Việc đãi ngộ cho đội ngũ viên chức chưa xứng đáng, lương nhà nước còn rất thấp không đủ nuôi sống cho bản thân và gia đình họ cho nên mới dẫn đến tình trạng tham ô, tham nhũng, hối lộ tràn lan và đã trở thành quốc nạn. Nhà nước trong những năm gần đây rất chú trọng quan tâm đến vấn đề này, đã thực hiện rất nhiều chính sách nhằm nâng cao mức sống của người lao động: tăng lương, giảm giờ làm, có chính hỗ trợ vốn, phát triển nhiều loại hình vui chơi giải trí mặc dù thu nhập tăng nhưng chi phí tiêu dùng cũng tăng nên đời sống nhân dân cải thiện chậm, điều này thấy rõ rệt ở các vùng nông thôn kém phát triển, nhiều nơi chưa có điện kéo về thôn xóm, nhiều loại hình giải trí còn chưa có. Qua đó đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách phát triển cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế đặc biệt là vùng nông thôn.
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1663 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vai trò của nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệ, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản. Mỗi kiểu Nhà nước được tổ chức theo những hình thức nhất định.
Vậy Nhà nước là một kiểu hay một hình thức tổ chức xã hội với những đặc trưng riêng vốn có so với các kiểu hình thức tổ chức khác.
1.2. Bản chất của Nhà nước.
Mỗi kiểu Nhà nước được tổ chức theo những hình thức nhất định nhưng bản chất chỉ là một. Chỉ giai cấp có thế lực nhất- giai cấp thống trị về kinh tế mới đủ điều kiện lập ra và sử dụng bộ máy Nhà nước. Nhờ có Nhà nước mà giai cấp này cũng trở thành giai cấp thống trị về chính trị, và do đó có thêm những phương tiện khác để đàn áp bóc lột giai cấp khác ví dụ như: pháp luật, chính sách thuế, tòa án, nhà tù, quân đội…Xét về danh nghĩa Nhà nước là quyền lực chung của xã hội, ra đời làm cho xã hội tồn tại trong vòng trật tự nhất định nhưng về thực chất nó là đại diện cho quyền lực của gai cấp thống trị trong xã hội, bảo vệ lợi ích và quyền thống trị của giai cấp nắm tư liệu sản xuất, áp bức giai cấp vô sản làm thuê và quần chúng lao động.
Do đó Nhà nước là bộ máy quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp, tất cả những hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội… do Nhà nước tiến hành xét cho cùng đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị
1.3. Chức năng của Nhà nước.
Tùy theo góc độ khác nhau chức năng của Nhà nước được phân chia khác nhau. Dưới góc độ tính chất của quyền lực chính trị Nhà nước có chức năng thống trị của giai cấp và chức năng xã hội. Dưới góc độ phạm vi tác động của quyền lực Nhà nước có chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
1.3.1. Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội.
Chức năng chính trị là chức năng bảo vệ ý trí , lợi ích của giai cấp thống trị xã hội. Nhà nước ra đời đại diện cho ý trí của giai cấp thống trị do đó mà nó là công cụ chuyên chính bảo vệ sự thống trị của giai cấp cầm quyền đối với toàn thể xã hội. Đây là chức năng quan trọng cơ bản nhất.
Chức năng xã hội của nhà nước là bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia, trong lợi ích chung đó nó không loại trừ lợi ích và ý trí giai cấp thống trị.
Chức năng xã hội phụ thuộc, phục vụ chức năng chính trị , nó cũng là chức năng chính trị được mở rộng .
1.3.2. Chức năng đối nội , đối ngoại.
Chức năng đối nội là chức năng cai trị dân cư, quản lý dân cư, quản lý các hoạt động kinh tế, văn hóa, chính trị , xã hội trong phạm vi lãnh thổ quốc gia theo ý trí và lợi ích của giai cấp thống trị đã được đề lên thành pháp luật. Đây là chức năng quan trọng nhất quyết định chức năng đối ngoại.
