IV-Vai trò của Nhà nước trong lý thuyết kinh tế hỗn hợp
1. Hoàn cảnh ra đời của học thuyết kinh tế hỗn hợp:
Những năm 50 của thế kỉ XX khi nền kinh tế thị trường phát triển ổn định trở lại, các nhà kinh tế học trường phái tự do mới đã phê phán học thuyết keynes quá đề cao vai trò kinh tế của Nhà nước, làm cho nền kinh tế kém năng động và chậm phát triển, từ đó đòi hỏi phải giảm bớt sự can thiệp sâu của Nhà nước vào kinh tế và mở rộng tự do kinh tế.
Như vậy từ những năm 50,60 của thế kỉ 20 đã có sự xích lại gần nhau giữa hai tư tưởng kinh tế là kinh tế thị trường tự do và sự điều tiết kinh tế của Nhà nước và đến những năm 60,70 của thế kỉ XX hình thành truờng phái kinh tế học của trường phái chính hiện đại. Trường phái này đã và đang giữ vai trò thống trị ở hầu hết các nước trên thế giới nổi bật là Mỹ ,Tây Âu, Nhật.
Lý thuyết nền kinh tế hỗn hợp: theo quan điểm của Samuelson là nền kinh tế vận động chịu sự điều tiết của 2 yếu tố: cơ chế thị trường và Nhà nước, hai yếu tố này giữ vai trò ngang nhau.
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 13774 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vai trò của Nhà nước trong các học thuyết kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g biện pháp tăng lợi nhuận và giảm lãi suất. Nhà nước tăng thêm khối lượng tiền tệ vào lưu thông để giảm lãi suất cho vay và các chính sách khuyến khích các nhà kinh doanh vay vốn mở rộng quy mô, mở rộng đầu tư. Keynes cho rằng lãi suất được ấn định bởi một bên là khối lượng cung tiền tệ do ngân hàng trung ương tạo ra và một bên là số cầu tiền tệ hay là “sự ưa thích tiền mặt”. Khi khối lượng tiền tệ tăng hoặc giảm mà số cầu tiền tệ không thay đổi, lãi suất có thể giảm hoặc tăng một cách tương ứng. Do vậy, để khuyến khích đầu tư, Nhà nước vừa phải duy trì ở mức lãi suất thấp, vừa có thể tăng khối lượng tiền tệ.
- Dựa trên quan điểm điều chỉnh lãi suất thấp, Keynes chủ trương thực hiện “lạm phát có mức độ”. Theo quan điểm này, lạm phát càng mạnh khi lãi suất càng thấp và do đó, đầu tư càng sôi động. Ngược lại, đầu tư mạnh, nhu cầu về đầu tư lớn thì lạm phát càng có điều kiện phát sinh. Về thực chất, giảm lợi tức là để nâng cao lợi nhuận cho tư bản độc quyền khích thích tính tích cực hoạt động của tư bản độc quyền, thực hành lạm phát là làm tăng giá cả nhằm hạ thấp tiền lương thực tế của các tầng lớp lao động khác nhau khi nền kinh tế đạt tới mức sản lượng cao và việc làm tăng thì lạm phát sẽ tự động dừng lại.
- Thâm hụt ngân sách là điều khó tránh khỏi ở những nước có kế hoạch kích cầu trên quy mô lớn. Để bù đắp cho sự thiếu hụt của ngân sách Nhà nước, ông chủ trương in thêm tiền giấy để cấp phát cho ngân sách từ đó mở rộng đầu tư của Nhà nước và đảm bảo chi tiêu cho chính phủ.
