MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
I. Một số lý luận về thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay 2
II. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay 3
2. Thành phần kinh tế nhà nước tất yếu phải giữ vai trò chủ đạo 3
III. Thực trạng 4
1. Tình hình 4
2. Nguyên nhân 5
IV. Những giải pháp để tăng cường vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước 7
13 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5913 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước, thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO. vậy làm thế nào để Việt Nam có thể hội nhập vào nền kinh tế thế giới với những cơ hội và thách tứhc mới? Các thành phần kinh tế nhà nước nói riêng đã thúc đẩy tiến trình hội nhập ra sao? Thành phần kinh tế nhà nước có vai trò như thế nào trong nền kinh tế hiện nay. Sau đây em xin làm rõ về đề tài này.
Bài tiểu luận của em gồm:
I. Cơ sở lý luận
II. Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước
III. Thực trạng và giải pháp
Đề tài:
Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay
I. MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Thành phần kinh tế nhà nước theo cách hiển hiện nay là thành phần kinh tế do nhà nước với tư cách là người đại diện cho toàn dân làm chủ sở hữu và tổ chức quản lý. Trong quá trình đổi mới Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiềuthành phần phát huy sức mạnh toàn dân, toàn dân tộc, phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN. Đó là chính sách nhất quán. Để thực hiện có hiệu quả chính sách đó, trung ương có tránh nhiệm xây dựng phương hướng nội dung, giải pháp cụ thể củat ừng thành phần kinh tế theo tinh thần nghị quyết của đại hội Đảng. Trung ương làm việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của thành phần kinh tế nhà nước là để góp phần bỏ đảm thành phần kinh tế nhà nước giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, một vấn đề rất lớn và cơ bản trong chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, chứ không hề coi nhẹ việc phát triển các thành phần kinh tế khác.
Thành phần kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các cơ sở nhà nước như đất đai, ngân sách lực lượng dự trữ kể cả một phần vốn của nhà nước đưa vào các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Nghĩa là hệ thống thành phần kinh tế nhà nước gồm 2 bộ phận cấu thành: Doanh nghiệp nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp (đất đai, ngân sách quốc gia, các quỹ quốc gia…).
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động đầu tư vốn, thành lập công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có 2 loại: loại hoạt động công ích, không vì mục tiêu lợi nhuận. Ngoài ra còn có loại nằm giữa hai loại trên như những tổ chức kinh tế đang quản lý bảo dưỡng cơ sở kinh tế hạ tầng (cầu, đường, sân bay, bến cảng…) loại này có xu hướng chuyển hóa từng phần sang 2 loại trên. Doanh nghiệp nhà nước phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vững vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướngvà điều tiết vĩ mô làm lực lượng lòng cốt góp phần chủ yếu để thành phần kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế.
II. VAI TRÒ CHỦ ĐẠO CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Vai trò
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát mà nước ta lựa chọn trong thời kì đổi mới nó vừa mang tính chất chung của kinh tế thị trường, vừa có những đặc thù được quyết định bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH. Đây là sự vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm trong nước và thế giới về phát triển kinh tế thị trường là sự kết tinh trí tuệ của toàn đảng trong quá trình lãnh đạo nhân dân, xây dựng đất nước Đảng ta xác định một cách nhất quán kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo.
2. Thành phần kinh tế nhà nước tất yếu phải giữ vai trò chủ đạo
- Thành phần kinh tế nhà nước dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, là chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hóa của lực lượng sản xuất ở đây, càn phải biết hình thức sở hữu và chủ sở hữu. Nhà nước đại diện cho toàn dân là chủ sở hữu công cộng của toàn dân.
- Thành phần kinh tế nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt, do đó có khả năng có điều kiện chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định.
- Thành phần kinh tế nhà nước là lực lượng bảo đảm cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế là lực lượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn, giúp đỡ là liên kết tạo điềukiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển.
- Thành phần kinh tế nhà nước có thể tác động đến các thành phần kinh tế khác không chỉ bằng công cụ và đòn bẩy kinh tế mà còn bằng con đường gián tiếp thông qua những thiết chế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng XHCN.