Chức năng đối ngoại là chức năng thực hiện mối quan hệ giữa các nhà nước tức là thực hiện mối quan hệ giữa các giai cấp thống trị ở các quốc gia khác nhau. Chức năng đối ngoại thực ra là tiếp tục của chức năng đối nội mở rộng
ra.
2. Đặc trưng của Nhà nước và vai trò của Nhà nước
2.1. Đặc trưng của Nhà nước.
- Nhà nước chỉ tồn tại trong xã hội có đối kháng giai cấp. Sở dĩ như thế là do ta thấy trong thực tiễn lịch sử: xã hội nguyên thủy không có nhà nước mà ở đó dân cư được tổ chức dưới hình thức bộ tộc, thị tộc, bào tộc, bộ lạc là vì trong thị tộc, bộ lạc chưa có đối kháng về lợi ích, nhưng từ khi xã hội chiếm hữu nô lệ tức là từ khi xã hội phân hóa thành đối kháng giai cấp thì bắt đầu có bộ máy Nhà nước. Từ xã hội đó đến nay luôn tồn tại và phát triển Nhà nước.
- Nhà nước có bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội. Nó có thể nhân danh cho quyền lực chung của toàn thể lãnh thổ, đồng thời nó là quyền lực mang tính bắt buộc. Bộ máy quyền lực đó bao gồm các đội vũ trang đặc biệt: quân đội, cảnh sát, nhà tù…và bộ máy quản lý hành chính. Nhà nước thực hiện quyền lực của mình trên cơ sở sức mạnh cuỡng bức của pháp luật và dùng các thiết chế bạo lực để pháp luật của mình đươc thực thi trong thực tế.
- Dân cư trong xã hội được quản lý, theo lãnh thổ quốc gia và trong lãnh thổ ấy lại được phân chia thành các khu vực hành chính: tỉnh, huyện, xã..
- Để cai trị hay quản lý dân cư cũng như mọi hoạt động trong xã hội thì phải sử dụng đến pháp luật. Nhà nước dùng pháp luật để uốn nắn các hoạt động vào khuôn khổ, điều chỉnh sao cho phù hợp. Để đảm bảo tính thực thi của pháp luật cần phải có một hệ thống các tổ chức thuần túy bạo lực: quân đội, cảnh sát, nhà tù…
- Để duy trì bộ máy tổ chức nhà nước thì cần phải có một chế độ thuế khóa để tồn tại, phát triển, mở rộng bộ máy Nhà nước. Nhà nước không thể tồn tại nếu không dựa vào thuế khóa, quốc trái và các hình thức bóc lột khác. Đó là những chế độ đóng góp có tính chất cưỡng bức để nuôi sống bộ máy cai trị.
2.2. Nội dung, vai trò của Nhà nước.
Nhà nước là yếu tố quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng, bất cứ một tổ chức nào cũng có tác động đến cơ sở kinh tế. Thí dụ như: Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu, chế định ra các luật, Nhà nước có thể thành lập ra các tổ chức kinh tế: doanh nghiệp Nhà nước . Hoặc Nhà nước có thể thông qua các hoạt động ngoại giao để mở đường cho hoạt động kinh tế đối ngoại.
Nhà nước ta can thiệp điều tiết, điều khiển hay quản lý nền kinh tế, nhìn từ góc độ khác nhau mà ta có thể hiểu sự tác động của nhà nước là can thiệp, điều tiết, điều khiển hay quản lý nến kinh tế . Bốn khái niệm này không có sự khác nhau là tuyệt đối. Tuy nhiên ta có thể hiểu như sau:
- Quản lý nền kinh tế là sự điều khiển nền kinh tế sao cho nó tự vận động đến các mục tiêu mong muốn, trong đó điều khiển bao hàm cả ý nghĩa giữ gìn và bảo vệ.
