Nhà nước đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Lịch sử đã chứng minh rằng các nền kinh tế thị trường thành công nhất đều không thể tự phát triển nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước. Các nền kinh tế thị trường nguyên thủy dựa trên cơ sở sản xuất và trao đổi giản đơn có thể hoạt động một cách có hiệu quả mà không cần sự can thiệp của Nhà nước. Tuy nhiên, do nền kinh tế tăng trưởng dưới tác động bên ngoài ngày càng phức tạp nên sự can thiệp của Nhà nước xuất hiện như một tất yếu cho sự hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, Nhà nước tập trung vào 3 phương diện: định hướng công nghiệp hóa cho toàn bộ nền kinh tế; dẫn dắt các doanh nghiệp hoạt động theo mục tiêu nhà nước đã lựa chọn thông qua hệ thống các công cụ kinh tế vĩ mô của nhà nước và đầu tư vào phát triển kết cấu hạ tầng, một số ngành quan trọng và hỗ trợ tài chính doanh nghiệp.
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2781 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vai trò của nhà nước XHCN Việt Nam đối với nền kinh tế thị trường hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có thể được thực hiện, thông qua chức năng xã hội.
Sự thống trị chính trị và sự thực hiện chức năng xã hội của nhà nước thể hiện trong lĩnh vực đối nội cũng như trong đối ngoại.
Chức năng đối nội của nhà nước nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những trật tự khác hiện có trong xã hội. Thông thường điều đó phải được pháp luật hóa và được thực hiện nhờ sự cưỡng bức của bộ máy nhà nước. Ngòai ra, nhà nước còn sử dụng nhiều phương tiện khác(bộ máy thông tin, tuyên truyền, các cơ quan văn hóa, giáo dục…) để xác lập, củng cố tư tưởng, ý chí của giai cấp thống trị, làm cho chúng trở thành chính thống trong xã hội.
Chức năng đối ngoại của nhà nước nhằm bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nhà nước khác vì lợi ích của giai cấp thống trị cũng như lợi ích quốc gia, khi lợi ích quốc gia không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị. Ngày nay, trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế, việc mở rộng chức năng đối ngoại của nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt.
Cả hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Chúng là hai mặt của một thể thống nhất. Tính chất của chức năng đối nội quyết định tính chất của chức năng đối ngoại của nhà nước, ngược lại tính chất và những nhu cầu của chức năng đối ngoại có tác động mạnh mẽ trở lại chức năng đối nội.
Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ bộ máy thống trị đó thuộc về giai cấp nào, tồn tại trên cơ sở chế độ kinh tế nào, tương ứng với hình thái kinh tế-xã hội nào. Kiểu nhà nước do phương thức sản xuất quy định. Trong lịch sử phát triển của nhà nước có những kiểu nhà nước sau: nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, nhà nước chuyên chính vô sản (nhà nước xã hội chủ nghĩa)
Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực hiện quyền lực của nhà nước. Nói cách khác đó là hình thức cầm quyền của giai cấp thống trị.
Hình thức nhà nước bị quy định bởi bản chất giai cấp của nhà nước, bởi tương quan lực lượng giữa các giai cấp, bởi cơ cấu giai cấp- xã hội, bởi đặc điểm truyền thống chính trị của đất nước…
Hình thức nhà nước bao gồm hai yếu tố chủ yếu quy định: hình thức chính thể bao gồm chính thể quân chủ, chính thể cộng hòa và hình thức cấu trúc bao gồm nhà nước đơn nhất, nhà nước liên bang. Ngoài ra chế độ chính trị cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hình thức nhà nước chế độ phản dân chủ, chế độ dân chủ.
Tùy theo tình hình kinh tế-xã hội cụ thể của mỗi quốc gia mà mỗi kiểu nhà nước được tổ chức theo những hình thức nhất định.
Nhà nước chiếm hữu nô lệ: Đây là nhà nước của giai cấp chủ nô thời cổ đại, tiêu biểu là các hình thức lịch sử nhà nước chủ nô ở Hy Lạp và La Mã cổ đại như chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa, chính thể quý tộc và chính thể dân chủ. Các hình thức này chỉ khác nhau về cách thức và cơ chế hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước, còn bản chất của chúng đều là nhà nước của giai cấp chủ nô, nhằm thực hiện sự chuyên chính đối với nô lệ.