- Thành phần kinh tế nhà nước dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại, tiên tiến. Do đó, nó có nhịp độ phát triển nhanh chóng đóng góp phần lớn cho ngân sách nhà nước và tích cực để không ngừng tái sản xuất mở rộng.
- Thành phần kinh tế nhà nước là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm kinh tế đô thị mới, là lực lượng có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực có vị trí quan trọng sống còn nhưng ít ai giám đầu tư vì đòi hỏi vốn nhiều mà thời gian thu hồi vốn chậm.
III. THỰC TRẠNG
1. Tình hình
Đảng và nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Trong bối cảnh thế giới có những diễn biến phức tạp doanh nghiệp nhà nước đã vượt qua nhiều thử thách, đứng vững không ngừng phát triển, góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.
Doanh nghiệp nhà nước đã chi phối được các ngành, lĩnh vực then chốt sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế xã hội tăng thế và lực của đất nước. Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm trong nước, trong tổng thu ngân sách kim ngạch xuất khẩu và hợp tác đầu tư với nước ngoài là lực lượng quan trọng thực hiện các chính sách xã hội khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm nhiều sản phẩm công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng an ninh.
Doanh nghiệp nhà nước ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường; năng lực sản xuất tiếp tục tăng, cơ cấu ngày càng hợp lý hơn, trình độ và quản lý có nhiều tiến bộ hiệu quả và sức cạnh tranh từng bước được nâng lên, đời sống ngườild từng bước được cải thiện.
- Tuy nhiên Doanh nghiệp nhà nước cũng còn những mặt hạn chế yếu kém. Quy mô và các mối quan hệ quản lý của doanh nghiệp nhà nước có nhiều điểm chưa hợp lý. Doanh nghiệp nhà nước phát triển còn chồng chéo, trùng lặp về ngành nghề, sản phẩm. Nguồn vốn hạn chế nhưng lại đầu tư hình thành và phát triển nhiều doanh nghiệp nhà nước có quy mô quá nhỏ bé. Không đủ lực để tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đây là một sự lãng phí lớn trong đầu tư phát triển.
- Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu đã và đang là lực cản đối với quá trình nâng cao năng suất chất lượng và sức cạnh tranh các sản phẩm trên thương trường.
- Doanh nghiệp nhà nước cũng là một trong những "địa chỉ" của tệ lãng phí, tham nhũng, gây thất thoát tổn thất lớn.
- Nhiều bộ ngành, địa phương lại thành lập thêm doanh nghiệp nhà nước dù chưa đủ cơ sở và điều kiện phần lớn những doanh nghiệp mới được thành lập không được ngành mũi nhọn, then chốt, mà chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ, xây dựng sản xuất hàng tiêu dùng… là những lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác có nhiều lợi thế…
2. Nguyên nhân
Những hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước có nguyên nhân khách quan nhưng chủ yếu do nguyên nhân chủ quan và được đúc rút từ 4 nguyên nhân chính sau:
Hệ thống thể chế chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước chưa được cải thiện tiến kịp quá trình đổi ới theo cơ chế quản lý nền kinh tế thị trường.
Hệ thống thể chế, chính sách hiện nay vừa thểhiện lớn tư duy cũ, nặng cơ chế xem - cho, lạm phát, bảo trợ đến mức tối đa từ ngân sách nhà nước, từ các mệnh lệnh theo ý muốn chủ quan của cơ quan hành chính, quản lý cắp… để không chênh lệch hướng và mong muốn nó làm được vai trò then chốt, cạnh tranh thắng lợi trên thương trường. Do vậy, quyền tự chủ, tự quyết định của doanh nghiệp nhà nước trên thương trường bị tước bỏ; quyền tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về những quyết định quyết đoán cũng không còn… Điều đó, còn gây tâm lý ỷ lại nặng nề, dựa dẫm vào sự bảo trợ của nhà nước, vừa triệt tiêu động lực, vừa không khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao năng suất chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của mình.