- Can thiệp, điều tiết là thao tác của chủ quản lý để điều khiển nền kinh tế tự vận động đến các mục tiêu mong muốn.
Nhà nước ta đóng vai trò quản lý nền kinh tế thị trường là đóng vai trò điều khiển nền kinh tế sao cho nó tự vận động đến các mục tiêu mong muốn bằng cách sử dụng các công cụ điều tiết và can thiệp mỗi khi cần thiết.
- Nhà nước quản lý kinh tế hay làm kinh tế ?Mặc dù không có nhà nước nào đứng trên nền kinh tế hay nằm ngoài nền kinh tế nhưng cần phải nhấn mạnh rằng: Nhà nước theo nguyên nghĩa của từ này không làm kinh tế mà cũng không quản lý kinh tế . Người ta chỉ gọi “làm kinh tế” hay “quản lý kinh tế” khi chủ thể của hoạt động này nhận thức được rằng: Tài nguyên là khan hiếm một cách tương đối cho dù đất nước ở bất cứ trình độ nào trên thang bậc của nền văn minh nhân loại. Chính vì vậy chính phủ luôn phải lựa chọn các phương án phát triển kinh tế sao cho với một nguồn lực hiện như đang có của nền kinh tế có khả năng thỏa mãn một cách tốt nhất nhu cầu của dân cư về hàng hóa, và dịch vụ, các doanh nghiệp phải lựa chọn các phương án sản xuất kinh doanh sao cho đạt được lợi nhuận tối đa. Tuy nhiên, sự khác nhau giữa nhà nước và các doanh nghiệp là ở chỗ:
+Các doanh nghiệp làm kinh tế thì tính hiệu quả kinh tế bằng thước đo lợi nhuận.
+ Nhà nước không “làm kinh tế” như doanh nghiệp đang làm. Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế, tức là: lựa chọn phương án phát triển kinh tế -xã hội, can thiệp , điều khiển mỗi khi kinh tế đi chệch ngoài phương án bởi các chấn động kinh tế- chính trị- xã hội bên trong và bên ngoài.
+ Ngày nay trong hầu hết các quốc gia đều có phần sở hữu Nhà nước mà doanh nghiệp nhà nước là người trực tiếp sử dụng các nguồn lực hiện có ở đây.
II. Liên hệ ứng dụng vào thực tiễn nền kinh tế Việt Nam.
1. Những thành tựu cơ bản của sự quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Đường lối đổi mới được đề ra tại Đại hội lần thứ VI của Đảng đã tạo ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Trong đường lối đổi mới ấy Đảng đã thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến đại hội giữa nhiệm kỳ khóa VII, lại khẳng định chủ trương “ tiếp tục xây dựng thể chế kinh tế mới, kiên trì quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước ” [Văn kiện hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII].