Nhà nước phong kiến: Đây là nhà nước của giai cấp địa chủ phong kiến. Ở phương Tây, hình thức quân chủ phân quyền là hình thức nhà nước phổ biến. Quyền lực nhà nước được chia thành quyền lực độc lập, địa phương phân tán. Ở phương Đông, hình thức quân chủ tập quyền là hình thức nhà nước phổ biến dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất. Trong nhà nước này, quyền lực của vua được tăng cường rất mạnh, hoàng đế có uy quyền tuyệt đối, ý chí của vua là pháp luật. Dù tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào, nhà nước phong kiến cũng chỉ là chính quyền của giai cấp địa chủ, quý tộc, là cơ quan bảo vệ những đặc quyền phong kiến, là công cụ của giai cấp địa chủ phong kiến dùng để áp bức, thống trị nông nô.
Nhà nước tư sản: Chủ yếu chỉ có hai hình thức cơ bản nhất là hình thức cộng hòa và hình thức quân chủ lập hiến. Hình thức cộng hòa lại đựơc tổ chức dưới những hình thức khác nhau như cộng hòa Đại nghị, cộng hòa tổng thống trong đó hình thức cộng hòa Đại nghị là hình thức điển hình và phổ biến nhất. Hình thức của nhà nước tư sản là rất phong phú nhưng không làm thay đổi bản chất của nó- đó là công cụ của giai cấp tư sản dùng để áp bức thống trị giai câp vô sản và quần chúng lao động để bảo vệ lợi ích và quyền thống trị của giai cấp tư sản. Đúng như V.I.Lênin đã chỉ ra: “ Những hình thức của nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một: chung quy lại thì tất cả những nhà nước ấy, vô luận thế nào, cũng tất nhiên phải là nền chuyên chính tư sản”.(1) V.I.Lênin-Toàn tập-Nhà xuất bản Tiến bô-Matxcơva-1976-tập33-trang 44
Nhà nước vô sản: Nhà nước vô sản là một kiểu nhà nước đặc biệt trong lịch sử. Tính chất đặc biệt của nó thể hiện ở chỗ nó chỉ tồn tại trong thời kỳ quá đội lên chủ nghĩa cộng sản, nó là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử của xã hội loài người. C.Mác khẩng định: “ Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy là không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”.(2) Cacmac và Angghen-Tòan tập-Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Hà Nội-1995-tập22-trang 47
)
Tính chất đặc biệt của nhà nước vô sản còn thể hiện ở chỗ chức năng cơ bản nhất, chủ yếu nhất của nó không phải là chức năng bạo lực mà là chức năng tổ chức xây dựng kinh tế-xã hội. Khi đề cập tới vấn đề này, V.I.Lênin cho rằng chuyên chính vô sản không phải là bạo lực mà mặt cơ bản của nó là tổ chức, xây dựng toàn diện xã hội mới-xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Tính chất đặc biệt của nhà nước vô sản còn thể hiện ở cơ sở quyền lực của nhà nước-đó là nền tảng liên minh công-nông làm nòng cốt cho sự liên minh với mọi tầng lớp những người lao động khác trong xã hội.
Cũng chính vì những tính chất đặc biệt như thế mà chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định rằng nhà nước vô sản là một kiểu nhà nước đặc biệt trong lịch sử; đó là “nhà nước không cò nguyên nghĩa”, là nhà nước “nửa nhà nước”. Sự mất đi của nhà nước vô sản không phải bằng con đường “thủ tiêu”, “xóa bỏ” mà bằng con đường “tự tiêu vong”. Sự tiêu vong của nhà nước vô sản là một quá trình rất lâu dài.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội mang lại cho nhà nước vô sản nhiều hình thức mới. Tính đa dạng của nhà nước đó tùy thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của thời điểm xác lập nhà nước ấy, tùy thuộc vào tương quan lực lượng giữa các giai cấp và khối liên minh giai cấp tạo thành cơ sở xã hộicủa nhà nước, tùy thuộc vào nhiệm vụ kinh tế- chính trị- xã hội mà nhà nước đó phải thực hiện, tùy thuộc vào truyền thống chính trị của dân tộc. Hình thức cụ thể của nhà nước trong thời kỳ quá độ có thể rất khác nhau, nhưng bản chất của chúng chỉ là một: chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.
