Tiểu luận Vai trò của quần chúng với các sự kiện chính trị của đất nước

Quần chúng nhân dân là nhóm xã hội không có những đặc điểm chung về nhân khẩu, thành phần, xuất thân nhưng họ lại có đời sống tâm lý chung. Đặc điểm của nhóm này là sự lây lan tâm lý rất nhanh và hiệu quả thông qua những kênh không chính thức. Nước ta có 54 dân tộc anh em ở khắp mọi miền đất nước với những đặc trưng riêng biệt nhưng khi nghe lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì khối đại đoàn kết dân tộc ấy chứng tỏ ngay sức mạnh của mình. Đó là bởi những sự kiện chính trị này hợp với những mong muốn, với suy nghĩ của quần chúng nhân dân. Trong suốt hai cuộc kháng chiến, bao nhiêu con người Việt Nam đã không ngại hy sinh hạnh phúc cá nhân để vì mục đích đem lại độc lập, tự do cho đất nước. Phải chăng trước những sự biến lớn lao, con người có thể quên đi bản thân mình để hoà vào cái chung - dân tộc.

 

 

doc11 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5358 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vai trò của quần chúng với các sự kiện chính trị của đất nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG VỚI CÁC SỰ KIỆN CHÍNH TRỊ CỦA ĐẤT NƯỚC 1. Vài nét về sự kiện chính trị: Chính trị là một lĩnh vực thuộc hệ thống kiến trúc thượng tầng và nằm trong mối liên hệ qua lại với các lĩnh vực khác thuộc kiến trúc thượng tầng cũng như cơ sở hạ tầng của xã hội. Mỗi một quốc gia, một đảng phái đều có những đường lối, quan điểm chính trị riêng của mình để rồi từ đó xây dựng nên Nhà nước - công cụ quản lý xã hội. Chính trị cũng có đời sống riêng của mình phụ thuộc vào những biến đổi của thời đại gắn liền với các quá trình chính trị, sự kiện chính trị. Qua đó có thể tìm hiểu được thái độ chính trị của mỗi con người, mỗi nhóm người trong xã hội. Sự kiện chính trị là một loại sự kiện xã hội có khả năng gây áp lực lên cá nhân, các thành viên của xã hội. Chúng xuất hiện do những biến động của đời sống xã hội và đồng thời sự xuất hiện của chúng cũng tạo nên những ảnh hưởng. Sự kiện chính trị không hình thành một cách ngẫu nhiên mà luôn luôn xuất phát từ những mâu thuẫn nội tại hoặc do điều kiện khách quan tác động tới một quốc gia. Các nhà xã hội học thường chia sự kiện chính trị thành ba loại, căn cứ vào ba cấp độ tác động khác nhau: sự kiện chính trị chức năng, sự kiện chính trị có tầm lịch sử và sự kiện chính trị có tầm xã hội học. Sự kiện chính trị chức năng là những sự kiện chính trị diễn ra trong đời sống xã hội bình thường, không làm thay đổi kết cấu quyền lực. Những sự kiện loại này thường diễn ra có tính chu kỳ, được các quy luật và thủ tục hành chính quy định trước, đồng thời không làm thay đổi bản chất của hệ thống chính trị mà trong đó, nó diễn ra. Cho dù mang tính chất thường xuyên và đơn giản nhất nhưng sự kiện chính trị theo chức năng cũng diễn ra không kém phần phức tạp, khó khăn ở thời điểm quyết định. Như trong các cuộc bầu cử, chính là thời điểm quan trọng để một đảng phái, một tập hợp chính trị xác định vị thế, vai trò của mình trong cơ cấu quyền lực nói chung. Quần chúng khi đó giữ một vai trò quan trọng quyết định tới kết quả của sự kiện chính trị này. Sự kiện chính trị có tầm lịch sử là những sự kiện diễn ra ngoài phạm vi hoạt động bình thường của xã hội. Tuy có làm thay đổi đáng kể cấu trúc quyền lực nhưng bản chất chính trị của hệ thống cấu trúc ấy vẫn được giữ vững. Sau những biến