Thực hiện chủ trương đó Nhà nước đã ban hành hàng loạt các chính sách, các văn bản pháp luật để dần dần hoàn thiện cơ chế quản lý nền kinh tế theo mô hình tổng quát cả thời kỳ quá độ là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở hiến pháp năm 1992, Nhà nước đã có những chính sách và thể chế hóa bằng hàng loạt bộ luật, luật, pháp lệnh và các văn bản dưới luật khác hướng vào việc đảm bảo quyền tài sản, đảm bảo quyền tự chủ của các chủ thể kinh doanh; đảm bảo cho giá cả chủ yếu do thị trường định đoạt; đảm bảo lấy các tín hiệu thị trường làm căn cứ quan trọng để phân bổ các nguồn lực cho sản xuất– kinh doanh; khuyến khích cạnh tranh, hạn chế độc quyền; đảm bảo khuyến khích các nhà kinh doanh kiếm lợi nhuận hợp pháp…
Nhờ sự hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế nên đã đạt được những thành tựu chủ yếu sau:
- Giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất xã hội kìm nén bấy lâu nay, nổi bật là sự phát triển đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp. Nhờ đó, đưa nước ta từ một nước nhập khẩu lương thực trở thành nước xuất khẩu lớn của thế giới về lương thực, cà phê, hạt tiêu. Từ chỗ đầu tư để phát triển đất nước chủ yếu là từ nguồn ngân sách Nhà nước đến chỗ thu hút được nhiều chủ đầu tư ngoài khu vực Nhà nước, làm cho tổng đầu tư toàn xã hội tăng nhanh. Đồng thời đảm bảo cho cả thời kỳ đổi mới, kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng vào loại cao so với các nước trong khu vực và thế giới…
- Từng bước tạo điều kiện hình thành và thúc đẩy các yếu tố thị trường bộ phận để phát triển hệ thống thị trường cơ bản, như: thị trường hàng hóa, dịch vụ; thị trường tài chính; thị trường bất động sản; thị trường lao động; thị trường khoa học và công nghệ. Do các loại thị trường cơ bản được hình thành và phát triển, làm cho nền kinh tế hoạt động ngày càng có hiệu quả hơn, sội động hơn.
2. Thực trạng quản lý kinh tế của Nhà nước.
2.1. Thực trạng nền kinh tế .
Từ khi đổi mới nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi căn bản. Nhưng nền kinh tế thị trường ở nước ta mới chỉ ở mức độ sơ khai hình thành, chưa đầy đủ. Điều đó thể hiện rõ ở các điểm sau:
- Sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường kém. Hàng hóa sản xuất ra chủ yếu là trong lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp, trình độ thấp, công nghệ lạc hậu, hàng hóa sản xuất ra không phong phú cho nên thị trường tiêu thụ còn hết sức hạn chế. Cạnh tranh là động lực thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển một khi cạnh tranh yếu thì hàng hóa trên thị trường cũng ít phát triển. Tuy nhiên, ta cũng không thể phủ nhận được những tiến bộ trong việc đa dạng hóa các mặt hàng, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Việt Nam cũng đang phấn đẩu trở thành một trong những nước phát triển ở Châu á, gia nhập vào nền kinh tế thế giới.
- Trong cơ cấu ngành công – nông- dịch vụ thì nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn, chiếm nhiều lao động trong xã hội. Chỉ có một số nơi sản xuất nông nghiệp được nhà nước quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng tạo điều kiện phát triển, còn phần lớn vẫn trong tình trạng sản xuất tự cung tự cấp lạc hậu kém phát triển. Hiện nay nhà nước đang chủ trương xây dựng sản xuất nông nghiệp theo hướng trang trại, đưa máy móc kỹ thuật vào nông nghiệp giúp tăng năng suất, đạt hiệu quả cao nhất trong sản xuất nông nghiệp, đóng góp một phần không nhỏ vào thu nhập quốc dân.
- Chất lượng của hàng hhóa và dịch vụ nhìn chung còn thấp do xuất phát điểm của nước ta là một nước nông nghiệp nghèo, lạc hậu, để theo kịp các nước phát triển trên thế giới thì đòi hỏi phải có một thời gian rất dài, phải có quá trình phấn đấu của cá nhân và tập thể. Hàng hóa và dịch vụ thấp là một trong những hạn chế lớn trong phát triển kinh tế của nước ta hiện nay, đòi hỏi phải có kỹ thuật và công nghệ cao tương ứng đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu không chỉ của người dân trong nước mà của cả người nước ngoài.
Qua việc phân tích thực trạng nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay thì vai trò quản lý lãnh đạo của Nhà nước được đặt nên hàng đầu và nó rất quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân.
