Tiểu luận Vai trò của quản lý

MỤC LỤC

 

LỜI NÓI ĐẦU.

NỘI DUNG.

I. Khái niệm và vai trò của quản lý.(Trang 3)

II. Tớnh khoa học của quản lý.(Trang 5)

III. Tổ chức.(Trang 6)

KẾT LUẬN.

TÀI LIỆU THAM KHẢO.

 

doc10 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 19950 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vai trò của quản lý, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xmục lục Lời nói đầu. nội dung. I. Khái niệm và vai trò của quản lý.(Trang 3) II. Tớnh khoa học của quản lý.(Trang 5) III. Tổ chức.(Trang 6) kết luận. tài liệu tham khảo. Giáo trình khoa học quản lý.(ĐH QLKD_HN) Giáo trình quản trị kinh doanh.(ĐH KTQD) lời nói đầu Trong thế giới ngày nay chắc không ai phủ nhận vai trò quan trọng và to lớn của quản lý nhằm bảo đảm sự tồn tại và hoạt động bình thường của đời sống kinh tế xã hội nói chung và với các doanh nghiệp nói riêng.Đối với sự phát triển của từng đơn vị hay cộng đồng và cao hơn nữa của cả một quốc gia,thì quản lý càng có vai trò quan trọng.Sự nhận thức của tuyệt đại đa số trong dân cư về vai trò của quản lý cho tới nay hầu hết đều thông qua cảm nhận về thực tế.Muốn nâng cao nhận thức về vai trò cua quản lý, một mặt cần nâng cao nhận thức thực tế,mặt khác cần nâng cao nhận thức lí luận.Có như vậy ta mới có thể nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về vai trò của quản lý,làm cơ sở để hiểu biết về quản lý,thực hành quản lý và nâng cao trình độ quản lý. Qua phân tích về những nguyên nhân thất bại trong hoạt động kinh doanh của cá nhân và doanh nghiệp,cũng như thất bại trong hoạt động của các tổ chức Kinh tế - Chính trị - Xã hội nhiều năm,chúng ta thấy được nguyên nhân cơ bản vẫn là do quản lý kém hoặc là thiếu kinh nghiệm trong quản lý.Một tờ tạp chí nổi tiếng , qua nghiên cứu các công ty kinh doanh của Mỹ trong nhiều năm đã phát hiện ra rằng các công ty luôn thành đạt chừng nào chúng được quản lý tốt.Ngân hàng châu Mỹ đã phát biểu , trong bản công bố “Báo cáo về kinh doanh nhỏ rằng:Theo kết quả phân tích cuối cùng, hơn 90% các thất bại trong kinh doanh là do thiếu năng lực và thiếu kinh nghiệm trong quản lý”. Về tầm quan trọng của quản lý,không đâu có thể thể hiện rõ hơn so với trường hợp của các nước đang phát triển.Qua báo cáo tổng quát về vấn đề này trong những năm gần đây của các chuyên gia về phát triển kinh tế,có thể thấy cung cấp tiền bạc hoặc kĩ thuật công nghệ không đem lại sự phát triển.Yếu tố hạn chế trong hầu hết mọi trường hợp chính là thiếu thốn về chất lượng và sức mạnh của các nhà quản lý. Trong khi nền văn minh của chúng ta được đặc trưng bởi những cải tiến có tính chất cách mạng trong khoa học vật lý,sinh học,điện tử,viễn thông,tin học,tự động hoá...thì các ngành khoa học xã hội bị tụt hậu rất xa.Tuy nhiên, nếu chúng ta không biết cách khai thác các nguồn nhân lực và phối hợp sự hoạt động của con người,thì sự phi hiệu quả và lãng phí trong khi áp dụng những phát minh kĩ thuật vẫn sẽ tiếp tục.Chúng ta chỉ cần nhìn vào sự lãng phí không thể tưởng tượng được về các nguồn nhân lực và vật lực,chúng ta sẽ thấy rằng các ngành khoa học xã hội còn cách quá xa với việc thực hiện chức năng hướng dẫn chính sách và hoạt