cố chính trị lịch sử này, vai trò vị thế của nhiều tập hợp chính trị nhất là các đảng phái, tổ chức chính trị được sắp xếp lại. Ví dụ như các cuộc đảo chính ở các nước tư bản chủ nghĩa để lật đổ nhóm, tập đoàn tư bản này nhưng lại ủng hộ nhóm, tập đoàn tư bản khác hay những cuộc cải cách kinh tế, chính trị sâu rộng. Sự kiện chính trị có tầm xã hội học là những sự kiện đánh dấu sự tiến hoá, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ, thay đổi hẳn tính chất, cơ cấu quyền lực chính trị của một xã hội. Đó là sự phế bỏ quyền thống trị của tập hợp chính trị này và trao nó cho tập hợp chính trị khác với sự thay đổi cơ bản về chất. Điển hình là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã loại bỏ sự thống trị của Nhà nước thực dân phong kiến đô hộ của thực dân Pháp, xây dựng nên Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam. Trên thực tế, sự phân chia các sự kiện chính trị này chỉ có tính chất tương đối. Đôi khi một sự kiện ở góc độ này mang tầm lịch sử nhưng ở góc độ khác lại có tầm nhìn xã hội học. Từ những vấn đề lý thuyết trên có thể thấy sự kiện chính trị là một hiện tượng rất thường gặp trong đời sống chính trị của một quốc gia. Đặc biệt là với nước ta, một nước đã trải qua rất nhiều những biến động của lịch sử. Có những sự kiện chính trị đã làm thay đổi cả vận mệnh dân tộc như cách mạng tháng 8 năm 1945, chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và thắng lợi rực rỡ của cuộc tấn công ngày 30 tháng 4 năm 1975 đem lại thống nhất độc lập quốc gia. Trong thời kỳ xây dựng đất nước, sự kiện chính trị có dấu ấn mạnh mẽ nhất, tạo sức bật cho sự phát triển đất nước chính là sự đổi mới của chính sách kinh tế, chính trị xoá bỏ thời kỳ bao cấp, mạnh dạn bước vào xây dựng kinh tế thị trường. Sự thành công của các sự kiện chính trị trên không chỉ nhờ vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, của Nhà nước mà còn nhờ một lực lượng đông đảo về số lượng, ngày càng tiến bộ về chất lượng - đó chính là quần chúng nhân dân. 2. Vai trò của quần chúng nhân dân với các sự kiện chính trị của đất nước: Chủ thể của đời sống xã hội với mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá ... chính là người dân của quốc gia. Từ tập hợp quần chúng đó, các cá nhân xuất sắc với năng lực quản lý sáng suốt, tầm nhìn chiến lược sẽ trở thành những người lãnh đạo của các tổ chức chính trị tập hợp những nhóm xã hội theo chính kiến và đường lối của mình. Các tập hợp chính trị trong quá trình phát triển, đấu tranh sẽ tạo nên các sự kiện chính trị. Bất kỳ một chế độ chính trị hay một quốc gia nào muốn tồn tại vững bền đều phải tạo được lòng tin và phát huy sức mạnh của nhân dân. Bởi đây là lực lượng đông đảo và có tiếng nói quyết định đối với mọi sự thay đổi của xã hội. Lịch sử thế giới đã có chứng kiến bao nhiêu biến động với những cuộc cách mạng mà khởi nguồn là từ quần chúng nhân dân. Biết dựa vào nhân dân để hành động, đó chính là sách lược cơ bản mà bất kỳ một thể chế chính trị nào cũng có thể vận dụng nếu muốn thành công trong sự nghiệp của mình. Ở nước ta, ngay từ trong lịch sử, các nhà lãnh đạo đã biết vận dụng thế trận lòng dân để dẫn dắt dân tộc Việt Nam đấu tranh dựng nước và giữ nước. Hưng Đạo Vương Trần Hưng Đạo - vị tướng lỗi lạc đã từng nói " Thời bình phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước". Thấu hiểu những mong muốn, tâm tư của người dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên tất cả, đó chính là đường lối chính trị đơn giản mà hiệu quả. Đó là lý do, là động lực để người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn tới những học sinh chỉ quen việc đèn sách, từ người lính ở chiến trường tới bà mẹ già gắn bó với quê hương sẵn sàng đứng lên cầm súng, cầm cuốc...