2.2. Sự quản lý của Nhà nước và hạn chế trong tổ chức bộ máy Nhà nước.
Nhà nước là yếu tố quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng, bất cứ một tổ chức Nhà nước nào cũng có tác động đến cơ sở kinh tế xã hội.Bất cứ một chính sách, chỉ đạo nào của Nhà nước ban ra đều có ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế quốc dân. Chính sách Nhà nước có đúng đắn thì nền kinh tế mới phát triển được và ngược lại, đồng nghĩa với việc Nhà nước phải tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát triển kinh tế. Bằng chủ trương xóa bỏ ngăn sông cấm chợ, xóa bỏ chế độ nhiều giá, chúng ta đã khuyến khích sự ra đời nhanh của thị trường hàng hóa, thị trường vật tư kỹ thuật thông suốt và thống nhất trong cả nước- đây là điều tốt- song những thị trường khác rất cần thiết đối với sự hình thành và phát triển của sản xuất hàng hóa như thị trường sức lao động, thị trường đất đai, thị trường tiền tệ, thị trường chất xám…thì Nhà nước vẫn chưa có giải pháp rõ ràng, dứt khoát và có hiệu lực để hình thành nó. Đây cũng chính là một trong những trở ngại đối với sản xuất hàng hóa ở nước ta hiện nay.
Trong nền kinh tế thị trường công cụ chủ yếu Nhà nước sử dụng để quản lý kinh tế là hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật càng đầy đủ bao nhiêu việc quản lý của Nhà nước càng chặt chẽ, đồng bộ bấy nhiêu. Mấy năm qua Nhà nước ta cũng cố gắng giải quyết vấn đề này, xây dựng hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, thắt chặt luật pháp, bổ sung những điều quan trọng vào bộ luật, hạn chế những kẽ hở để tránh có những kẻ lợi dụng làm điều bất chính. Song việc xây dựng củng cố đó vẫn chưa đáng kể, nền kinh tế đang có những bước chuyển mình sang nền kinh tế hàng hóa phát triển trong khi hệ thống pháp luật vẫn chưa hoàn chỉnh để đáp ứng kịp thời với sự thay đổi đó, một số luật cơ bản vẫn chưa có vì thế việc quản lý của Nhà nước nhiều lúc còn gặp nhiều khó khăn và lúng túng cả trong tầm vi mô và vĩ mô, nghiêm trọng hơn có một số cơ quan Nhà nước buông lỏng quản lý để mặc cho các hoạt động sản xuất kinh doanh phi pháp diễn ra làm thiệt hại lớn cho nền kinh tế quốc dân. Bằng các chính sách kinh tế Nhà nước can thiệp điều tiết các quá trình kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình kinh tế diễn ra một cách nhanh chóng và có hiệu quả ví dụ: chính sách thuế ưu đãi cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vốn tại Viêt Nam, chính sách đầu tư vốn cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, tạo môi trương cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp thúc đẩy sản xuất phát triển tăng năng suất và chất lượng sản phẩm... tất cả đều nhằm đạt mục đích tăng trưởng kinh tế. Đồng thời nhà nước còn tạo điều kiện thuận lợi trong việc giải quyết nguồn lao động. Việt Nam là một nước đông dân, trong khi đó lao động có trình độ không phải là nhiều, để giải quyết hết nguồn lao động còn tồn đọng là một vấn đề nhức nhối, mỗi năm nước ta bổ sung thêm mới hơn 1 triệu lao động, tuy nhiên khối lượng công việc xã hội không đáp ứng được hết đã làm cho tình trạng thất nghiệp tại Việt Nam trở nên nhiều hơn. Trước tình hình đó, Nhà nước đã xây dựng một chiến lược giúp tháo gỡ vấn đề này: tăng cường xuất khẩu lao động, vừa giải quyết được nguồn lao động tồn đọng vừa giúp người lao động có thu nhập cao; tuy nhiên đó mới chỉ là giải pháp trước mắt chiến lược lâu dài vẫn là giải quyết nguồn lao động tại chỗ, khôi phục lại các ngành nghề truyền thống, xây mới các xưởng tiểu thủ công nghiệp nhưng ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, như thế lao động tại địa phương sẽ được gải quyết ngay không bị ứ đọng. Nguồn lao động trình độ thấp vẫn là phổ biến, cần phải được đào tạo lại. Hiện nay nước ta đã có đầy đủ hệ thống giáo dục từ mầm non cho tới các trường đại học chuyên nghiệp, đào tạo các cán bộ, kĩ sư, cử nhân kinh tế phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nựớc. Người lao động được sắp xếp làm những công việc phù hợp với khả năng chuyên môn, giảm tải tối thiểu lao động chân tay thay vào đó là lao đông sử dụng máy móc tiên tiến. Người lao động hiện nay đã được quan tâm ưu đãi hơn so với trước rất nhiều, quyền lợi của họ được đảm bảo,chất lượng cuộc sống của nhân dân nâng cao hơn so với trước rất nhiều.