Những năm 1960, 1970 kích cầu theo học thuyết Keynes tiếp tục phổ biến khắp nơi trên thế giới mà kết quả là nền kinh tế Mỹ, châu Âu và một số nền kinh tế khác ở châu Mỹ Latin đã phát triển hơn. Phần lớn việc chi tiêu của chính phủ thông qua các gói kích cầu nhằm mục đích đưa nền kinh tế vượt qua khủng hoảng nhưng nó đã kéo theo sự phát triển quá nóng. Kinh tế Mỹ Latin thường xuyên trong tình trạng lạm phát phi mã. Chỉ số chung về lạm phát và thất nghiệp ở Mỹ cũng luôn ở mức cao, lên đến 20,8% năm 1980, tăng hơn 10% so với 10 năm trước đó
- Khuyến khích việc chi tiêu của Nhà nước nhất là Nhà nước trung ương kể cả với những chi tiêu không có lợi cho nền kinh tế như quân sự hóa, chạy đua vũ trang, phát động chiến tranh…
Chiến tranh thật sự là một cơ hội kinh doanh tốt, nó tạo ra hàng loạt thị trường mới và khiến cho chính phủ phải trợ cấp nhiều cho đầu tư. Đã có nhiều hoạt động rất lớn do chính phủ điều hành trong suốt thời kỳ chiến tranh, nhưng sau này cũng chuyển giao lại cho các doanh nghiệp tư nhân. Điển hình là những nhà máy nitrogen được xây dựng để sản xuất TNT. Sau chiến tranh, chúng được chuyển sang cho doanh nghiệp tư nhân để kích thích mở rộng sản xuất phân vô cơ.
- Chủ trương sử dụng công cụ thuế để điều tiết kinh tế. Đối với nhà kinh doanh, ông khuyến cáo Nhà nước giảm thuế để nâng cao hiệu quả tư bản nhằm khuyến khích nhà kinh doanh tích cực đầu tư phát triển. Đối với người lao động, cần phải tăng thuế để điều tiết bớt một phần tiết kiệm từ thu nhập của họ, đưa phần này vào ngân sách Nhà nước để mở rộng đầu tư.
Ở Việt Nam giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp (kích thích sản xuất từ phía cung) từ quý IV/2008 kéo dài thời gian chậm nộp thuế từ 6 tháng lên 9 tháng và hoàn thuế VAT nhanh hơn để hỗ trợ doanh nghiệp.
c. Khuyến khích tiêu dùng:
Nhà nước thông qua chính sách thuế để điều chỉnh thu nhập quốc dân có lợi cho tiêu dùng xã hội, đặc biệt là khuyến khích tiêu dùng đối với những tầng lớp có thu nhập cao ưa tiêu dùng từ đó giảm khối lượng tiết kiệm nói chung. Đối với người lao động, ông cho rằng cần phải đáp ứng tâm lý của người tiêu dùng hỗ trợ tiêu dùng cá nhân.
Ngày 13/2/2008: Tổng thống George W. Bush đã ký Economic Stimulus Act of 2008 nhằm kích cầu với tổng hợp trị giá 168 tỷ dollar chủ yếu dưới hình thức hoàn thuế thu nhập cá nhân. Ngày 26/2/09 chính phủ Mỹ sẽ lên kế hoạch về việc tăng thuế đối với những người có thu nhập cao,theo kế hoạch chính phủ sẽ thu thêm khoảng 1000 tỷ USD từ những người có thu nhập cao nhất nước Mỹ và mức thuế sẽ lên tới 36-39.6% so với mức hiện nay là 33-35%. Hoạt động tăng thuế này sẽ có hiệu lực bắt đầu từ năm 2011.
Ở Việt Nam để kích thích tiêu dùng Nhà nước đã trì hoãn thuế Thu nhập cá nhân đến hết năm 2009, đồng thời chính phủ cũng giảm thuế VAT đối với một số mặt hàng thiết yếu.
Hạn chế của lí thuyết Keynes:
- Trong một thời gian dài, lí thuyết Keynes được vận dụng rộng rãi, tuy nhiên nó cũng thể hiện số hạn chế:
+ Mục đích của lí thuyết Keynes là chống khủng hoảng và thất nghiệp. Song trong những năm thực hiện lí thuyết này thì cứ 4 năm lại có một lần chấn động kinh tế.+Nạn thất nghiệp ở các nước tư bản không được khắc phục mà có xu hướng gia tăng. Tư tưởng "Lạm phát có điều tiết" của Keynes góp phần làm tăng sự trầm trọng của lạm phát, một căn bệnh nan giải của nền kinh tế hiện đại.
+ Công cụ lãi suất điều tiết đầu tư cũng không có hiệu quả và nhiều khi còn có tác động ngược lại.
+ Nắm được nhu cầu xã hội hoá đòi hỏi sự can thiệp Nhà nước vào kinh tế, Keynes đưa ra lí thuyết chủ nghĩa tư bản được điều tiết. Song khi đánh giá cao vai trò Nhà nước, ông lại bỏ qua vai trò của tư tưởng tự do của bàn tay vô hình, của cân bằng tổng quát .
=) Điều đó làm gia tăng xu hướng phê phán lí thuyết kinh tế Keynes.