Về hình thức, nhà nước pháp quyền là sự thống trị tối cao của pháp luật, nhà nước, các cơ quan nhà nước, nhân viên của bộ máy nhà nước cũng như mọi cá nhân tổ chức trong xã hội đều bị ràng buộc bởi pháp luật. Về bản chất pháp luật, nhà nước do cơ quan lập pháp ban hành, không phải sản phẩm của sự tự do duy ý chí, không phải từ ý muốn chủ quan của người làm luật mà nó phải phản ánh thực tại khách quan của xã hội nhằm đáp ứng các yêu cầu tiến bộ xã hội.
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, nhà nước pháp quyền có năm đặc điểm. Một là, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước; hai là tôn trọng, bảo vệ quyền công dân và quyền con người; ba là bảo đảm và phát huy dân chủ; bốn là có sự ngự trị của pháp luật trong đời sống của nhà nước và xã hội; năm là tổ chức theo nguyên tắc phân định quyền lực, dùng quyền lực để kiểm tra và giám sát quyền lực.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một trong những tổ chức chính trị cơ bản nhất của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác- Lênin quan niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa là thống nhất về căn bản với nhà nước chuyên chính vô sản cả về bản chất, mục tiêu, vai trò, chức năng và các hoạt động theo những nguyên tắc, pháp luật chính sách của nó. Bản chất của nhà nứơc xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân. Nó được thể hiện ở tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. Tính nhân dân thể hiện ở các đặc điểm: nhà nước của dân, do dân lập nên và dân tham gia quản lý; nhà nước thể hiện ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân; nhà nước là công cụ chủ yếu để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa theo chủ nghĩa Mác-Lênin mang các đặc trưng cơ bản sau: thứ nhất, nhân dân là chủ thể cao nhất của quyền lực nhà nước; thứ hai, nhà nước biểu hiện tập trung cho khối đại đòan kết dân tộc; thứ ba, thể hiện tính xã hội rộng lớn.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước xã hội chủ nghĩa mà trong đó mọi chủ thể kể cả nhà nước đều phải tuân thủ và chấp hành pháp luật. Các đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thể hiện ở các mặt như: Một là mọi hoạt động của tất cả các cơ quan, các tổ chức đơn vị cá nhân, mọi công dân đều phải được đặt trong khuôn khổ nhất định của pháp luật, hai là phải xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ đồng bộ và ngày càng hoàn chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội, trong đó các đạo luật có vị trí tối thượng, ba là nhà nước đảm bảo các quyền tự do dân chủ của nhân dân thông qua sự quy định và bảo vệ của pháp luật, bốn là quyền lực của nhà nước là thống nhất tập trung, năm là thực hiên chính sách hòa bình hữu nghị với các nước.
Mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân được Hồ Chí Minh diễn đạt thật mới mẻ: Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta. Tư tưởng đó đã được thể hiện rõ nét trong các bản Hiến pháp của nước ta. Đó là xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
Tư tưởng lập hiến là một trong những nét luôn luôn nhất quán trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh. Ngày 20-9-1945, Chủ tịch lâm thời nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà ký Sắc lệnh thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 7 thành viên do Chủ tịch Hồ Chí Minh là Trưởng ban. Tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khoá I vào tháng 10-1946, Quốc hội đã thảo luận dân chủ và thông qua bản Hiến pháp đầu tiên này. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh còn được thể hiện rõ nét trong hoạt động của Chính phủ và của bản thân Người. Hồ Chí Minh nghiêm khắc đòi hỏi bản thân mình và mọi tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể phải tuân thủ pháp luật, không một ai được đứng ngoài, đứng trên pháp luật. Người nói: “Pháp luật của ta là pháp luật thực sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi của nhân dân lao động. Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình nhưng phải tôn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng quyền tự do của mình mà phạm đến quyền tự do của người khác là phạm pháp”.
Theo đó, xây dựng nhà nước là thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động- nhà nước của dân, do dân, vì dân. Phải xây dựng nhà nước có hiệu lực pháp lí mạnh mẽ, tức là xây dựng một nhà nước hợp hiến, và quản lý nhà nước bằng pháp luật, chú trọng đưa pháp luật vào trong cuộc sống, tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của nhà nước đủ sức và tài. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, do Đảng cộng sản lãnh đạo.
