” của lực lượng sản xuất mà bỏ qua sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với nó khi giữa chúng có sự phù hợp. Sự phát triển chệch hướng của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là do yếu tố chủ quan , chứ không phải là do tính đặc thù của quy luật đó. Quan hệ sản xuất là yếu tố quyết định, làm tiền đề cho lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù hợp được với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nó làm nhiệm vụ chỉ ra mục tiêu, bước đi và tạo quy mô thích hợp cho lực lượng sản xuất hoạt động , cũng như bảo đảm lợi ích chính đáng của người lao động, phát huy tính tích cực, sáng tạo của con người - nhân tố quan trọng và quyết định trong lực lượng sản xuất.
2. Vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống Xã hội.
Lịch sử loài người là lịch sử biến đổi và phát triển của các phương thức sản xuất từ thấp đến cao. Phương thức sản xuất là sự thống nhất hai mặt gắn chặt với nhau: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, phát triẻn không ngừng, quyết định quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất với tính cách hạ tầng cơ sở lại quyết đinh thượng tầng kiến trúc. Vì vậy suy cho cùng, lực lượng sản xuất quyết định mọi mặt của đời sống xã hội, quyết định mọi sự biến đổi từ thấp đến cao của lịch sử loài người, của các hình thái kinh tế – xã hội. Sự biến đổi và phát triển lực lượng sản xuất là nguyên nhân sâu xa, là nguyên nhân cuối cùng quyết định mọi biến đổi và phát triển của xã hội.
Lực lượng sản xuất là yếu tố tiêu biểu cho các thời đại lịch sử xã hội: việc sử dụng và sáng tạo những tư liệu lao động , tuy đã có mầm mống ở vài loài, nhưng vẫn là đặc trưng nổi bật nhất của lao động của con người.
Lực lượng sản xuất là yếu tố cách mạng nhất của sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự thay đổi, phát triển của phương thức sản xuất: Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm hiện tượng sản xuất ngày một tăng thêm. Bất cứ một sự thay đổi nào của chế độ xã hội, bất cứ một sự cải tiến nào trong quan hệ chiếm hữu cũng đều là kết quả tất nhiên của việc tạo nên một lực lượng sản xuất mới.
Lực lượng sản xuất là nguồn lực không thể thiếu được trong sản xuất : Lực lượng sản xuất tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm cho xã hội, đem lại đời sống về vật chất cho con người trong xã hội.
Lực lượng sản xuất chính là lực lượng quan trọng trong công cuộc chiến đấu giành và giữ nước của ta từ trước đến nay:đặc biệt là hai cuộc chiến tranh đánh giặc Mỹ và Pháp giành lại hoà bình cho dân tộc ta .
Lực lượng sản xuất là một trong những nguyên nhân quan trọng góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, làm cho đất nước ổn định phát triển hay bất ổn định và trì trệ.
Chính vì vậy lực lượng sản xuất có vai trò rất quan trọng trong xã hội: là lực lượng do xã hội tạo ra để cải tạo thế giới, là biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
II. Sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam vào quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay.
1. Khái niệm công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
ở thế kỉ XVII, XVIII, khi cách mạng công nghiệp được tiến hành ở Tây Âu, công nghiệp hoá được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Những khái niệm kinh tế nói chung và khía niệm công nghiệp hoá nói riêng mang tính lịch sử, tức là luôn có sự thay đổi cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, của khoa học công nghệ. Do đó, việc nhận thức đúng đắn khái niệm này trong từng giai đoạn phát triển của nền sản xuất xã hội có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn.
Kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại, rút những kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hoá, và từ thực tiễn công nghiệp hoá ở Việt Nam trong thời kì đổi mới, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ bảy khoá VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định:công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế – xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dụa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Khái niệm công nghiệp hoá trên đây được Đảng ta xác định rộng hơn những quan niệm trước đó, bao hàm cả về hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về dịch vụ và quản lý kinh tế – xã hội, được sử dụng bằng các phương tiện và các phương pháp tiên tiến hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao. Như vậy công nghiệp hoá theo tư tưởng mới là không bó hẹp trong phạm vi trình độ các lực lượng sản xuất đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí như quan niệm trước đây.