động xã hội của bản thân chúng. Ngày nay,các doanh nghiệp phải hoạt động trong một môi trường cạnh tranh quyết liệt với những biến đổi nhanh chóng về khoa học công nghệ,xuất hiện những đạo luật mới,những chính sách quản lý thương mại mới và sự trung thành của khách hàng ngày càng giảm. Hoạt động sản xuất kinh doanh trong những điều kiện bất định như vậy đòi hỏi những người quản lý ở các doanh nghiệp phải hiểu biết về các vấn đề kinh tế và quản lý doanh nghiệp. nội dung I.Khái niệm và vai trò của quản lý. Khái niệm. Quản lý là quá trình thực hiện các tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý để phối hợp hoạt động của các cá nhân và tập thể nhằm đạt các mục tiêu đã đề ra của tổ chức. Quản lí là quá trình làm việc với người khác và thông qua người khác để thực hiện các mục tiêu của tổ chức trong môi trường luôn biến động. Ngay từ khi con người bắt đầu hình thành các nhóm người để thực hiện những mục tiêu mà họ không thể đạt được với tư cách cá nhân riêng lẻ,thì quản lý đã trở thành yếu tố cần thiết để đảm bảo phối hợp các hoạt động của các cá nhân. Ta biết rằng để tạo ra sản phẩm,đáp ứng nhu cầu của đời sống và phát triển kinh tế,nhất thiết phải tiến hành phân công lao động và hiệp tác sản xuất.Sự xuất hiện của quản lý như là kết quả tất nhiên của việc chuyển các quá trình lao động cá biệt,tản mạn,độc lập với nhau thành các quá trình lao động phải có sự phối hợp.Sản xuất và tiêu thụ mang tính tự cấp,tự túc do một cá nhân thực hiện không đòi hỏi quản lý.Ơ’ một trình độ cao hơn,khi sản xuất và kinh doanh mang tính xã hội rõ nét và ngày càng sâu rộng hơn,khi đó quản lý là điều không thể thiếu. Theo C.Mác, “Bất cứ lao động xã hội hay lao động chung nào mà tiến hành trên một quy mô khá lớn đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân.Sự chỉ đạo đó phải làm chức năng chung,tức là chức năng phát sinh từ sự khác nhau giữa sự vận động chung của cơ thể sản xuất với sự vận động cá nhân của những khí quan độc lập hợp thành cơ sở sản suất đó.Một nhạc sĩ độc tấu tự điều khiển lấy mình nhưng một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng. Do đó,quản lý là thuộc tính tự nhiên,tất yếu khách quan của mọi quá trình lao động xã hội,bất kể trong hình thái kinh tế xã hội nào,nếu không thực hiện các chức năng và nhiệm vụ quản lý, không thể thực hiện được các quá trình hợp tác lao động,sản xuất,không khai thác sử dụng được các yếu tố của lao động sản xuất có hiệu quả. Quản lý có khả năng sáng tạo to lớn.Điều đó có nghĩa là cùng với các điều kiện về con người và về vật chất kĩ thuật như nhau nhưng tổ chức quản lý có thể khai thác khác nhau,đem lại hiệu quả kinh tế khác nhau. Có thể nói quản lý tốt suy cho cùng là do biết sử dụng có hiệu quả những cái đã có để tạo nên những cái chưa có trong xã hội.Vì vậy quản lý chính là yếu tố quyết định nhất cho sự phát triển của một quốc gia và các tổ chức trong đó. Thực tế,có những nước rất khan hiếm về tài nguyên thiên nhiên,nhưng với những chính sách kinh tế và quản lý ,đã gặt hái được thành công lớn trong phát triển kinh tế như Nhật Bản,Đức,Hàn Quốc.Quản lý ngày nay đã trở thành yếu tố cơ bản hàng đầu của một nền sản xuất và kinh tế hiện