Nhà nước đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Lịch sử đã chứng minh rằng các nền kinh tế thị trường thành công nhất đều không thể tự phát triển nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước. Các nền kinh tế thị trường nguyên thủy dựa trên cơ sở sản xuất và trao đổi giản đơn có thể hoạt động một cách có hiệu quả mà không cần sự can thiệp của Nhà nước. Tuy nhiên, do nền kinh tế tăng trưởng dưới tác động bên ngoài ngày càng phức tạp nên sự can thiệp của Nhà nước xuất hiện như một tất yếu cho sự hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, Nhà nước tập trung vào 3 phương diện: định hướng công nghiệp hóa cho toàn bộ nền kinh tế; dẫn dắt các doanh nghiệp hoạt động theo mục tiêu nhà nước đã lựa chọn thông qua hệ thống các công cụ kinh tế vĩ mô của nhà nước và đầu tư vào phát triển kết cấu hạ tầng, một số ngành quan trọng và hỗ trợ tài chính doanh nghiệp.
Tuy có những điểm thuận lợi và bất lợi khi Nhà nước can thiệp vào các hoạt động kinh tế(đặc biệt khi tham gia quá sâu vào 1 hoạt động kinh doanh nào đó), nhưng sự hỗ trợ và can thiệp đó là cần thiết. Nhà nước sẽ có những chính sách điều chỉnh phù hợp đối với những khuyết tật của thị trường, để thị trường phát triển đúng hướng, đúng lộ trình. Từ đó, đảm bảo tính chỉnh thể của nền kinh tế và để cung cấp những dịch vụ phúc lợi xã hội.
Vai trò vô cùng quan trọng của nhà nước là tạo lập thị trường tiền tệ ổn định, được chấp nhận rộng rãi, có khả năng loại bỏ hệ thống giao dịch cồng kềnh và đồng thời có khả năng duy trì giá trị tiền tệ thông qua các chính sách hạn chế lạm phát. Hiện nay tình trạng lạm phát đang quá cao ở nước ta, vì thế nhà nước đang có những biện pháp để bình ổn giá cả như giảm thiểu lưu lượng tiền trong nền kinh tế, cắt giảm tín dụng ngân hàng, áp dụng nhiều biện pháp chế tài mạnh mẽ, kêu gọi người dân thắt lưng buộc bụng, điều chỉnh các hoạt động doanh nghiệp nhà nước…
Quốc phòng là một ví dụ chứng tỏ vai trò tối quan trọng của Nhà nước trong việc ổn định nền chính trị. Điều đó được quyết định bởi quốc phòng là một kiểu hàng hoá hoàn toàn khác hẳn với các loại hàng hoá vật thể khác ở chỗ, người ta không trả tiền cho mỗi đơn vị sử dụng mà mua nó như một tổng thể nhằm mục đích bảo vệ an ninh của cả một quốc gia. Ở đây, bảo vệ cho một cá nhân không có nghĩa là giảm bảo vệ cho người khác, bởi tất cả mọi người tiêu thụ các dịch vụ quốc phòng một cách đồng thời.
Các loại hàng hoá kiểu như vậy được gọi là hàng hoá công cộng, bởi không một doanh nghiệp tư nhân nào có thể bán quốc phòng của toàn dân cho các công dân riêng lẻ và coi đó là nghề kinh doanh thu lãi. Đơn giản là không thể có chuyện dịch vụ quốc phòng lại được đem rao bán cho những người cần hoặc không thực hiện bảo vệ an ninh quốc gia, cho những người từ chối chi trả kinh phí cho quốc phòng. Hơn nữa, hàng hoá công cộng là thứ hàng hoá không thể định giá chính xác được, cho nên tư nhân không thể cung cấp. Đấy là nguyên nhân chính giải thích vì sao quốc phòng phải do Nhà nước điều hành và chi phí cho quốc phòng phải được lấy từ nguồn tài chính công, từ ngân sách Nhà nước có được thông qua thuế.
Hàng hoá công cộng có ba đặc tính: tính không kình địch trong tiêu dùng, tính không loại trừ và tính không thể không tiêu dùng mà tựu trung lại, tất cả mọi người đều có nghĩa vụ và quyền lợi tiêu dùng hàng hoá công cộng như nhau. Có nhiều ví dụ về hàng hoá công cộng, từ các biện pháp chống lũ lụt cho đến việc phòng chống vũ khí nguyên tử, nhưng hai ví dụ có thể thấy rõ vai trò của Nhà nước một cách trực tiếp và thường xuyên nhất, đó là xây dựng cơ sở hạ tầng và ổn định kinh tế vĩ mô.