Do những biến đổi của nền kinh tế thế giới và điều kiện cụ thể của đất nước, công nghiệp hoá ở nước ta hiện nay có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, công nghiệp hoá phải gắn với hiện đại hoá. Sở dĩ như vậy là vì trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, một số nước phát triển đã bắt đầu chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, nên phải tranh thủ ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, tiếp cận kinh tế tri thức để hiện đại hoá những nganh, những khâu, những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt.
Thứ hai, công nghiệp hoá nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá là tất yếu với các nước chậm phát triển nhưng với mỗi nước, mục tiêu và tính chất của công nghiệp hoá có thể khác nhau.ở nước ta công nghiệp hoá nhằm xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội, tăng cường sức mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Thứ ba, công nghiệp hóa trong điều kiện cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Điều này làm cho công nghiệp hoá trong giai đoạn hiện nay khác với công nghiệp hoá trong thời kì trước đổi mới. Trong cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung – hành chính, bao cấp, công nghiệp hoá được thực hiện theo kế hoạch,theo mệnh lệnh của Nhà nước. Trong cơ chế kinh tế hiện nay, Nhà nước vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá. Nhưng công nghiệp hoá không xuất phát từ chủ quan của Nhà nước, nó đòi hỏi phải vận dụnh các quy luật khách quan mà trước hết là các quy luật thị trường.
Thứ tư, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, vì thế mở cửa nền kinh tế, phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế là tất yếu đối với đất nước ta.
Công nghiệp hoá trong điều kiện “chiến lược” kinh tế mở cũng gây lên không ít trở ngại do những tác động của nền kinh tế thế giới, do “trật tự” của nền kinh tế thế giới mà các nước tư bản thiết lập không có lợi cho các nước nghèo, lạc hậu. Vì thế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế nước ta là một nước kinh tế độc lập tự chủ.
2. Sự vận dụng của Đảng Cộng Sản vào quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam.
Mục tiêu tổng quát của sự nghiệp công nghiệp hoá ở nước ta được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định tại đại hội lần thứ VIII và tiếp tục được khẳng định tại đại hội lần thứ IX là: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công nghiệp hoá ở Việt Nam hiện nay:
Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế quốc tế đói ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ nguồn lực tối đa từ bên ngoài trên cơ sở xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước có hiệu quả.
Công nghiệp hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó thành phần kinh tế nhà nước là chủ đạo.
Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với đời sống nhân dân, phát triển văn hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội.
Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá; kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiên đại. Tranh thủ đi nhanh vào công nghệ hiện đại ở những khâu quyết định.
Lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương an phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến , tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh. Đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả.
Kết hợp chặt chẽ và toàn diện phát triển kinh tế với củng cố, tăng cường nền quốc phòng – an ninh của đất nước.
Về quan điểm này, Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh:Phải quan tâm đúng mức đến công nghiệp quốc phòng, xây dựng phương án và cơ chế để huy động các ngành công nghiệp phục vụ những nhu cầu quốc phòng một cách có hiệu quả. Đồng thời, tận dụng những năng lực công nghiệp của quốc phòng để sản xuất hàng dân dụng, góp phần đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống.
3. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá tạo ra ngững kết quả và mối liên hệ với lực lượng sản xuất.
Về kinh tế : công nghiệp hoá - hiện đại hoá làm phát triển lực lượng sản xuất, năng suất lao động tăng, làm cho đầu tư tăng từ đó thúc đẩy kinh tế tăng trương, phát triển.
Về văn hoá : công nghiệp hoá sẽ nâng cao trình độ chuyên môn của người lao động, tăng cường kỉ luật lao động do sử dụng bằng máy. Khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội.