Mô hình kinh tế của ông gồm ba đại lượng:
+ Đại lượng xuất phát : không biến đổi hoặc biến đổi chậm. Đó là những nguồn vật chất tlsx, mức độ trang bị kĩ thuật , trình độ chuyên môn hoá của chủ nghĩa, cơ cấu của chế độ xã hội .
+ Đại lượng khả biến độc lập: là những khuynh hướng tâm lí (tiết kiệm, tiêu dùng, đầu tư...)nhóm này là cơ sở hoạt động của mô hình, là đòn bảy cho sự họat động của các tổ chức kinh tế.
+Đại lượng khả biến phụ thuộc : cụ thể hoá tình trạng của nền kinh tế (số lượng quốc gia, thu nhập quốc dân) Þ R=C+S
Q= C+I
Þ I=S
R=Q - Lí thuyết của Keyns đánh giá cao vai trò của tiêu dùng và trao đổi, coi tiêu dụng và trao đổi là nhiệm vụ số một mà nhà kinh tế học phải giải quyết. Theo ông, cùng với sự tăng lên của việc làm thì cũng có sự tăng lên của thu nhập và do đó có sự tăng lên của tiêu dùng và do đó cầu có hiệu quả giảm xuống. Đây là nguyên nhân gây ra khủng hoảng, thất nghiệp, trì trệ trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Vì thế để đẩy mạnh sản xuất bảo đảm cân đối cung cầu thì phải nâng cầu tác dụng lên, tìm biện pháp kích thích cầu có hiệu quả chính vì thế lí thuyết của Keynes còn được gọi là lí thuyết trọng cầu.
- Tuy nhiên phương pháp luận của Keynes là siêu hình, ông cho rằng lí thuyết này đúng với mọi chế độ xã hội.
* Lí thuyết về sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế của Keynes
- Đầu tư Nhà nước. Sự tăng giá của Nhà nước vào kinh tế sẽ làm tăng đầu tư tư nhân cũng như tăng tiêu dùng của Nhà nước lên. Vì vậy làm cho cần có hiệu quả tiến sát với đường biến đổi của thu nhập. Nhờ vậy mà tăng C, tăng Y chống khủng hoảng và thất nghiệp. - Sử dụng hệ thống tài chính.
+ Tín dụng và lưu thông tiền tệ.
+ Kích thích lòng tin, tính lạc quan và tích cực đầu tư của nhà kinh doanh. Lạm phát là biện pháp hữu hiệu để kích thích thị trường mà không gây ra nguy hiểm (có kiểm soát) để tăng giá cả.
+ Để bù đắp thiếu hụt ngân sách, Nhà nước chủ trương in thêm tiền để cấp phát cho ngân sách hoạt động, mở rộng đầu tư Nhà nước và đảm bảo chi tiêu cho chính phủ. + Sử dụng công cụ thuế để điều tiết nền kinh tế : tăng thuế để điều tiết bớt một phần tiết kiệm từ thu nhập của người lao động, đưa vào ngân sách để Nhà nước mở rông đầu tư, giảm thuế với nhà đầu tư để tăng đầu tư.
- Tạo việc làm, mở nhiều hình thức đầu tư để giải quyết việc làm, tăng thu nhập, chống khủng hoảng, có thể với nghề ăn bám như sản xuất vũ khí, chạy đua vũ trang. - Khuyến khích tiêu dùng, khuyên khích tiêu dùng cá nhân đối với nhà tư sản, tầng lớp giàu có và người nghèo.
Kinh tế học Keynes coi trọng vai trò của chính phủ và chính sách tài khoá. Trường phái này cho rằng nền kinh tế không có cơ chế tự điều chỉnh (self-correcting) và sự can thiệp đúng lúc của chính phủ là rất quan trọng để ổn định nền kinh tế. Hiểu một cách đơn giản là chính phủ phải thực hiện chính sách tài khoá thâm hụt trong giai đoạn trì trệ vì đầu tư từ khu vực tư nhân là không đủ để thúc đẩy sản xuất và giúp nền kinh tế vượt qua giai đoạn khó khăn của chu kỳ.
Chính sách can thiệp của Chính phủ Việt Nam thời gian qua dưới hình thức hỗ trợ lãi suất có thể coi là một biện pháp kích cầu khá đặc biệt vì về bản chất cũng là mở rộng tài khoá nhưng lại “mượn” công cụ tiền tệ, thay vì hạ lãi suất cơ bản lại giữ lãi suất ở mức cao và trợ cấp lãi suất cho vay.