để chống lại kẻ thù xâm lược. Và cũng chính những người dân ấy với đôi bàn tay đầy vết xước, với những nồi đau mất mát còn chưa thể quên bắt đầu xây lại ngôi nhà, xây dựng lại đất nước sau sự tàn phá của chiến tranh. Phải chăng những người dân bình thường ấy không phải là nền tảng, là nguồn gốc tạo nên sức mạnh dân tộc chiến thắng mọi hung tàn, cường bạo, tạo lập một cuộc sống hoà bình, hạnh phúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo tài ba đã tiếp thu di sản đường lối chính trị nhân dân của những người đi trước, tìm tòi và đúc kết thành kim chỉ nam cho sự nghiệp lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Bác đã từng nói:"Dân bao giờ cũng là gốc của nước. Vì nước bao giờ cũng là của mọi người dân. Còn cách mạng thì như con thuyền mà dân trao cho Đảng làm người cầm lái. Con thuyền cách mạng đi tới đích thắng lợi là nhờ sức dân. Chính những ý kiến, nguyện vọng, sáng kiến của dân là nguồn gốc hình thành đường lối cách mạng, đường lối đổi mới của Đảng. Cũng chính phong trào cách mạng của dân là yếu tố quan trọng nhất biến đường lối đó thành hiện thực, tạo ra những thành tựu to lớn". Và quan điểm "lấy dân làm gốc" đã trở thành cương lĩnh hành động của Đảng quyết định mọi thành công của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong thời đại mới. Ở nước ta, thắng lợi của sự nghiệp cách mạng giải phóng và xây dựng đất nước ghi dấu đậm nét vai trò của quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng sáng suốt của dân tộc ta đã luôn luôn quan niệm dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết "Trong bầu trời này không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới này không có gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân". Dân là gốc của nước, "bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân...quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". (1)Điều này được thể hiện trung thành trong các quan điểm của Đảng và Nhà nước như "Lấy dân làm gốc", "Xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân". Đó là bởi quần chúng nhân dân là lực lượng có sức mạnh to lớn có thể làm thay đổi cục diện chính trị xã hội của đất nước. Vai trò của quần chúng nhân dân với các sự kiện chính trị được thể hiện trên các khía cạnh sau: 2.1 Quần chúng nhân dân là tác nhân hình thành nên các sự kiện chính trị: Các sự kiện chính trị là kết quả tất yếu của quá trình vận động xã hội. Bởi theo quan điểm biện chứng, mọi sự vật luôn vận động và biến đổi với quy luật sự vật trong thời điểm này là phủ định của chính nó ở thời điểm trước. Đời sống chính trị của mỗi quốc gia nằm trong tổng hoà của sự vận hành các lĩnh vực xã hội khác. Do vậy chỉ cần một biến động nhỏ cũng có thể dẫn tới sự thay đổi trong đường lối, chính sách chính trị. Quần chúng là nền tảng xã hội với những đặc điểm riêng về tư tưởng, nhu cầu và mong muốn. Và không nằm ngoài quan điểm biện chứng, quần chúng nhân dân cũng luôn vận động và thay đổi về lượng và chất cùng với sự phát triển xã hội. Nếu những điều kiện khách quan không phù hợp với những mong muốn và