Về chính trị : công nghiệp hoá - hiện đại hoá tăng cường nội bộ giai cấp công nhân, củng cố mối liên minh công nông, ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, xây dựng nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa vững mạnh, có điều kiện để hợp tác quốc tế.
Do vị trí, tầm quan trọng và các tác dụng của công nghiệp hoá- hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân nên qua tất cả các kì đại hội, Đảng ta luôn xác định công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kì quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Có nghĩa là trong các nhiệm vụ: nhiệm vụ xây dựng quan hệ sản xuất, nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, nhiệm vụ xây dựng nền văn hoá mới thì công nghiệp hoá- hiện đại hoá để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật là nhiệm vụ trung tâm, có hoàn thành được công nghiệp hoá thì mới có hể thực hiện được các nhiệm vụ khác. Ngược lại các nhiệm vụ khác khi thực hiện thì phải lấy nhiệm vụ trung tâm mà phục vụ.
CNH-HĐH làm cho nền kinh tế nước ta phát triển mạnh và ổn định. Sự phát triển của lực lượng sản xuất có ảnh hưởng quan trọng và làm bàn đạp thúc đẩu CNH-HĐH. Không có lực lượng sản xuất thì quá trình CNH-HĐH không thể diễn ra được. Đứng trước những thách to lớn của thời đại, chúng ta không thể một lần nữa lại phạm sai lầm trong việc lựa chọn con đường hiện đại hoá đất nước. Hiện đại hoá đất nước không nhất thiết chủ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.
Quá trình CNH-HĐH ngày càng làm cho lực lượng sản xuất phát triển có mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển kinh tế, chính vì vậy lực lượng sản xuất là quan trọng nhất, CNH-HĐH về lực lượng sản xuất là hai mặt có tác động qua lại lẫn nhau. Kỹ thuật ngày nay cho thấy lực lượng sản xuất suy cho cùng quyết định quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng nền kinh tế. Để giải quyết vấn đề này, phải có hàng loạt giải pháp thích ứng về giáo dục đào tạo, phân công lao động, phân phối lợi ích và về môi trường, nhưng trước hết và quuyết định hơn cả phải là giải pháp giáo dục - đào tạo. Bởi vì giáo dục là phương tiện tất yếu và hữu hiệu để pháu triển trí tuệ, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, trang bị chuyên môn, nghề nghiệp, cung cấp cho xã hội nguồn ngân lực cao – yếu tố quyết định sự nghiệp CNH-HĐH. Vì vậy hãy đầu tư thoả đáng cho giáo dục – đào tạo, đúng với nghĩa “quốc sách hàng đầu”. Điều này trong triết học cũng đã từng lưu truyền một tư tưởng mà thật sự đáng được coi là chân lý: “Đầu tư một người đàn ông, ta được người chồng tốt, đầu tư cho một người phụ nữ ta được một gia đình tốt, đầu tư cho thầy giáo ta được một thế hệ tốt".
CNH-HĐH làm cho nền kinh tế nước ta phát triển mạnh và ổn định. Sự phát triển của lực lượng sản xuất có ảnh hưởng quan trọng và làm bàn đạp thúc đẩu CNH-HĐH. Không có lực lượng sản xuất thì quá trình CNH-HĐH không thể diễn ra được. Đứng trước những thách to lớn của thời đại, chúng ta không thể một lần nữa lại phạm sai lầm trong việc lựa chọn con đường hiện đại hoá đất nước. Hiện đại hoá đất nước không nhất thiết chủ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.