- Hai là, tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp chưa hợp lý. Với bộ máy quản lý hiện nay, hệ thống doanh nghiệp nhà nước đã phải gánh chịu 2 gọng kìm bất cứ lúc nào cũng đến kiểm tra mà giúp đỡ thì ít,hạch sách thì nhiều. Một bên là bộ, ngành, cấp chủ quản của doanh nghiệp và một bên là các tổ chức thanh tra, kiểm tra thuộc bộ quản lý chuyên ngành với hệ thống ngành dọc từ trên xuống dưới. Tức là, tất cả cán bộ, ngành với hệ thống dọc, ngay đều có quyền thực hành chức năng của mình tại doanh nghiệp để hướng dẫn, chỉ đạo, giám sát thanh tra, kiểm tra trên thực tế, nhiều khi đó là sự nhũng nhiễu phiền hà và gây tổn thất cho doanh nghiệp, hiệu quả thấp và không rõ rệt.
- Đội ngũ cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước chưa được phát huy và thể hiện được năng lực, bản lĩnh cần phải có yêu cầu đối với giám đốc trong điều kiện mới không chỉ có năng lực, trình độ về nghiệp vụ kinh doanh mà cần phải có óc sáng tạo, tinh thần trách nhiệm, sự nhanh nhẹ trong việc thu nhập và xử lýthông tin, sáng suốt trong dự báo các tình huống trên thương trường với sự năng động, chủ động trong kinh doanh, có phẩm chất vững vàng trong quá trình đối mặt với tiền - hàng, coi tài sản quốc gia như của chính mình với ý thức "vì nhân dân phục vụ", làm giàu cho dân, cho nước, cho mình. Trách nhiệm không chỉ thuộc bản thân của từng giám đốc, mà lớn hơn, cao hơn thuộc về hệ thống tổ chức và cán bộ trong việc theo dõi đề bạt, bổ nhiệm giám đốc nói riêng và đội ngũ cán bộ chủ chót trong từng doanh nghiệp nói chung.
- Mô hình và cơ chế lãnh đạo của đảng trong doanh nghiệp nhà nước có nhiều bất cập, nên chưa phát huy được tínhtự chủ, tự chịu trách nhiệm của chủ trương doanh nghiệp, mặt khác doanh nghiệp nhà nước còn là cái "túi" chứa đựng nhiều loại lao động. Đây là nỗi khổ tâm của không ít giám đốc doanh nghiệp muốn cải tổ, cải cách. Đổi mới sắp xếp lại nhân sự trong doanh nghiệp.
Từ sự phân tích nhiều mặt như trên, càng cho thấy việc thua lỗ kém hiệu quả thậm chí là phá sản của 1 bộ phận doanh nghiệp nhà nước không phải do thuộc tính, bản chất của doanh nghiệp nhà nước mà chủ yếu do con người: từ khâu hoạch định thể chế, chính sách cơ chế tổ chức bộ máy quản lý cho đến việc quản trị, điều hành trong từng doanh nghiệp cũng như cả hệ thống.
IV. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CHỦ ĐẠO CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ NHÀ NƯỚC
Định hướng sắp xếp phát triển doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích
a. Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
- Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực độc quyền nhà nước, bao gồm vật liệu nổ hóa chất độc hại, chất phóng xạ, hệ thống truyền tải điện quốc gia, mạng trục thông tin quốc gia và quốc tế.
- Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc giữ 100% vốn đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực buôn bán, lương thực, buôn bán xăng dầu, sản xuất điện, khai thác các khoáng sản quan trọng… những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bảo đảm nhu cầu cần thiết và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc ở miền núi vùng sâu, vùng xa.
- Nhà nước giữ cổ phần đặc biệt trong một số trường hợp cần thiết như là chuyển các doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước giữ 100% vốn sng hình thức công ty TNHH 1 chủ sở hữu là nhà nước hoặc công ty cổ phần gồm các cổ đông là các doanh nghiệp nhà nước.
Căn cứ vào định hướng trên, chính phủ chỉ đạo giám sát phê duyệt phân loại cụ thể các doanh nghiệp nhà nước hiện có để triển khai thực iện vào từng thời kì xem xét điều chỉnh định hướng phân loại doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Doanh nghiệp thuộc các tổ chức của đảng thực hiện sắp xếp như đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị xã hội đăng kí hoạt động theo luật doanh nghiệp.