đại. Đối với sản xuất và kinh tế hiện đại,quản lý có vai trò ngày càng tăng.Có những yếu tố sau đây làm tăng vai trò của quản lý đòi hỏi quản lý và thích ứng trong các nền sản xuất và kinh tế hiện đại,đó là : _Đặc điểm và quy mô sản xuất hiện đại đòi hỏi quản lý phải được nâng cao tương ứng với nền kinh tế. _Trình độ xã hội và các quan hệ xá hội ngày càng cao đòi hỏi quản lý phải thích hợp. _Ngoài các yếu tố nêu trên cần phải kể tới nhiều yếu tố khác về kinh tế và xã hội cũng đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với quản lý.Đó là sự phát triển dân số và nguồn lao động cả về quy mô và cơ cấu;Sự biến động của thị trường trong nước và quốc tế;Yêu cầu bảo vệ và năng cao chất lượng của môi trường sinh thái và môi trường trong xã hội trong phát triển. Với Việt nam mặc dù bị nhiều năm chiến tranh và mắc phải một số khuyết điểm trong quản lý kinh tế,từ đầu những năm 80 tới nay việt Nam đã đạt được những thành tịu đáng kể trong quá trình thực hiện đổi mới.Từ năm 1985,Việt Nam bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá, hướng tới những mục tiêu chiến lược tới năm 2020,nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu về kinh tế.Sự nghiệp to lớn và có ý nghĩa lịch sử đó đặt ra những yêu cầu rất cao đối với quản lý.Ngoài ra,với số dân đông và tốc độ tăng khá cao,mật độ dân trên diện tích đất đai nói chung và đất canh tác nói riêng là cao,tài nguyên thiên nhiên tương đối phong phú nhưng so với số dân thì không nhiều ...Tất cả các vấn đề đó đặt ra những thách thức khá gay gắt cho việc thực hiện các nhiệm vụ và mục tiêu phát triển.Điều đó cũng nói nên rằng để hoàn thành được sứ mệnh đặt ra,vai trò của công tác quản lý càng to lớn và nhiệm vụ của công tác quản lý càng nặng nề. II.Quản lý là khoa học. Một cách khái quát,có thể nói khoa học là tập hợp các tri thức được hệ thống hoá nhằm phản ánh một cách khách quan các sự vật và hiện tượng trong thiên nhiên,trong xã hội và con người,giải thích các mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng đó cùng với sự vận động của chúng,giải thích nguyên nhân hay nguồn gốc của các sự vận động đó và dự báo xu thế vận động và phát triển.Quản lý là một lĩnh vực hoạt động khoa học kinh tế xã hội phức tạp và có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội.Những công trình nghiên cứu ban đầu có tính khoa học về quản lý còn khá non trẻ so với nhiều ngành khác,mới chỉ có độ tuổi gần 100 năm nay.Điều này nói nên quản lý đã trở nên một đối tượng nghiên cứu khoa học đựơc quan tâm xem xét.Và chắc chắn sẽ còn tiếp tục được đẩy mạnh. Việc tiến hành các hoạt động quản lý trong thực tế , trong những điều kiện cụ thể được xem vừa là khoa học vừa là nghệ thuật.Trong bối cảch kinh tế xã hội của thế giới hiện đại ngày nay,công tác quản lý trên hầu hết các lĩnh vực không thể không vận dụng các nguyên tắc,phương pháp quản lý,đòi hỏi cán bộ quản lý phải có được một trình độ đào tạo nhất định. Trong khoa học và trong thực tế người ta thường đề cập đến chức năng của một cơ cấu hoặc bộ phận máy,của một thiết bị trong hệ thống thiết bị,chức năng của một doanh nghiệp và chức năng của một phòng ban trong doanh nghiệp.Một cách khái quát