Quá trình CNH-HĐH ngày càng làm cho lực lượng sản xuất phát triển có mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển kinh tế, chính vì vậy lực lượng sản xuất là quan trọng nhất, CNH-HĐH về lực lượng sản xuất là hai mặt có tác động qua lại lẫn nhau. Kỹ thuật ngày nay cho thấy lực lượng sản xuất suy cho cùng quyết định quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng nền kinh tế. Để giải quyết vấn đề này, phải có hàng loạt giải pháp thích ứng về giáo dục đào tạo, phân công lao động, phân phối lợi ích và về môi trường, nhưng trước hết và quuyết định hơn cả phải là giải pháp giáo dục - đào tạo. Bởi vì giáo dục là phương tiện tất yếu và hữu hiệu để phát triển trí tuệ, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, trang bị chuyên môn, nghề nghiệp, cung cấp cho xã hội nguồn ngân lực cao – yếu tố quyết định sự nghiệp CNH-HĐH. Vì vậy hãy đầu tư thoả đáng cho giáo dục – đào tạo, đúng với nghĩa “quốc sách hàng đầu”. Điều này trong triết học cũng đã từng lưu truyền một tư tưởng mà thật sự đáng được coi là chân lý: “Đầu tư một người đàn ông, ta được người chồng tốt, đầu tư cho một người phụ nữ ta được một gia đình tốt, đầu tư cho thầy giáo ta được một thế hệ tốt".
III . Giải pháp.
Nguồn nhân lực có tác động rất lớn đến quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, vì vậy cần áp dụng triệt để việc giáo dục và đào tạo vào xây dựng nguồn nhân lực một cách có hệ thống và có chất lượng. Vì con người lao động là lực lượng sản xuất cơ bản, cho nên trong lao động con người có khả năng sử dụng và quản lý nền sản xuất xã hội hoá cao với kĩ thuật và công nghệ tiên tiến nhất. Bởi lẽ: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội , trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. CNH – HĐH không chỉ đòi hỏi phải có vốn, kỹ thuật, tài nguyên… mà còn cần phải phát triển một cách tương xứng năng lực của con người sử dụng những phương tiện đó, Nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu CNH – HĐH bao gồm những con người có đức, có tài, ham học hỏi, thông minh, sáng tạo, làm việc quên mình vì nền độc lập và sự phồn vinh của Tổ quốc; được chuẩn bị tốt về kiến thức văn hoá, được đào tạo thành thạo về kĩ năng nghề nghiệp, về năng lực sản xuất kinh doanh, về điều hành vĩ mô nền kinh tế và toàn xã hội, có trình độ khoa học – kỹ thuật vươn lên ngang tầm thế giới. Trong nguồn nhân lực mới ấy, việc xây dựng giai cấp công nhân là một nhiệm vụ trọng tâm, bởi vì chỉ với một giai cấp công nhân trưởng thành về chính trị, có trình độ tổ chức, kiến thức và kĩ năng nghề nghiệp cao, có trình độ làm chủ khoa học – kỹ thuật và công nghệ mới, trí thức hoá nới có thể là nòng cốt để liên minh với nông dân, trí thức, tập hợp và đoàn kết với các thành phần khác, phấn đấu đưa sự nghiệp CNH – HĐH đến thành công.để có nguồn nhân lực phù hợp với CNH – HĐH phải coi việc đầu tư cho giáo dục, đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, giáo dục và đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Phải đào tạo ra một cơ cấu nhân lực đồng bộ bao gồm các lĩnh vực khao học tự nhiên, khao học xã hội, cán bộ nghiên cứu và triển khai công nghệ, cán bộ quản lý, nghiệp vụ kinh tế, cán bộ trong các ngành kinh doanh, công nhân kỹ thuật… Việc xây dựng nguồn nhân lực cho CNH – HĐH phải tiến hành với tốc độ quy mô thích hợp, đáp ứng yêu cầu của mỗi thời kì trong quá trình CNH – HĐH. Đi đôi với việc đào tạo bồi dưỡng, phải duwngtris và sử dụng tốt nguồn nhân lực đã được đào tạo, phát huy đầy đủ khả năng, sở trường và nhiệt tình lao động sáng tạo của họ để sáng tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, đống góp xứng đáng vào sự nghiệp CNH – HĐH đất nước. CNH – HĐH đòi hỏi người lao động phải có sức khoẻ và thể lực tốt. Muốn vậy, phải đảm bảo dinh dưỡng, phát triển y tế, cải thiện môi trường sống… nhằm chăm sóc tốt sức khoẻ và nâng cao thể lực cho người lao động.