- Việc thành lập mới doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh chủ yếu sẽ thực hiện dưới hình thức công ty cổ phần. Chỉ thành lập với doanh nghiệp 100% vốn nhà nước đối với những ngành, lĩnh vực mà nhà nước cần giữ độc quyền hoặc các thành phần kinh tế khác không muốn hay không có khả năng tham gia.
b. Đối với các doanh nghiệp hoạt động công ích
- Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động công ích trong các lĩnh vực: in bạc và chứng chỉ có giá; điều hành hay bảo đảm hàng hải kiểm soát và phân phối vô tuyến điện…
- Nhà nước giữ 100% vốn hoặc cổ phần cho phối đối với những doanh nghiệp công ích đang hoạt động trong các lĩnh vực: kiểm định kĩ thuật, phương tiện giao thông, cơ giới lớn, xuất bản sách giáo khoa, sách báo chính trị…
Trong từng thời kỳ chính phủ xem xét điều chỉnh định hướng phân loại doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội
Đối với các doanh nghiệp hoạt động công ích hiện có, chính phủ căn cứ vào định ưhớng trên chỉ đạo rà soát phê duyệt phân loại cụ thể để triển khai thựchiện. Những doanh nghiệp công ích đang hoạt động không thuộc diện nêu trên sẽ sắp xếp lại. Việc thành lập mới doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích phải được xem xét chặt chẽ, đúng định hướng, có yêu cầu và có đủ điều kiện cần thiết.
Khuyến khích nhân dân và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế sản xuất những sản phẩm, dịch vụ công ích mà xã hội cần và pháp luật không cần.
Sửa chữa, bổ sung cơ chế chính sách
a. Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
Doanh nghiệp tự chủ quyết định kinh doanh theo quan hệ cung cầu trên thị trường phù hợp với mục tiêu thành lập và điều lệ hoạt động. Xóa bỏ bao cấp đối với các doanh nghiệp. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các ngành, vùng, các sản phẩm và dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển, không phân biệt thành phần kinh tế. Ban hành luật cạnh tranh để bảo vệ và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cạnh tranh, hợp tác bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật chung. Đối với doanh nghiệp hoạt động nhà nước trong lĩnh vực độc quyền cần có quy định kiểm soát và điều tiết lợi nhuận, cần tổ chức một số doanh nghiệp nhà nước cùng cạnh tranh bình đẳng.
Nhà nước ban hành tiêu chí đánh giá hiệu quả và cơ chế giám sát doanh nghiệp nhà nước.
Đổi mới chế độ kế toán, kiểm toán, chế độ báo cáo, thông tin, thực hiện công khai, hoạt động kinh doanh và tài chính doanh nghiệp.
- Về vốn: doanh nghiệp được tiếp cận và thu hút các nguồn vốn trên thị trường để phát triển kinh doanh, được chủ động xử lí các tài sản dư thừa, vật tư, hàng hoá ứ đọng.
Doanh nghiệp được tự chủ trong việc phân phối và trình lập các quỹ từ lợi nhuận để lại theo khung quy định chung. nhà nước có chính sách đối với những tài sản do doanh nghiệp đầu tư bằng vốn vay và đã trả hết nợ bằng nguồn khấu hao cơ bản và lợi nhuận do chính tài sản đó làm ra theo hướng thực hiện hài hòa các lợi ích, phù hợp với đặc điểm của từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể, khuyến khích doanh nhân tiếp tục tái đầu tư phát triển.
- Về đầu tư: tăng thêm quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp trong quyết định đầu tư trên cơ sở chiến lược, quyhoạch phát triển được thực hiện.
- Về đổi mới hiện đại hóa công nghệ: doanh nghiệp được áp dụng chế độ ưu đãi đối với người có đóng góp vào đổi mới công nghệ mang lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp, chi phí này được hạch toán vào giá sản phẩm. Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ.
- Về lao động tiền lương: doanh nghiệp quyết định việc tuyển chọn lao động và chịu trách nhiệm giải quyết đối với người lao động do mình tuyển dụng không có việc làm bằng các nguồn kinh phí của doanh nghiệp, được tự chủ trong việc trả tiền lương và tiền thưởng trên cơ sở năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Về cán bộ quản lý doanh nghiệp, doanh nghiệp chủ động lựa chọn và bố trí cán bộ quản lý theo hướng chủ yếu là thi tuyển, cơ quan nhà nước và tổ chức có thẩm quyền ra quyết định bổ nhiệm cán bộ chủ chốt, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cán bộ quản lý doanh nghiệp.