Một nền kinh tế phát triển đòi hỏi phải có bộ máy Nhà nước được tổ chức một cách gọn nhẹ nhưng chất lượng phải tốt, hiệu lực chỉ đạo mạnh, nhất là bộ máy công an, thuế vụ, hải quan, tòa án- những công cụ thi hành luật chủ yếu của nhà nước. Việc cải tổ cơ bản bộ máy Nhà nước tháng 5/1992 đã tạo điều kiện và đặt ra những yêu cầu mới cho việc nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Tuy nhiên trong thực tiễn công việc này tiến hành chậm còn nhiều lúng túng và những vướng mắc cụ thể là:
- Bộ máy Nhà nước vẫn chưa hợp lý, nhiều cơ quan chưa rõ chức năng nhiệm vụ, có người mới đẻ ra việc, nhiều người đứng đầu các cơ quan Nhà nước vẫn chưa phải là tiêu biểu đại diện cho tri tụệ của cơ quan ngành đó
- Chức năng nhiêm vụ và cách tổ chức bộ máy chính quyền ở các cấp vẫn chưa được phân định rõ ràng, còn gây nhiều nỗi băn khoan trong cán bộ và nhân dân.
- Luật viên chức Nhà nước vẫn chưa có, các chức danh trong bộ máy quản lý chưa rõ, chính vì vậy việc bố trí người còn rất tùy tiện, người được đào tạo người có tài năng không được trọng dụng, trong khi đó người không có khả năng lại được đưa lên những vị trí quan trọng. Nhiều người lợi dụng có chức có quyền đưa con em của mình vào cơ quan làm việc trong khi không có trình độ, chính điều đó đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền kinh tế. Đây đang là một trong những vấn đề bức xúc, tiêu cực trong xã hội , Nhà nước cần có những biện pháp hữu hiệu khắc phục tình trạng này.
- Việc đãi ngộ cho đội ngũ viên chức chưa xứng đáng, lương nhà nước còn rất thấp không đủ nuôi sống cho bản thân và gia đình họ cho nên mới dẫn đến tình trạng tham ô, tham nhũng, hối lộ tràn lan và đã trở thành quốc nạn. Nhà nước trong những năm gần đây rất chú trọng quan tâm đến vấn đề này, đã thực hiện rất nhiều chính sách nhằm nâng cao mức sống của người lao động: tăng lương, giảm giờ làm, có chính hỗ trợ vốn, phát triển nhiều loại hình vui chơi giải trí mặc dù thu nhập tăng nhưng chi phí tiêu dùng cũng tăng nên đời sống nhân dân cải thiện chậm, điều này thấy rõ rệt ở các vùng nông thôn kém phát triển, nhiều nơi chưa có điện kéo về thôn xóm, nhiều loại hình giải trí còn chưa có. Qua đó đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách phát triển cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế đặc biệt là vùng nông thôn.
Những thiếu sót trên đã làm cho công việc quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế kém hiệu lực và hiệu quả thấp.