Thật vậy, một nền kinh tế không thể "cất cánh" được trừ phi nó có được một cơ sở hạ tầng vững chắc. Nhưng cũng do tính không thể phân chia của hàng hoá công cộng mà các tư nhân thấy rằng đầu tư vào đây không có lợi. Vì thế, nhà nước bỏ vốn vào đầu tư cơ sở hạ tầng, ổn định kinh tế vĩ mô cũng có thể xem như là hàng hoá công cộng. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường là sự bất ổn định do các cuộc khủng hoảng chu kỳ. Sự ổn định kinh tế rõ ràng là điều mà mọi nhà nước đều mong muốn và nó có lợi cho tất cả mọi người. Do vậy, chính nhà nước phải chịu trách nhiệm duy trì sự ổn định đó trên tầm vĩ mô.
Định hướng bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Điều tiết, định hướng các hoạt động của các chủ thể kinh tế thông qua chính sách thuế, chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư...
Hỗ trợ các chủ thể kinh tế trong việc tiếp cận thông tin, phân tích xu hướng, nhu cầu của thị trường; trực tiếp hỗ trợ về vốn, dịch vụ khoa học, kỹ thuật, xúc tiến thương mại, hỗ trợ các hoạt động xuất khẩu...
Trực tiếp hỗ trợ, tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông quá đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế như hệ thống giao thông, thuỷ lợi, cung cấp điện, nước sạch... là một điều kiện quan trọng hàng đầu để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đây là những hoạt động đầu tư đòi hỏi nguồn vốn rất lớn, nhưng lại rất khó thu lợi nhuận trực tiếp, do vậy mặc dù đã có nhiều giải pháp thu hút vốn đầu tư tư nhân, nhưng cho đến nay và cả trong tương lai, Nhà nước vẫn là người đầu tư chính vào lĩnh vực này.
Đầu tư của Nhà nước để phát triển các lĩnh vực như nghiên cứu khoa học, công nghệ, y tế, giáo dục, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cũng giữ một vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Ngòai ra, nhà nước còn có những chủ trương tích cực. giúp nền kinh tế Việt Nam tham gia và hội nhập với nền kinh tế quốc tế. Trong năm 2007, Việt Nam gia nhập chính thức vào tổ chức Thương mại thế giới WTO. Đó là một bước tiến dài trong hoạt động giao lưu, kinh tế của nước ta với các nước bạn trên thế giới. Từ giữa 2007, tốc độ tăng GDP của Việt Nam đạt thứ nhì châu lục. Kim ngạch xuất khẩu tăng đều đặn mỗi năm 20-25%. Dòng vốn nước ngoài và kiều hối liên tục đạt các kỉ lục mới. Chỉ số chứng khoán Việt Nam-VN index từ đầu năm 2006- giữa năm2007 tăng đến 4 lần. Thành quả sau một năm gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng cao hơn dự kiến, đạt từ 8-8,5%, là tốc độ tăng trưởng cao nhất trong 10 năm qua. Kinh tế Việt Nam phát triển đúng hướng, thể hiện sự tăng trưởng ở các ngành quan trọng như công nghiệp-thương mại-dịch vụ. Cơ cấu kinh tế chuyển theo hướng tích cực, tỉ trọng GDP của nhóm ngành công nghiệp-xây dựng tăng từ 41,31% lên 41,48%, dịch vụ tăng từ 38,25% lên 38,44%, nông-lâm-thủy sản từ 20,45% giảm xuống còn 20,08%. Bên cạnh đó, nhà nước còn có những cải cách chính sách theo hướng không phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước, doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, giảm sự bảo hộ đối với doanh nghiệp Nhà nước. Do Việt Nam cải thiện chính sách đầu tư, môi trường kinh doanh, mở cửa thị trường theo cam kết WTO, đến tháng 12/2007, vốn FDI đăng ký đạt 15 tỉ USD, tăng gần 40% so với cùng kỳ năm trước, bằng gần 20 năm trước đây. Một điều đáng nói nữa là, kinh tế tư nhân đóp góp 35% vào sự tăng trưởng kinh tế chung của đất nước. Điều này chứng tỏ chính sách của nhà nước đã phát huy tác dụng, kích thích và tạo điều kiện để người dân yên tâm đầu tư sản xuất, kinh doanh.