nhu cầu của quần chúng nhân dân, nhóm xã hội này sẽ có những phản ứng để tạo sự thay đổi. Dưới góc độ chính trị, nhóm xã hội này tập hợp lại theo từng nhóm có quan điểm và đường lối hành động riêng. Đất nước ta đã trải qua rất nhiều sự kiện chính trị mà xuất phát điểm chính là quần chúng nhân dân. Những cuộc đấu tranh chống lại quân xâm lược trong lịch sử đều xuất phát từ sự tập hợp của những người dân cùng chí hướng, yêu nước nồng nàn, không cam chịu cuộc đời nô lệ. Sự phát triển của thực tại khách quan cộng với những mong muốn chủ quan của quần chúng nhân dân đã tạo nên những "điểm nút" để từ đó giải quyết những mâu thuẫn và khó khăn. Không phải ngẫu nhiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên rằng người chở thuyền cũng là dân và người lật thuyền cũng là dân trong khi xác định cương lĩnh hành động của Đảng và Nhà nước. Chính trị là một lĩnh vực nhiều biến động, sự thay đổi các thể chế chính trị với sự nắm quyền lực của các tập hợp chính trị khác nhau ảnh hưởng đến cuộc sống của đông đảo người dân. Nếu thể chế chính trị hiện hành đem lại cho người dân sự bình yên và hạnh phúc thì họ sẽ ủng hộ hết mình. Ngược lại, những mâu thuẫn giữa người dân và chính quyền sẽ dần hình thành, lên đến đỉnh điểm, trở thành sự kiện chính trị. Động lực thúc đẩy các sự kiện chính trị xuất hiện chính là quần chúng nhân dân. Trong điều kiện nước ta hiện nay, những sự kiện chính trị mang tính thường nhật diễn ra thường xuyên và có liên quan tới nhiều lĩnh vực xã hội khác. Ví dụ như những cuộc gặp gỡ cấp cao giữa các nhà lãnh đạo Đảng với Nhà nước ta với lãnh đạo của các nước như tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ để từ đó đặt mối quan hệ hợp tác kinh tế, văn hoá, xã hội. Điều này xuất phát từ thực tại khách quan là xu hướng hội nhập xây dựng thế giới hoà bình, hợp tác, phát triển. Đồng thời nó cũng xuất phát từ nguyện vọng của người dân được tạo nhiều hơn các cơ hội phát triển, nâng cao chất lượng của cuộc sống. 2.2 Quần chúng nhân dân - động lực cho sự thành công của các sự kiện chính trị: Được tập hợp từ nhiều thành phần với trình độ học vấn, tôn giáo tín ngưỡng, mức sống...nhưng thống nhất một mục đích, một lý tưởng, quần chúng nhân dân có sức mạnh to lớn trong việc thúc đẩy sự vận hành của đời sống chính trị xã hội. Đồng thời đây cũng là tác nhân giúp cho những sự kiện chính trị thành công. Đó là bởi cho dù có những cá nhân xuất sắc với tầm nhìn chiến lược và nghệ thuật quản lý nhưng nếu thiếu vắng lực lượng thực thi thì cũng không thể có được kết quả như mong muốn. Tổng hợp của cả sức mạnh vật chất và tinh thần, quần chúng nhân dân trở thành hậu phương vững chắc cho một tập hợp chính trị. Quần chúng nhân dân là nhóm xã hội không có những đặc điểm chung về nhân khẩu, thành phần, xuất thân nhưng họ lại có đời sống tâm lý chung. Đặc điểm của nhóm này là sự lây lan tâm lý rất nhanh và hiệu quả thông qua những kênh không chính thức. Nước ta có 54 dân tộc anh em ở khắp mọi miền đất nước với những đặc trưng riêng biệt nhưng khi nghe lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì khối đại đoàn kết dân tộc ấy chứng tỏ ngay sức mạnh của mình. Đó là bởi những sự kiện chính trị này hợp với những mong muốn, với suy nghĩ của quần chúng nhân dân. Trong suốt hai cuộc kháng chiến, bao nhiêu con người Việt Nam đã không ngại hy sinh hạnh phúc cá nhân để vì mục đích đem lại độc lập, tự do cho đất