Trong nền kinh tế thị trường việc quản lý của Nhà nước được tiến hành thông qua các chính sách như chính sách thuế, giá cả, tiền tệ và tín dụng, lãi suất, tỉ giá hối đoái…Với cương vị là nhân tố quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng thì mọi hoạt động của Nhà nước đều có ảnh hưởng đến các quá trình kinh tế. Vậy đòi hỏi Nhà nước phải có những bước đi đúng đắn tác động một cách mạnh mẽ đến nền kinh tế thị trường. Trong những năm qua Nhà nước ta cũng đã đề ra được nhiều chính sách khuyến khích sản xuất hàng hóa phát triển. Tuy nhiên, chúng ta còn thiếu một lộ trình tổng quát để chỉ đạo quá trình đổi mới bộ máy Nhà nước, đổi mới phương thức sử dụng các công cụ quản lý cho phù hợp với cơ chế mới. Chính vì vậy để thúc đẩy nhanh việc cơ cấu lại nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường Nhà nước cần phải xác đinh lại vai trò của mình, đổi mới và hoàn thiện hệ thống công cụ quản lý kinh tế .Đó chỉ là một trong những nội dung cơ bản đảm bảo cho sự thành công của đổi mới.
3. Những việc cần làm để Nhà nước tăng cường quản lý nền kinh tế vĩ mô.
Quản lý nền kinh tế quốc dân là sử dụng hàng loạt các công cụ chính sách kinh tế, pháp chế kinh tế , nhằm can thiệp, điều tiết các quá trình kinh tế để đạt được mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế. Trên cơ sở những kinh nghiệm đã được tổng kết trong nước và quốc tế, Nhà nước ta đã xác định những việc cần làm để tăng cường quản lý kinh tế vĩ mô. Cụ thể là:
- Nhà nước phải xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nước ta theo các mục tiêu mong muốn. Trong nền kinh tế của chúng ta hiện nay các doanh nghiệp có quyền tự do lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh, Nhà nước không can thiệp vào quyết định của họ về sản xuất cái gì? bằng cách nào? tiêu thụ ở đâu? Trong khi lựa chọn các phương án sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp lấy lợi nhuận của mình làm thước đo hiệu quả, đồng thời làm mục tiêu định hướng cho hành vi của họ. Trong nền kinh tế của ta hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau và cạnh tranh có thế dẫn đến sự triệt tiêu các nguồn lực kinh tế làm cho môi trường kinh doanh bị phá hủy và nền kinh tế không thể phát triển. Khác với các doanh nghiệp vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước là ở chỗ, Nhà nước theo đuổi mục tiêu chung của dân tộc là làm cho dân giàu nước mạnh, nền kinh tế tăng trưởng một cách ổn định, vững chắc đảm bảo hiệu quả và công bằng xã hội. Bằng việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế, Nhà nước quản lý và can thiệp vào các doanh nghiệp với mục tiêu làm giàu cho đất nước. Nhà nước cần phải có:
+ Chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn. Vai trò định hướng nền kinh tế của Nhà nước thể hiện ở chỗ chính Nhà nước là người hoạt định các chương trình phát triển kinh tế xã hội mà mỗi chương trình là mỗi cơ hội đầu tư mở rộng phát triển sản xuất cho các doanh nghiệp. Như vậy băng việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế Nhà nước dẫn dắt các doanh nghiệp chỉ cho họ thấy chỗ nào là có thể và cần phải đầu tư vào nơi nào là có lợi cho mình, cho đất nước. Bằng việc hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội Nhà nước có thể thực hiện được ý đồ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, theo vùng lãnh thổ khai thác sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đưa thị trường trong nước hòa nhập vào thị trường thế giới làm cho kinh tế tăng trưởng ổn định vững chắc.