Nhà nước còn bảo vệ cho hoạt động cạnh tranh và chống độc quyền. Vai trò này thể hiện ở tập hợp những biện pháp của Nhà nước nhằm cổ vũ cạnh tranh giữa các nhà cung ứng với nhau, đồng thời bảo vệ người tiêu dùng chống lại tình trạng độc quyền. Phạm vi của một chính sách như vậy bao gồm: kiểm soát bằng các biện pháp điều tiết đối với những hãng có khả năng chi phối, kiểm soát các vụ việc sát nhập công ty nhằm ngăn ngừa khả năng độc quyền hoá các ngành công nghiệp, kiểm soát các hành vi chống cạnh tranh.Nói tới độc quyền là nói tới thị trường chỉ có một người cung cấp. Độc quyền là một khuyết tật của kinh tế thị trường, làm cho thị trường hoạt động kém hiệu quả. Nhà nước phải tìm ra các giải pháp phù hợp để giải quyết tình trạng độc quyền, bao gồm cả độc quyền tự nhiên cũng như độc quyền tồn tại do chính sách hạn chế cạnh tranh trong và ngoài nước. Để ngăn chặn tình trạng cấu kết, độc quyền và để duy trì cạnh tranh lành mạnh một cách có hiệu quả, hầu hết các nền kinh tế thị trường, đều thông qua đạo luật chống độc quyền.
Không chỉ bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền, nhà nước còn thực hiện những biện pháp nhằm ngăn chặn những tác động ở bên ngoài (yếu tố ngọai vi). Yếu tố ngoại vi là các ảnh hưởng tốt hay không tốt do các yếu tố bên ngoài gây nên cho hoạt động của công ty hay cho xã hội nói chung. Yếu tố ngoại vi xảy ra khi có sự khác biệt về phí tổn hoặc lợi ích giữa cá nhân và xã hội. Tuy nhiên, các chi phí hoặc lợi ích này (chi phí ngoại vi hoặc lợi ích ngoại vi) lại không được tính đến trong hệ thống giá cả và thị trường. Những chi phí ngoại vi cho sản xuất bao gồm: sự tắc nghẽn giao thông và ô nhiễm môi trường mà nhà máy hoặc xí nghiệp sản xuất tạo ra... Những yếu tố này gây nên sự giảm sút về phúc lợi của những người dân sống xung quanh hoặc có thể buộc những nhà máy khác gần đó phải tốn kém thêm chi phí để làm sạch nước sông đã bị ô nhiễm mà mình phải sử dụng trong sản xuất. Vì phía thứ ba không được đền bù cho những khoản chi phí ngoại vi, nên các phí tổn sản xuất không được tính đến trong hệ thống giá. Và do vậy, vai trò kinh tế của Nhà nước là điều chỉnh lại sự bất hợp lý này. Bằng sự can thiệp, Nhà nước buộc tất cả những ai hưởng lợi từ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đều phải trả toàn bộ chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ấy.
Tuy nhiên, Nhà nước không dễ dàng quyết định chính xác chi phí ấy là bao nhiêu, vì không thể định lượng một cách chính xác tác hại mà sự ô nhiễm ấy có thể gây ra cho xã hội. Vì những khó khăn này, Nhà nước cần phải đảm bảo chi phí giảm ô nhiễm không được cao hơn so với chi phí mà ô nhiễm gây ra cho xã hội. Nếu không các nguồn lực sẽ không được phân bố hiệu qua.
Nhà nước sử dụng một hệ thống thuế, luật pháp, điều lệ, mức hình phạt, thậm chí cả mức truy tố để nhằm giảm ô nhiễm. Ngoài ra, nhà nước còn sử dụng cả chính sách quyền sở hữu công khai nguồn tài nguyên, người sử dụng nguồn tài nguyên này nếu gây ô nhiễm sẽ phải chịu chi phí theo giá thị trường. Các khoản thuế hay biện pháp trợ cấp tối ưu đều được coi là phương thức để Nhà nước xứ lý những yếu tố ngoại vi. Do chỗ toàn bộ chi phí xã hội là cái quan trọng quyết định sự phân bố tài nguyên một cách có hiệu quả, còn những chi phí tư nhân quyết định giá hàng, cho nên vai trò của Nhà nước là tạo ra sự thăng bằng giữa cá nhân và xã hội thông qua việc điều chỉnh sản xuất thừa hoặc tiêu dùng thừa vào chi phí ngoại vi.