Cho đến nay chưa có đánh giá cụ thể nào về hiệu quả của chính sách này nhưng có thể thấy sự hoán chuyển khái niệm tài khoá - tiền tệ, hay kích cầu - giải cứu đã cứu nhiều ngân hàng vượt qua cơn khốn khó về thanh khoản (do đã coi thường rủi ro tín dụng và rủi ro chênh lệch kỳ hạn trong giai đoạn 2007-2008).
Một số ít doanh nghiệp “may mắn” được nhận hỗ trợ nhưng thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối cũng như môi trường kinh doanh bị bóp méo; hàng loạt nguy cơ bất ổn vĩ mô như thâm hụt ngân sách, đầu tư công vốn được đánh giá hiệu quả thấp chèn lấn đầu tư tư nhân, lạm phát, nợ Chính phủ tăng cao tiềm ẩn nhiều rủi ro...
Sau khi Chính phủ công bố tiếp tục kích cầu thông qua hỗ trợ lãi suất ngắn hạn đến hết tháng 3-2010 và hỗ trợ lãi suất trung-dài hạn đến hết năm 2011, câu hỏi nhiều người đặt ra là chúng ta sẽ kích cầu đến khi nào? Đã nhiều năm qua biết bao nhiêu doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước luôn trong tình trạng “sức khoẻ có vấn đề”. Do đó, khi gói thứ hai kết thúc, liệu chúng ta sẽ tiếp tục có gói thứ ba, thứ tư... để “tiếp sức” cho các doanh nghiệp?
Cần lưu ý rằng những đề xuất chính sách kiểu Keynes chỉ hợp lý trong điều kiện suy thoái và có tác dụng ngắn hạn để giúp nền kinh tế vượt qua giai đoạn khó khăn của chu kỳ. Cho đến nay kinh tế nước ta đã có những dấu hiệu phục hồi rõ rệt, GDP tăng liên tục ba quí và đạt 4,56% sau chín tháng, sản xuất công nghiệp từ mức âm 4,4% vào tháng 1-2009 đã tăng lên 13,8% vào tháng 9-2009... Do đó, kích thích tài khoá (hoặc mượn công cụ tiền tệ) bất chấp các cân đối vĩ mô ngày càng xấu đi không nên tiếp tục được duy trì.
4. Chủ thuyết phát triển cho Việt Nam
Trái với những người theo Keynes, Kinh tế học tiền tệ/Tân cổ điển lại khuyến khích sự phát triển thị trường tự do, giảm thiểu sự can thiệp của chính phủ. Nền kinh tế hoạt động theo cơ chế tự điều chỉnh (self-correcting) và những chính sách ổn định kiểu Keynes là không cần thiết. Điều các chính phủ cần làm là đưa ra chính sách kinh tế vĩ mô càng dễ dự đoán càng tốt, nghĩa là chính sách càng ổn định thì kinh tế sẽ ổn định trong trung-dài hạn và đó là điều kiện cơ bản để phát triển kinh tế.
Trên thực tế, từ đầu những năm 1980 đến nay không có nước nào chỉ áp dụng duy nhất một trong hai chủ thuyết nói trên, kể cả Mỹ là nước đề cao Kinh tế học tiền tệ/Tân cổ điển và theo đó đã phát triển hệ thống thị trường tự do ở trình độ cao. Nhiều nước đang áp dụng chủ thuyết thực dụng (pragmatism) trong hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, lựa chọn giải pháp hiệu quả nhất mà các trường phái đưa ra trong từng hoàn cảnh cụ thể. Việc nước Mỹ sử dụng gần 2.000 tỉ đô la để kích cầu/giải cứu các tổ chức tài chính và đang nhanh chóng tự điều chỉnh vai trò Nhà nước trong nền kinh tế thị trường tự do (đặc biệt là thị trường tài chính) nhằm khắc phục những nhược điểm bộc lộ trong thời gian qua đã cho thấy rõ quan điểm trên.