- Về thanh tra kiểm soát hàng năm doanh nghiệp phải được kiểm toán kết quả, kiểm toán là căn cứ pháp lý về tình hình tài chính doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước phải có chương trình thanh tra, kiểm tra định kì đối với các doanh nghiệp và thông báo trước cho doanh nghiệp. Cơ quan bảo vệ luật pháp chỉ kiểm tra, thanh tra khi doanh nghiệp đã có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
b. Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích
Căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ mà nhà nước quyết định quy mô tổ chức, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp công ích.
Chuyển từ cơ chế cấp vốn, giao nhiệm vụ sang cơ chế đặng hàng hoặc đấu thầu thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhà nước có chính sách ưu đãi đối với các sản phẩm và dịch vụ công ích, không phân biệt loại hình doanh nghiệp,thành phần kinh tế. Nhà nước cấp đủ vốn điềulệ cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động côngích. Thực hiện cơ chế quản lý lao động, tiền tlương và thu nhập trên cơ sở khối lượng, chất lượng sản phẩm, dịch vụ mà nhà nước giao hoặc đặt hàng.
Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Mục tiêu cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là nhằm tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu trong đó có đông đảo người lao động, dễ sd có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất kinh doanh, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho doanh nghiệp nhà nước, phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, hoặc cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp, đảm bảo hài hòa lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp và người lao động cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước không được biến thành tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước.
Đối tượng cổ phần hóa là những doanh nghiệp nhà nước hiện có mà nhà nước không cần giữ 100% vốn, không phụ thuộc vào thực trạng kết quả sản xuất kinh doanh. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ và định hướng sắp xếp, phát triển doanh nghiệp của nhà nước và điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp mà quyết định chuyển doanh nghiệp nhà nước hiện có thành công ty cổ phần trong đó nhà nước có cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt, cổ phần ở mức thấp, hoặc nhà nước không giữ cổ phần.
Hình thức cổ phần hóa bao gồm: giữ nguyên giá trị doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu dễ thuhút thêm vốn, bám vào phần hiện có hoặc doanh nghiệp, chuyển toàn bộ doanh nghiệp thành công ty cổ phần. Trường hợp cổ phần hóa đơn vị phụ thuộc hoặc của doanh nghiệp thì không được gây khó khăn hoặc làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh các bộ phận còn lại hoặc doanh nghiệp.
Nhà nước có chính sách giảm bớt tình trạng chênh lệch về cổ phần dưdợc ưu đãi cho người lao động tới các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa. Có quy định để người lao động giữ được cổ phần, ưu đãi trong một thời gian nhất định. Sửa đổi, bổ sung cơ chế ưu tiên bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp để gắn bó người lao động với doanh nghiệp; giành 1 tỷ lệ cổ phần thích hợp bán ra ngoài doanh nghiệp. Nghiên cứu sử dụng một phần vốn tự có của doanh nghiệp để hình thành cổ phần của người lao động, người lao động được hưởng lãi nhưng không được rút cổ phần này ra khỏi công ty.
Mở rộng việc bàn cổ phần của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông lâ sản cho người sản xuất và cung cấp nguyên liệu. Có chính sách khuyến khích doanh nghiệp cổ phần hóa sử dụng người lao động và có quy định cho phép chuyển nợ thành vonó góp cổ phần.
Sửa đổi phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo hướng gắn liền với thị trường; nghiên cứu đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp, những điểm đấu thầu, bán cổ phiếu và bán cổ phiếu qua các định chế tài chính trung gian.
Nhà đầu tư được mua cổ phanà lần đầu đối với doanh nghiệp cổ phần hóa mà nhà nước không giữ cổ phần theo đúng quy định của luật doanh nghiệp và luật khuyến khích đầu tư trong nước. Khuyến khích nhà đầu tư có tiềm năng về công nghệ thị trường, kinh nghiệm quản lý tiền vốn mua cổ phanà, số tiền thu được từ mua bán cổ phần dùng để thực hiện.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KTCT-65.docx