nước. Phải chăng trước những sự biến lớn lao, con người có thể quên đi bản thân mình để hoà vào cái chung - dân tộc. Với sự sáng tạo và năng lực của mình, các cá nhân xã hội luôn tích cực tìm tòi những cái mới. Cuộc sống là quá trình phủ định của các sự kiện, hiện tượng. Đời sống chính trị xã hội quốc gia cũng vậy và nhờ đó mà không ngừng phát triển. Trước mỗi sự biến đổi của quốc gia, quần chúng nhân dân luôn nhanh chóng nắm bắt. Nếu đó là những nhân tố tích cực, chúng sẽ nhận được sự ủng hộ của đông đảo người dân. Ngược lại, chúng sẽ nhanh chóng bị phản đối và tiêu vong. Nhân dân Việt Nam đã có những thời kỳ phải chịu sự áp bức bóc lột nặng nề cả về vật chất cũng như hệ tư tưởng. Khi đó những quyền lợi ích cơ bản của người dân bị xâm phạm nghiêm trọng. Sống trên đất nước của mình nhưng lại bị coi là nô lệ, bị tước đoạt tự do. Bắt đầu bằng các hành vi chống đối và cao trào là những cuộc kháng chiến nổi dậy phá bỏ hệ tư tưởng lạc hậu xây dựng chế độ chính trị mới "của dân, do dân và vì dân". Nhận thức được sâu sắc tầm quan trọng của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước cũng như những quy luật biện chứng của quá trình phát triển lịch sử khách quan, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn đặt nhân dân vào tâm điểm khi xây dựng những chính sách, chủ trương, đường lối. Sự tin tưởng, ủng hộ của nhân dân Việt Nam là hành vi phục tùng tự giác bởi nó được dựa trên sự gắn bó mật thiết giữa dân và Đảng. Giữa Đảng và nhân dân có chung một mục đích, một lý tưởng - đó là xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam. Trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm, dân và Đảng là một khối sức mạnh vững chắc có cùng chung một mục đích đánh thắng những thế lực hung tàn, đem lại hoà bình, độc lập, tự do cho đất nước. Khi chiến tranh kết thúc, nhân dân sát cánh bên Đảng chung sức xây dựng lại Tổ quốc. Đây đó vẫn còn tồn tại những hiện tượng tiêu cực, những kẻ đi ngược lại lợi ích của dân, của Đảng, nhưng những gì trái với hiện thực khách quan, với cái tốt, cái tiến bộ thì sớm muộn cũng bị tiêu vong. Hành vi phục tùng của nhân dân Việt Nam với Đảng Cộng sản không xuất phát từ bất kỳ sự ép buộc bằng bạo lực nào. Lòng tin của dân với Đảng có nguồn gốc từ bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa, đó là chế độ xã hội đặt người dân vào trung tâm của sự phát triển. Đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc và xa hơn là đem lại nhiều hơn nữa quyền bình đẳng, dân chủ, văn minh là mục tiêu của Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong suốt hai cuộc kháng chiến cho tới sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước hiện nay, những mục tiêu này không thay đổi, thêm nữa ngày càng được bổ sung nhiều hơn. Sự quan tâm này được thể hiện rõ ràng trong các quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước như "lấy dân làm gốc" và quy chế dân chủ "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Người dân ở những vùng miền khác nhau, trình độ học vấn, tôn giáo, vị thế xã hội khác nhau cũng đều có quyền bình đẳng về chính trị, về pháp luật. Những công việc chính trị, xã hội của quốc gia đều được thông tin đến với người dân qua hệ thống phương tiện truyền thông đại chúng cũng như các cấp quản lý Nhà nước. Và cũng xuất phát từ những mong muốn phản hồi của người dân, Đảng và Nhà nước sẽ xây dựng những chính sách cho phù hợp. Trong