Theo chủ thuyết này, khi bước vào pha phục hồi và đi lên, bên cạnh việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, những đề xuất chính sách cụ thể của chủ nghĩa tân tự do (neoliberalism) xây dựng trên cơ sở Kinh tế học tiền tệ/Tân cổ điển như khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tăng cường kỷ luật tài khoá, lãi suất theo cơ chế thị trường, tự do hoá thương mại, mở cửa thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, đẩy mạnh chính sách giải quyết (nhưng cần giám sát thận trọng các tổ chức tài chính)... chính là cơ sở để cơ cấu kinh tế tự điều chỉnh theo hướng hiệu quả, hợp lý hơn và thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Thực tế cũng cho thấy những chính sách trên không chỉ mang lại thành công cho các nước phát triển như Mỹ, Anh... mà còn giúp mang lại nhiều thay đổi quan trọng cho những nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam, Trung Quốc hay các nước Đông Âu. Đây là triết lý cơ bản của chủ thuyết thực dụng mà chúng ta cần cân nhắc kỹ lưỡng trước khi bắt tay vào tái cấu trúc nền kinh tế hay xây dựng mô hình phát triển kinh tế cho tương lai.
« So sánh tân cổ điển với Keynes
- Để hiểu được Keynes thì phải hiểu được những gì diễn ra trước ông. Trước Keynes, kinh tế học đã khá phát triển, với sự thống trị của phái tân cổ điển (neo-classical economics) mà cha đẻ của nó thường được xem là David Ricardo. Kinh tế học tân cổ điển đặt nền tảng lý luận trên tiền đề thị trường cạnh tranh hoàn toàn, và lao động được thuê mướn hoàn toàn. Đó là một tiền đề phi thực tế, có điều ở thời điểm đó các nhà kinh tế học lại mặc nhiên chấp nhận nó giống như chấp nhận các mệnh đề Euclide trong toán học vậy. Vào năm 1929 cuộc đại khủng hoảng kinh tế nổ ra là một câu chuyện sống động mà Keynes quan sát thấy như một bằng chứng cho thấy lập luận này không thể áp dụng vào cuộc sống thực tế. Ông đã đưa ra một lập luận mới về thị trường không cạnh tranh hoàn toàn, và do đó cần phải có sự can thiệp vào thị trường. Keynes viết điều đó trong cuốn sách vĩ đại là "The general theory of employment, interest and money" (1936). Cuốn sách này đã đem lại một tư duy mới cho ngành kinh tế học thế giới. Ảnh hưởng của Keynes ở Mỹ ngày nay đã giảm nhiều, tuy nhiên ở Châu Âu và có lẽ đặc biệt là ở Châu Á, học thuyết của Keynes vẫn rất được coi trọng.
- Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ (tên gốc tiếng Anh: The General Theory of Employment, Interest, and Money) là một cuốn sách của nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh John Maynard Keynes (1883-1946). Tác phẩm này thường được xem là cuốn sách gối đầu giường của các nhà kinh tế học ở Anh và được cho là đã đặt nền móng cho môn kinh tế học vĩ mô hiện đại. Ngay từ lần xuất bản thứ nhất vào tháng 2 năm 1936, tác phẩm đã gây tiếng vang mạnh mẽ bởi sự mới mẻ trong tư tưởng kinh tế cũng như bởi sự quan tâm tới tính khả thi của các chính sách kinh tế và sự can thiệp vào tổng cầu. Người ta hay gọi đây là "Cuộc cách mạng của Keynes". Những tư tưởng nêu ra trong tác phẩm này trở thành hòn đá tảng trong kinh tế học Keynes. Nó phê phán kinh tế học cổ điển và tân cổ điển. Nó đưa ra các lý luận quan trọng về hàm tiêu dùng, về nguyên lý số nhân, về hiệu suất biên của vốn và về sự ưa thích tính thanh khoản. - Tại sao một cú shock tiền tệ danh nghĩa (nominal money shock) có thể ảnh hưởng đến những hoạt động kinh tế thực tế là một trong những câu hỏi làm đau đầu các nhà kinh tế vĩ mô nhất trong kinh tế vĩ mô hiện đại. Các nhà kinh tế vĩ mô bị chia rẽ bởi cách giải thích của họ đối với những biến động kinh tế. Trước hết chúng ta cần bắt đầu từ sự phân đôi cổ điển (Classical dichotomy). Các nhà kinh tế Cổ Điển đưa ra giả thiết của tính Trung lập tiền tệ (monetary neutrality), tức có nghĩa là tiền trên danh nghĩa chỉ có thể ảnh hưởng tới các biến số danh nghĩa, ví dụ như giá cả và lương bổng (prices and wages), nhưng không ảnh hưởng tới các biến số thực tế, ví dụ như sản phẩm thực tế và lao động. (real output and labor). Trường phái Cổ Điển, tiếng Anh gọi là the Classical school, ví dụ ta có thể liệt kê ra: Adam Smith, Ricardo, Karl Marx, …, Sau đó trường phái Tân Cổ Điển I (Neoclassical school I) ra đời mà hầu như đã chiếm lĩnh toàn bộ Trung Nguyên (theo Nguyễn Hải Sa): với những trọng tâm như là lý thuyết Ích lợi cận biên (marginal utility theory), lý thuyết Kinh tế phúc lợi (welfare economics), v.v. Nhìn chung, cách nghiên cứu của trường phái này là theo phương pháp cân bằng cục bộ (partial equilibrium approach).