Trong các lợi ích ngoại vi, cần chú ý tới giáo dục bởi đây là lĩnh vực cần phải có sự quan tâm và hỗ trợ của Nhà nước. Ngoài ra, trong chừng mực một sán phẩm nào đó có thể tạo ra được lợi ích ngoại vi, Nhà nước cần xem xét vấn đề trợ cấp tối ưu để khuyến khích sản xuất, tiêu dùng loại sản phẩm này sao cho giá trị đích thực các lợi ích ngoại vi được tính đến trong hệ thống giá thị trường. Ở đây, sự can thiệp cửa Nhà nước là cần thiết, vì trong khi chi phí ngoại vi có thể dẫn đến sản xuất thừa thì ngược lại, lợi ích ngoại vi lại có thể dẫn đến sản xuất thiếu.
Ngòai ra, nhà nước còn hạn chế, khắc phục các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, thực hiện công bằng xã hội.
Như đã trình bày ở trên, các hoạt động kinh doanh dẫn tới ô nhiễm môi trường, tỉ lệ lạm phát cao tỉ lệ thuận với tốc độ phát triển, các vấn đề bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, hoạt động sản xuất dẫn đến gây ô nhiễm môi trường, vấn đề về độc quyền hàng hóa… đều là những mặt tiêu cực của cơ chế thị trừơng. Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang ở vào một tình thế rất phức tạp. Có quá nhiều vấn đề phải giải quyết đồng thời: giải quyết lạm phát đang lên đến đỉnh cao, mong muốn duy trì tốc độ tăng trưởng GDP, tăng thu hút đầu tư và xuất nhập khẩu, gỡ rối cho thị trường chứng khoán và bất động sản. Nhà nước đã, đang và từng bước khắc phục những mặt trái này của nền kinh tế thị trường. Nhà nước đề ra các mức thuế áp dụng cho hoạt động sản xuất gây ô nhiễm môi trường, tìm ra giải pháp phù hợp hạn chế độc quyền về sản xuất và phân phối hàng hóa, tiến hành tự đầu tư và mở cơ sở hạ tầng để phát triển kinh tế các vùng nông thôn để rút ngắn khoảng cách giàu nghèo, lạc hậu…
Để thực hiện công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường, nhà nước tham gia việc thiết lập và bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, cũng như quyền được hưởng các lợi ích kinh tế xuất phát từ việc sử dụng quyền sở hữu đó. Nếu không có sự đảm bảo ấy, một số người sẽ gặp phải những rủi ro nếu đầu tư thời gian và tiền vốn của mình vào lĩnh vực kinh doanh mà rốt cuộc, tiền lãi thu về lại có thể rơi vào Nhà nước hoặc các tập đoàn khác.
Sự bảo hộ của Nhà nước đối với sở hữu tư nhân thể hiện một cách rõ ràng đối với đất đai, nhà máy, công xưởng, kho chứa và các sản phẩm hữu hình khác. Thế nhưng, sự bảo hộ đó còn được áp dụng cho cả các sở hữu liên quan tới trí tuệ, chẳng hạn như sách, bài viết, phim ảnh, hội họa, phát minh, sáng chế, thiết kế, bào chế thuốc hay chương trình phần mềm... Đây là một sự can thiệp rất quan trọng của Nhà nước trong việc bảo vệ bản quyền tác giả và qua đó, khuyến khích những hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học, các nghệ sĩ, khuyến khích việc phát huy khả năng trí tuệ của họ.
Ngoài ra, trong nền kinh tế thị trường, khả năng kiếm sống ở một số người là rất hạn chế, trong khi đó, số khác lại có nguồn thu nhập rất lớn. Nguồn thu nhập đó có thể do thừa hưởng gia tài, có thể do tài năng hoặc sự thành đạt trong kinh doanh hay trong các quan hệ chính trị, xã hội... Do vậy, vai trò của Nhà nước là không thể thiếu được trong việc phân phối lại thu nhập để trong chừng mực cho phép, có thể thu hẹp lại khoảng cách giàu - nghèo trong xã hội. Trên thực tế, các chính phủ đều luôn thực hiện điều đó thông qua chính sách thuế, đặc biệt là thuế thu nhập nhằm tạo ra sự công bằng hơn trong phân ph
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vai trò của nhà nước XHCN VN đối với nền kinh tế thị trường hiện nay.DOC