CNH – HĐH đất nước là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động kinh tế – xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang việc sử dụng một cách phổ biến sức lao động với khoa học và công nghệ hiện đại, tiên tiến, tạo ra năng suất lao động cao.
Chỉ có hoàn thành nhiệm vụ CNH – HĐH đất nước mới có thể xây dựng được cơ sở vật chất – kỹ thuật cho xã hội mới, nâng cao năng suất lao động đến mức chưa từng có để làm chô tình trạng dồi dạo sản phẩm trở thành phổ biến.
áp dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật hiện đại vào quá trình công nghiệp hoá trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội.
phát triển kinh tế thị trường đinh hướng theo XHCN.
Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần.
áp dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật hiện đại vào quá trình công nghiệp hoá trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội.
Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Giữ vững sự ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luật pháp.
Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung, quan niêu, bao cấp, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế: mở của, giao lưu kinh tế với các nước phát triển, hoà nhập với thế giới nhưng không hoà tan.
Đầu tư vào các ngành nghề phù hợp với đất nước và thế giới: chuyển đổi dần cơ cấu từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp và dịch vụ.
Đào tạo đội ngũ cán bộ tiên tiến có nhiều hiểu biết:cử những cán bộ có trình độ cao di học nước ngoài để học hỏi những kinh nghiệm cảu những nước phát triển để về nước vận dụng trong
KếT LUậN
Việt Nam hiện nay trong giai đoạn quá độ lên CNXH đó là một thời kì phức tạp và đầy biến động, một thời kì xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng cho CNXH để hoàn thành cách mạng dân chủ.
Với điểm xuất phát thấp, điều kiện kinh tế khó khăn và có nhiều trở ngại. Muốn nền công nghiệp hoá hiện đại hoá thành công thì cần chú trọng vào phát triển lực lượng sản xuất. Chính vì vậy chính sách CNH – HĐH có sự định hướng XHCN là một yêu cầu cấp thiết và hợp lý của quy luật phát triển, nó thể hiện tư tưởng sáng suốt của Đảng. Trong khi thực hiện CNH – HĐH ta phải giữ vững định hướng XHCN, đứng ngang tầm với mục tiêu phát triển kinh tế. Muốn vậy cần phải hoàn chỉnh bộ máy nhà nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo nước ta đi theo con đường XHCN như đã chọn.
TàI LIệU THAM KHảO
Những vấn đề lý luận đặt ra từ các văn kiện Đại hội IX của Đảng
GS. TS. Nguyễn Trọng Chuẩn
NXB Chính trị quốc gia.
Thực trạng quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ở Việt Nam
Hoàng Bình.
phát triển nguồn nhân lực , kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta
Trần Văn Tùng.
Tìm hiểu đường lối kinh tế trong nghị quyết Đại hội IX của Đảng.
MụC LụC
LờI NóI ĐầU 1
NộI DUNG
I. Vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội. 2
1. Khái niệm của lực lượng sản xuất. 2
2. Vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống Xã hội 4
II. Sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam vào quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay. 6
1. Khái niệm công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 6
2. Sự vận dụng của Đảng Cộng Sản vào quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam. 8
3. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá tạo ra ngững kết quả và mối liên hệ với lực lượng sản xuất. 10
III. Giải pháp. 12
KếT LUậN 15
TàI LIệU THAM KHảO 16
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội và sự vận dụng của Đảng vào quá trình CNH HĐH ở Việt Nam hiện nay.DOC