Trước năm 1936, các trường phái Anh-Mỹ giả thiết rằng giá cả dao động tự do, tiền tệ vì vậy trung lập. Sau năm 1936, Keynes phát biểu : “In the long-run we are all dead.“, có lẽ là câu nói nổi tiếng nhất trong ngành kinh tế chăngKeynes đưa ra giả thuyết tiền lương cứng nhắc để chứng minh rằng nạn thất nghiệp trầm trọng trong cuộc Đại Suy Thoái (1929; the black friday) là do vậy mà ra. Khi hệ thống ngân hàng liên bang sụp đổ vì khủng hoảng thị trường chứng khoán, mức giá cả P giảm sút trầm trọng, nhưng mức lương thực tế W/P lại tăng là vì mức lương danh nghĩa W bị cứng nhắc (wage rigidity). Các ông chủ sa thải công nhân vì mức lương thực tế quá cao. Keynes không trả lời tại sao nó bị cứng nhắc. Nó như thế đấy, cứ nhìn thực tế mà xem sẽ thấy. Các mô hình kinh tế vĩ mô dựa trên giả thuyết tiền lương cứng nhắc của Keynes chỉ ra rằng tiến trình thích nghi không hoàn hảo của mức lương (incomplete nominal adjustment of wages) khiến cho tiền tệ danh nghĩa gây ảnh hưởng đến sản phẩm sản xuất. Khung mẫu money-nonneutrality từ đó nuôi không biết bao nhiêu nhà kinh tế vĩ mô . Nếu như mức lương cứng nhắc đó còn bị ảnh hưởng bởi mức lương cứng nhắc từ những kỳ trước đó, W(t), W(t-1), ..., các mô hình kinh tế vĩ mô theo truyền thống Keynesian cho thấy một sự đánh đổi thường xuyên giữa thất nghiệp và lạm phát (permanent trade-off between unemployment and inflation). A. W. Phillips (1958) khi nghiên cứu thị trường lao động Anh đã phát hiện ra mối liên hệ đảo ngược giữa lạm phát và thất nghiệp, sau này được nhà kinh tế Samuelson gọi là đường Phillips. Keynes hy vọng rằng khung mẫu của ông là một cuộc cách mạng to lớn có thể thay đổi toàn bộ nền tảng của ngành kinh tế vĩ mô thời bấy giờ. Vậy mà Samuelson lại gói gọn cái lý thuyết tiền lương cứng nhắc của ông Keynes vào cái bao bì Tân Cổ Điển II thành một khung mẫu mới: “The Neoclassical Synthesis.” Bấy giờ trường phái Tân Cổ Điển II xuất hiện, sử dụng phương pháp cân bằng tổng quan kiểu walrasian (Walrasian general equilibrium approach). - Sự can thiệp gọi là chính sách kinh tế vĩ mô (macro economic), là những biện pháp có tác dụng với nền kinh tế như một khối thống nhất qua các yếu tố thuế, lãi suất. Nhưng để can thiệp nền kinh tế như vậy thì chính phủ phải bành trướng với một hệ thống các cơ quan theo dõi thị trường để thu thập thông tin, phân tích thông tin và dự báo tình hình để can thiệp kịp thời.