những năm gần đây, việc truyền hình trực tiếp những phiên họp và chất vấn đại biểu Quốc hội chính là biểu hiện rõ rệt của quan điểm "lấy dân làm gốc". Thông qua đại biểu Quốc hội là đại diện cho một tập hợp quần chúng nhân dân phát biểu những ý kiến, những mong muốn của họ, Đảng và Nhà nước có thể hoạch định những đường lối, chính sách đi sát với nguyện vọng của người dân. Qua thời kỳ đấu tranh bảo vệ đất nước, con người Việt Nam bắt tay vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Điều này gắn với sự thay đổi tư duy và cách thức hành động. Hàng loạt các sự kiện chính trị nổi bật như Việt Nam tham gia khối ASEAN, kí kết các hiệp ước với Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã diễn ra. Không giữ mãi sự thù hận, căm ghét, dân tộc Việt Nam sẵn sàng đưa bàn tay thân thiện tới những đối tượng đã từng là nguyên nhân gây ra đau thương, mất mát. Công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước với những thành tựu như mức GDP tăng, đời sống của người dân được đảm bảo, thành công trên các lĩnh vực khoa học, văn hoá... chính là nhờ sự ủng hộ, tin tưởng, đồng lòng nhất trí của quần chúng nhân dân. Đó cũng là bởi quần chúng nhân dân không ngừng trau dồi tri thức kinh nghiệm để tăng cường sức mạnh của mình. Nhận thức được điều này, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng hiện đại hoá con người Việt Nam ngày càng sáng tạo, có trình độ để quần chúng nhân dân không chỉ là lực lượng thực thi mà còn là lực lượng làm chủ sự nghiệp xây dựng đất nước. 3. Kết luận: Sự kiện chính trị là một hiện tượng tất nhiên, là hệ quả của sự vận động phát triển của đời sống xã hội. Chúng chịu sự chi phối của những yếu tố khách quan cũng như ý chí chủ quan của con người. Nếu như yếu tố khách quan là những tác nhân bên ngoài thì ý chí chủ quan của con người chính là "ngòi nổ", tạo nên sự thành hay bại của sự kiện chính trị. Quần chúng nhân dân là một tập hợp đông đảo các cá nhân xã hội với sự đa dạng với trình độ học vấn, thành phần, mức sống...Tuy nhiên, khi có sự dẫn dắt, nhóm xã hội này sẽ trở thành lực lượng có sức mạnh làm biến đổi đời sống chính trị xã hội của một quốc gia. Biết tận dụng những ưu điểm, nắm được tâm lý của quần chúng nhân dân thì giai cấp cầm quyền sẽ ngày càng củng cố thêm địa vị của mình. Ngược lại, lực lượng này cũng có thể trở thành nguyên nhân gây ra sự sụp đổ của một chế độ chính trị, một tập hợp chính trị. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn nhận thức được vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Vấn đề là chúng ta phải không ngừng xây dựng nhóm xã hội này phát triển hơn về nhận thức chính trị, sức sáng tạo và trình độ tri thức để con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội gặp nhiều thuận lợi. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nghiên cứu xã hội học, PTS. Chung Á - PTS. Nguyễn Đình Tấn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. 2. "Tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân", Trương Quang Được, tạp chí Cộng sản số 4+5/ 2002 3. "Bác Hồ nói về quan hệ giữa Đảng và nhân dân", Trần Quang Nhiếp, tạp chí Cộng sản số 4+5/2002 4. "Phát huy dân chủ, tập trung trí tuệ tập thể để quyết định những công việc hệ trọng của đất nước", Nông Đức Mạnh, Tạp chí Cộng sản số 20/2002.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVai trò của quần chúng với các sự kiện chính trị của đất nước.doc