+ Kế hoạch hóa định hướng. Kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế xã hội do Nhà nước đề ra. Tuy nhiên nội dung kế hoạch và phương thức kế hoạch hóa của Nhà nước trong mô hình kinh tế mới phải đổi mới theo phướng hướng sau: kế hoạch hóa mang tính định hướng; kế hoạch hóa không phải là chỉ là giao chỉ tiêu thực hiện mà còn là điều phối sự thực hiện theo dự án.
+ Tạo môi trường thuận lợi cho nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần phát triển. Lịch sử cho thấy quá trình hình thành nền kinh tế thị trường của các nước phát triển là rất lâu dài. Ngày nay khi kinh nghiệm lịch sử của các nước đã trở thành lý luận các nước đi sau có thể rút ngắn chặng đường phát triển của mình chỉ bằng cách: Nhà nước chủ động sử dụng kiến trúc thượng tầng- quyền lực Nhà nước để tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư mở rộng phát triển sản xuất. Để hoàn thành vai trò đó ở nước ta, nhà nước cần phải:
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự do hóa giá cả, thương mại hóa nền kinh tế.
+ Quy định và bảo đảm các quyền của người chủ sở hữu về tư liệu sản xuất.
+ Đa dạng hóa chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất.
+ Xây dựng hệ thống pháp luật của nền kinh tế thị trường.
+ ổn định về chính trị và xã hội.
- Phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, hiệu quả tạo ra động lực sản xuất.Trong nền kinh tế thị trường, thị trường càng được mở rộng sự hoạt động của các quy luật càng dẫn sự phân hóa thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, chia lẻ dân cư thành các tầng lớp khác nhau trong quan hệ của họ đối với quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị. Tình trạng bất bình đẳng khi vượt quá khuôn khổ cho phép sẽ dẫn đến dự phản ứng của dân cư trong lĩnh vực chính trị xã hội, mâu thuẫn gay gắt về lợi ích giữa các giai cấp có thể dẫn đến sự đe dọa ổn định về mặt chính trị, tạo môi trường xã hội lành mạnh cho các doanh nghiệp làm ăn. Nhà nước phải hoàn thành chức năng phân phối lại thu nhập của các tầng lớp dân cư sao cho thỏa mãn yêu cầu công bằng và hiệu quả. Để giải quyết tình trạng bất bình đẳng trong thu nhập cần thiết phải xây dựng lại hệ thống thuế để điều tiết một phần thu nhập của lớp người giàu có. Đồng thời cần giúp đỡ nững người nghèo có cơ hội trở thành người giàu có. Nhà nước cần giúp đỡ họ tạo công ăn việc làm, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, trình độ nghiệp vụ, cho vay vốn ban đầu với chế độ ưu đãi thích đáng. Đồng thời cần phải hình thành các quĩ trợ cấp bảo hiểm từ nguồn vốn ngân sách và từ nguồn vốn huy động của dân để giúp đỡ cho những người tạm thời thất nghiệp, những người già yếu…
- Can thiệp vào quá trình kinh tế khi cần thiết. Định hướng, tạo môi trường, phân phối lại thu nhập là những công việc cần thiết thể hiện vai trò của Nhà nước trong một chiến lược dài hạn. trong quá trình thực hiện các chiến lược đó, dưới ảnh hưởng của cơ chế cung cầu giá cả trong thị trường nội địa, đồng thời ảnh hưởng của quan hệ kinh tế quốc tế, chính vì vậy trong quá trình thực hiện mục tiêu định hướng của chương trình dài hạn có những cú sốc làm mục tiêu chệch hướng là điều không tránh khỏi. Trong trường hợp đó Nhà nước cần phải sử dụng những công cụ như: lãi suất, thuế, khối lượng tiền tệ lưu thông, và chi tiêu ngân sách để làm giảm những chấn động do cú sốc gây ra đưa nền kinh tế đi theo định hướng.
- Quản lý tài sản quốc gia, phân bổ các nguồn lực một c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32373.doc