Ngoài ra, đặc điểm của nền kinh tế tư bản thời kỳ tiền - Đại khủng hoảng là sự hình thành các tổ hợp độc quyền, có thể lũng đoạn nền kinh tế: bây giờ thì 'bàn tay vô hình' đã chính là bàn tay của tổ hợp. Bởi thế việc kiểm soát này còn hướng tới nỗ lực ngăn chặn độc quyền: tại Mỹ có luật 'Anti-Trust' còn tại Úc có luật Trade Practice. Càng kiểm soát nhiều thì càng cần nhiều nhân sự, ban bệ. Chính vì thế mô hình kinh tế kiểm soát này gắn liền với một chính quyền lớn, kềnh càng, gọi là 'big government'. Chính sách của Keynes được tin tưởng tuyệt đối cho đến khi diễn ra cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu năm 1970: từ đây giới kinh tế gia nhận thấy rằng việc kiểm soát nền kinh tế cũng có nhiều bất cập.
Lý do là bên cạnh những yếu tố kinh tế tạp khác nhau còn có yếu tố toàn cầu: khi mối giao thương thế giới càng rộng mở thì vấn trở nên phức tạp hơn Keyne tưởng. Không một nền kinh tế nào khép kín, tụ cung tự cấp cả mà còn mối quan hệ quốc tế mà không một chính phủ nào có thể kiểm soát nổi.
Lúc này nhiều kinh tế gia chủ trương quay về với quan điểm của Adam Smith, gọi là trường phái tân cổ điển (neo-classicalism): gọi là tân cổ điển vì họ không hẳn áp dụng hoàn toàn nguyên tắc 'tự do' cổ điển của Smith. Bây giờ các chính phủ vẫn kiểm soát nhưng chỉ là kiểm soát lỏng hơn, hay kiểm soát một cách gián tiếp, thí dụ như cách quản trị thị trường tiền tệ với chính sách bán và mua công khố phiếu để bơm và rút tiền mặt vào thị trường nhằm kích thích hay tiết chế sự lưu thông của nó để tác động đến yếu tố chế lãi suất, do đó sẽ tác động đến yếu tố quan trọng của kinh tế là đầu tư và tiêu thụ v.v... - Các công trình của Cournot đánh dấu sự chuyển đổi từ kinh tế cổ điển qua kinh tế tân cổ điển (neoclassical economics) (xem Hildenbrand, 1982). Cả hai thuyết đều quan tâm đến sản xuất, phân bố, trao đổi và tiêu thụ của cải (của cải theo nghiã hàng hoá). Các kinh tế gia cổ điển chú ý đến sản xuất và phân phối của cải qua thời gian. Họ nhấn mạnh tỷ lệ tăng truởng dân số và nguồn lực vật chất, và xem xét hậu quả của các nhân tố này lên tiến bộ kinh tế cũng như phúc lợi của nhân dân và xã hội. Các kinh tế gia tân cổ điển ít quan tâm đến các khía cạnh động. Thay vào đó, họ đặt câu hỏi: “trong một nền kinh tế với dân số có sở thích, nguồn lực và kỹ thuật cho sẵn, làm sao các nguồn lực có thể phân phối qua một hệ thống thị trường để cực đại hoá sự thoả mãn của người tiêu thụ?” Dùng thuật ngữ kinh tế ngày nay, sự chuyển đổi từ kinh tế cổ điển qua tân cổ điển là sự xê dịch từ phân tích kinh tế vĩ mô sang vi mô. Đường hướng mới này (xem vấn đề quyết định cá nhân như một vấn đề tối ưu) có thể giải quyết một cách toán học bằng phương pháp giải tích. Walras (1874) lý luận: “Chỉ có toán mới có thể giúp chúng ta hiểu ý nghiã của điều kiện hữu dụng tối đa (maximum utility).
Kinh tế tân cổ điển khởi đầu với ba kinh tế gia: Stanley Jevon (Anh), Carl Menger (Áo) và Léon Walras (Pháp). Ba kinh tế gia này thường được xem là ông tổ của “Cách mạng Biên tế” (Marginalist Revolution). Danh từ biên tế liên quan đến kết quả toán của điều kiện biên tế cho cân bằng thị trường. Quan trọng nhất trong ba kinh tế gia này là Walras, người được Joseph Schumpeter (1954: 827) xưng tụng là “kinh tế gia vĩ đại nhất”. Lý do Walras được gọi như vậy là vì Walras (1874) đã khám phá ra lý thuyết cân bình tổng thể (general equilibrium theory). Thuyết này giải thích quân bình của một hệ thống kinh tế thị trường qua quá trình điều chỉnh giá cả mà trong đó các tác nhân kinh tế riêng rẽ không thể ảnh hưởng lên giá thị trường. Nói tóm gọn, Walras đã xếp đặt một chương trình nghiên cứu mà rất nhiều kinh tế gia thế kỷ 20 đã theo đuổi. Cùng với học trò là Vilfredo Pareto, Walras sáng lập trường phái Lausanne, có thể xem là trường phái kinh toán đầu tiên trên thế giới.