nhất,chúng ta có thể hiểu chức năng là tập hợp những hoạt động hay hành động cùng loại của một hệ thống hoặc một bộ phận trong hệ thống. Như vậy,khi nghiên cứu cơ cấu của bất kì hệ thống nào,chúng ta không thể không đề cập đến phân loại các chức năng của hệ thống đó.Nói cách khác, phân loại chức năng là điều kiện tiền đề để tạo ra một cơ cấu có hiệu quả của hệ thống.Việc phân loại các chức năng quản lý doanh nghiệp dựa vào những căn cứ sau: Căn cứ vào các lĩnh vực hoạt động quản lý: _Chức năng Marketing . _Chức năng hậu cần cho sản xuất. _Chức năng sản xuất. _Chức năng tài chính kế toán. _Chức năng tổ chức lao động tiền lương. _Chức năng hành chính bảo vệ. Căn cứ vào quá trình quản lý: _Chức năng kế hoạch hoá. _Chức năng tổ chức. _Chức năng lãnh đạo. _Chức năng kiểm tra. III.Tổ chức. Tổ chức có nghĩa là quá trình sắp xếp và bố trí các công việc , giao quyền hạn và phân phối các nguồn lực của tổ chức sao cho chúng đóng góp một cách tích cực và có hiệu quả vào mục tiêu chung của doanh nghiệp. Công tác tổ chức gồm có hai nội dung cơ bản: Tổ chức cơ cấu quản lý: tổ chức cơ cấu quản lý và tổ chức cơ cấu sản xuất kinh doanh. Tổ chức quá trình: Tổ chức quá trình quản lý và tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh. Tổ chức có nội dung rất rộng lớn liên quan đến công tác xây dựng một doanh nghiệp như xây dựng và tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp(có bao nhiêu cấp quản lý,tổ chức các phòng ban chức năng,phân công trách nhiệm và quyền hạn của phòng ban cũng như của mỗi cá nhân),xây dựng hệ thống sản xuất và kinh doanh(có những bộ phận sản xuất kinh doanh nào,phân công chức năng và nhiệm vụ của từng bộ phận). Tổ chức về cơ cấu bộ máy là việc phân chia hệ thống quản lý thành các bộ phận thành phần và xác định các mối quan hệ giữa chúng với nhau tức là chúng ta xác định chức năng,quyền hạn,nhiệm vụ của các bộ phận trong bộ máy và lựa chọn,bố trí cán bộ vào cương vị phụ trách các bộ phận đó. Tổ chức cơ cấu bộ máy gồm các nội dung: _Xác định những hoạt động cần thiết để đạt được các mục tiêu chung của tổ chức. _Nhóm gộp cá hoạt động này thành các phòng ban hoặc các bộ phận. _Giao cho một người quản lý một phòng ban hoặc một bộ phận. _Giao quyền hạn trách nhiệm để thực hiện các hoạt động. _Quy định các mối quan hệ theo chiều dọc và ngang bên trong tổ chức. Công tác tổ chức đòi hỏi đội ngũ cán bộ có đủ trình độ kinh nghiệm và những phẩm chất cần thiết để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Một trong những nhiệm vụ của các tôt chức là xác định biên chế.Xác định biên chế bao gồm việc bổ nhiệm và duy trì các chức vụ đã bổ nhiệm theo yêu cầu đặt ra bởi cơ cấu tổ chức,nó gắn liền với việc đặt ra những yêu cầu cần làm cho một công việc hoặc nghề nghiệp,và nó bao gồm cả việc tuyển chọn những người đảm nhận các chức vụ. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp là tổng hợp các bộ phận cấu thành nên bộ máy quản lý và mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận đó.Bộ máy quản lý doanh nghiệp được thiết lập ra không phải do mục đích tự thân mà để thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuát kinh doanh của doanh nghiệp.Khi xây dựng cơ cấu tơ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp,cần tính đến nhân tố ảnh hưởng sau: _Môi trường hoạt động sản xuất kinh doanh. _Mục đích,chức năng hoạt động của doanh nghiệp. _Quy mô của doanh nghiệp. _Các yếu tố về kĩ thuật công nghệ sản xuất. _Trình độ của người quản lý và trang thiết bị quản lý. _Một số yếu tố khác:các quy định của pháp luật,phạm vi hoạt động của doanh nghiệp,thị trường của doang nghiệp. Một số kiểu cơ cấu quản lý. Cơ cấu quản lý theo trực tuyến. Cơ cấu quản lý theo trực tuyến là một kiểu tổ chức bộ máy mà một cấp quản lý chỉ nhận mệnh lệnh từ một cấp trên trực tiếp.Hệ thống trực tuyến hình thành một đường thẳng rõ ràng về quyền ra lệnh và trách nhiệm từ lãnh đạo cấp cao đến cuối cùng.Cơ cấu kiểu này đòi hỏi người quản lý ở mỗi cấp phải có những hiểu biết tương đối toàn diện về các lĩnh vực. Hệ thống quản lý theo trực tuyến phù hợp với các doanh nghiệp vì một người quản lý cấp trên có thể hiểu rõ được những hoạt động của cấp dưới và ra những mệnh lệnh trực tiếp một cách đúng đắn cho cấp dưới không cần thông qua một cơ quan giúp việc theo chức năng nào. Cơ cấu quản lý theo chức năng. Trong cơ cấu tổ chức quản lý theo chức năng,các bộ phận quản lý cấp dưới nhận mệnh lệnh từ nhiều phòng ban chức năng khác nhau.Đôi khi các mệnh lệnh này có thể trái ngược nhau,gây khó khăn cho cấp thừa hành.Có thể phân chia các bộ phận theo chức năng cơ bản như: _Chức năng sản xuất. _Chức năng kĩ thuật. _Chức năng Marketing. _ Chức năng tài chính. _Chức năng nhân sự. Ưu điểm của cơ cấu tổ chức theo chức năng: _Phản ánh logic các chức năng. _Nhiệm vụ được phân định rõ ràng. _Tuân theo nguyên tắc chuyên môn hoá ngành nghề. _Phát huy được sức mạnh và khả năng của đội ngũ cán bộ theo từng chức năng. _Giảm chi phí và rút ngắn thời gian đào tạo. _Tạo ra các biện phấp kiểp tra chặt chẽ của cấp cao nhất. Nhược điểm của cơ cấu tổ chức theo chức năng: _Chỉ có cấp quản lý cao nhất có trách nhiệm về hiệu quả cuối cùng của toàn thể công ty. _Quá chuyên môn hoá và tạo ra cách nhìn quá hẹp với các cán bộ chủ chốt. _Hạn chế sự phát triển của người quản lý chung. _Gặp nhiều khó khăn khi cần có sự phối hợp giữa các chức năng. Cơ cấu tổ chức theo kiểu ma trận. Trong cơ cấu quản lý theo ma trận ,cấp quản ký cấp dưới vừa chịu sự quản lý theo chiều dọc từ trên xuống dưới,đồng thời chịu sự quản lý theo chiều ngang. Ưu điểm _Định hướng theo kết quả cuối cùng rõ ràng. _Phát huy được sức mạnh của các chuyên gia ở trong các lĩnh vực chuyên môn. _Xác định rõ quyền hạn trách nhiệm và lợi ích. Nhược điểm _Có sự mâu thuẫn về quyền hạn trong tổ chức. _Có nguy cơ không thống nhất về mệnh lệnh theo chiều dọc và chiều ngang. kết luận Qua nghiên cứu đề tài này ta thấy được một cách rõ nét về tầm quan trọng của quản lý và tính khoa học của nó trong hoạt động của các doanh nghiệp .Nó là một yếu tố quyết định sự thành bại trong kinh doanh vì khi hiểu rõ về bản chất và áp dụng nó một cách khoa học thì sẽ đạt được những hiệu quả trong kinh doanh. Trong quá trình nghiên cứu chắc chắn vẫn còn những thiếu xót,vì vậy mong có sự đóng góp ý kiến của các bạn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTluan Qly-10.DOC