- Các học thuyết kinh tế học giải thích thất nghiệp theo các cách khác nhau. Kinh tế học Keynes nhấn mạnh rằng nhu cầu yếu sẽ dẫn đến cắt giảm sản xuất và sa thải công nhân (thất nghiệp chu kỳ). Một số khác chỉ rằng các vấn đề về cơ cấu ảnh hưởng thị trường lao động (thất nghiệp cơ cấu). Kinh tế học cổ điển và tân cổ điển có xu hướng lý giải áp lực thị trường đến từ bên ngoài, như mức lương tối thiểu, thuế, các quy định hạn chế thuê mướn người lao động (thất nghiệp thông thường). Có ý kiến lại cho rằng thất nghiệp chủ yếu là sự lựa chọn tự nguyện. Chủ nghĩa Mác giải thích theo hướng thất nghiệp là thực tế giúp duy trì lợi nhuận doanh nghiệp và chủ nghĩa tư bản. Các quan điểm khác nhau có thể đúng theo những cách khác nhau, góp phần đưa ra cái nhìn toàn diện về tình trạng thất nghiệp.
IV-Vai trò của Nhà nước trong lý thuyết kinh tế hỗn hợp
1. Hoàn cảnh ra đời của học thuyết kinh tế hỗn hợp:
Những năm 50 của thế kỉ XX khi nền kinh tế thị trường phát triển ổn định trở lại, các nhà kinh tế học trường phái tự do mới đã phê phán học thuyết keynes quá đề cao vai trò kinh tế của Nhà nước, làm cho nền kinh tế kém năng động và chậm phát triển, từ đó đòi hỏi phải giảm bớt sự can thiệp sâu của Nhà nước vào kinh tế và mở rộng tự do kinh tế.
Như vậy từ những năm 50,60 của thế kỉ 20 đã có sự xích lại gần nhau giữa hai tư tưởng kinh tế là kinh tế thị trường tự do và sự điều tiết kinh tế của Nhà nước và đến những năm 60,70 của thế kỉ XX hình thành truờng phái kinh tế học của trường phái chính hiện đại. Trường phái này đã và đang giữ vai trò thống trị ở hầu hết các nước trên thế giới nổi bật là Mỹ ,Tây Âu, Nhật.
Lý thuyết nền kinh tế hỗn hợp: theo quan điểm của Samuelson là nền kinh tế vận động chịu sự điều tiết của 2 yếu tố: cơ chế thị trường và Nhà nước, hai yếu tố này giữ vai trò ngang nhau.
2. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế hỗn hợp:
Vai trò của Nhà nước thể hiện qua 4 chức năng sau đây:
a.Thiết lập khuôn khổ pháp luật: đây là một trong những chức năng đầu tiên, có vai trò quan trọng trong việc khắc phục các khuyết tật của thị trường. Nhà nước cần phải tạo hành lang pháp lý, tạo môi trường thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Là hệ thống luật pháp quy định cho quá trình vận động của nền kinh tế, quá trình sản xuất kinh doanh, không chỉ riêng mỗi cá nhân, mỗi người.
b.Chính phủ phải đảm bảo tính hiệu quả của các hoạt động kinh tế
Thứ nhất, xuất phát từ đặc trưng của kinh tế thị trường là tự do sẽ dẫn đến độc mquyền điều đó có thể làm cho các hoạt động kinh tế kém hiệu quả.
Thứ hai, chống lại những tác động bên ngoài, chẳng hạn, khi một xí nghiệp hay một cá nhân gây ra những chi phí bất lợi cho một doanh nghiệp khác song họ không phải chi trả và ngược lại .
Thứ ba, chính phủ đảm nhiệm việc sản xuất những hàng hóa công cộng:vì những hàng hóa này lợi nhuận thấp hoặc không thể giao cho tư nhân (an ninh, quốc phòng...).
Thứ tư, thông qua các công cụ chính sách kinh tế (thuế..) để đảm bảo và kích thích việc đầu tư sản xuất những hàng hóa công cộng.
c.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tluan.doc