MỤC LỤC
Lời mở đầu
Phần nội dung
Phần I: Cơ sở lý thuyết
1.1 Khái niệm 3
1.2 Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ đại hội IX đến đại hội X 4
Phần II: Các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay
2.1 Kinh tế nhà nước 5
2.2 Kinh tế tập thể 6
2.3 Kinh tế tư nhân 6
2.4 Kinh tế tư bản nhà nước 7
2.5 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 7
Phần III: Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay
3.1 Tính tất yếu của vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước 8
3.2 Vai trò của kinh tế nhà nước 10
Phần IV: Thực trạng của kinh tế nhà nước hiện nay
4.1 Quy mô của các doanh nghiệp nhà nước 13
4.2 Hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước 13
4.3 Những thách thức với doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới 14
Phần V: Những giải pháp cải cách, đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước 15
Kết luận
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5539 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
guồn vốn, giải quyết việc làm và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội khác. Kinh tế tư bản tư nhân rất năng động, nhạy bén với kinh tế thị trường, do đó sẽ có những đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước, tuy nhiên, kinh tế tư bản tư nhân có tính tự phát rất cao.
2.4 Kinh tế tư bản nhà nước:
Kinh tế tư bản nhà nước dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp về vốn giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước dưới các hình thức hợp tác liên doanh. Kinh tế tư bản nhà nước có khả năng to lớn trong việc huy động vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý tiên tiến vì lợi ích của bản thân kinh tế tư bản tư nhân và phát triển kinh tế của đất nước. Thành phần kinh tế này có vai trò đáng kể trong giải quyết việc làm và tăng trưởng kinh tế. Sự tồn tại thành phần kinh tế này là rất cần thiết, cần phát triển mạnh mẽ nó trong thời kỳ quá độ ở nước ta.
2.5 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:
Nguồn gốc và bản chất của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FIE) ở Việt Nam hiện nay. Cơ sở lý luận về nguồn gốc ra đời của FIE là tập hợp các doanh nghiệp do luồng vốn đầu tư từ các đối tác kinh tế ngoài nước vào nền kinh tế nội địa hình thành nên. Bản chất của FIE là sự kéo dài đầu tư trong nước vượt biên giới quốc gia với mục đích thu lợi nhuận độc quyền cao. Đối với nước nhận đầu tư, khu vực FIE là một yếu tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng, phát triển và hoàn thiện cơ cấu kinh tế, tạo lập cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại cho phương thức sản xuất mới, đặc biệt trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của nước ta thông qua bổ sung nguồn vốn đầu tư, chuyển giao và phát triển công nghệ, nâng cao năng lực quản lý, tạo việc làm. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài góp phần rất lớn vào tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Phần III: Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay
Tính tất yếu của vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường luôn luôn tồn tại đồng thời nhiều thành phần kinh tế những nền kinh tế nhiều thành phần ở những nước có chế độ chính trị khác nhau lại mang những đặc điểm khác nhau rất căn bản. Nếu như trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thành phần kinh tế tư bản tư nhân giữ vai trò thống trị thì trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN như ở nước ta thì thành phần KTNN giữ vai trò chủ đạo và KTNN cùng với kinh tế tập thể được xây dựng và phát triển để ngày càng trở thành nền tảng vững chắc cho sự đi lên và phát triển của xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta sở dĩ thành phần KTNN giữ vai trò chủ đạo bởi vì những lý do chính sau:
Thứ nhất, chúng ta đều biết “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế ”. Nền chính trị của Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo với mục tiêu dưa nước ta tiến lên CNXH, thực hiện “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Thành phần KTNN của nước ta mà trước hết là các doanh nghiệp Nhà nước cũng phải phục vụ cho nhiệm vụ này.
Trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta do hạn chế của trình độ lực lượng sản xuất phát triển còn thấp, các quan hệ sở hữu còn tồn tại dưới nhiều hình thức, do đó nền kinh tế nước ta ở giai đoạn này là một nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Tuy vây, cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo. Bên cạnh những ưu điểm to lớn của nó mà không ai có thể phủ nhận thì nó cũng tồn tại những khuyết tật như: gây ra sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội, khủng hoảng kinh tế, các tệ nạn xã hội vv… điều đó đòi hỏi cơ chế thị trường phải có bàn tay quản lý, điều tiết của Nhà nước. Và công cụ hữu hiệu nhất mà thông qua nó nhà nước thể hiện vai trò điều tiết của mình đó là thành phân KTNN. Chỉ có KTNN mới có thể bảo đảm vững chắc định hướng XHCN, đảm bảo cho lợi ích của người lao động, khắc phục những tiêu cực, khuyết tật và hạn chế của cơ chế thị trường, phân phối lại thu nhập quốc dân một cách công bằng là động lực thúc đẩy phát triển và tăng trưởng kinh tế, gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công băng xã hội. Vai trò đó của KTNN đã được chứng minh qua thưc tiễn phát triển kinh tế và ổn định xã hội ở nước ta sau đổi mới đến nay:
Đầu những năm 1990 mặc dù gặp phải hoàn cảnh hết sức khó khăn, khắc nghiệt như: thể chế xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Mĩ thực hiện chính sách bao vây, cấm vận, khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực 1997 – 1998 tác động mạnh, thiên tai liên tiếp xảy ra việc chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN có những thời cơ và thuận lợi mới nhưng bao hàm cả những khó khăn thách thức. Song chúng ta vẫn đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng GDP năm 2000 tăng gấp 2 lần năm 1990, tình hình chính trị xã hội cơ bản ổn định, đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện, quốc phòng an ninh được tăng cường, sức mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn hơn nhiều so với 10 năm trước. Kết quả trên có được là do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, trong đó KTNN góp phần rất to lớn. Năm 2000 DNNN làm ra 39,5% GDP và đóng góp 39,2% tổng thu ngân sách, chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu DNNN là đối tác chủ yếu trong hợp tác đầu tư nước ngoài, chiếm 98% số dự án liên doanh với nước ngoài. DNNN có năng lực sản xuất kinh doanh lớn, cơ cấu ngày càng hoàn thiện và từng bước mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Các tổng công ty có quy mô lớn tuy chỉ chiếm 24,8% tổng số DNNN nhưng nắm giữ 65% tổng số vốn và 61% số lao động, trình độ công nghệ quả lý có nhiều tiến bộ. Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của DNNN được nâng lên, góp phần chủ yếu để KTNN thực hiện được vai trò chủ đạo, đảm bảo ổn định chính trị – xã hội. Đây cũng là lực lượng quan trọng thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và đảm bảo sản xuất dịch vụ thiết yếu cho an ninh quốc phòng. Có thể khẳng định KTNN nói chung và các DNNN nói riêng đã góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội. Đứng vững trước những tác động của khủng hoảng kinh tế quốc tế, khu vực. Tạo tiền đề cho thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN.
Thứ hai là KTNN luôn nắm giữ những vị trí then chốt, trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân do đó chỉ có KTNN mới có khả năng chi phối, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, đảm bảo được các mục tiêu phát triển KT-XH, thực hiện CNH-HĐH trong điều kiện thị trường vẫn chưa hoàn thiện, người dân có thu nhập thấp, tích luỹ không đủ tạo nguồn đầu tư cơ bản, kinh tế tư nhân còn nhỏ bé thì DNNN có vai trò huy động vốn đầu tư xây dựng những công trình lớn, hiện đại. Mặt khác với sự phát triển ngày càng cao của nền kinh tế đòi hỏi phải có một cơ sở hạ tầng tốt để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh và bền vững. Nhưng thường thì những ngành này đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm hoặc có lãi suất thấp như các ngành: giao thông vận tải, giáo dục, y tế, năng lượng vv…Để thực hiện được điều đó đòi hỏi Nhà nước phải đầu tư trực tiếp vào các lĩnh vực này nhằm củng cố thêm nội lực cho thành phần KTNN để đạt được các mục đích: dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển một cách toàn diện, vững chắc, chống khủng hoảng kinh tế, ngăn ngừa những đột biến xấu trong nền kinh tế. Ngoài ra DNNN là lực lượng vật chất chủ lực để nhà nước can thiệp, bình ổn thị trường, hạn chế ảnh hưởng xấu của ngành nghề độc quyền tự nhiên có tác hại lớn cho nền kinh tế.
Thứ ba, trong xu thế toàn cầu hoá hội nhập kinh tế quốc tế, chỉ có DNNN là những đơn vị tổ chức kinh tế lớn của quốc gia là có đủ khả năng hợp tác liên doanh với các công ty lớn quốc tế đồng thời làm đối trọng với họ trên thị trường trong nước và vươn ra thị trường quốc tế, góp phần quan trọng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ của đất nước.
Không chỉ riêng Việt Nam mà Trung Quốc cũng là nước chủ trương xây dựng CNXH thông qua phát triển nền kinh tế thị trường mà KTNN giữ vai trò chủ đạo, với tỉ trọng trên 70% của chế độ công hữu trong toàn bộ nền kinh tế song Trung Quốc vẫn giữ mức tăng trưởng kinh tế vào loại cao nhất thế giới, đạt khoảng trên dưới 10% liên tục trong nhiều năm và đang có dự báo cho rằng trong tương lai không xa Trung Quốc sẽ trở thành nền kinh tế số một thế giới, lớn hơn cả Mỹ về giá trị tuyệt đối. Ngay chính ở các nước tư bản, DNNN cũng còn có vai trò không nhỏ. Theo đánh giá của UNDP, DNNN trong các nước tư bản phát triển vẫn còn chiếm khoảng 10%.
Từ những lý do trên ta có thể khẳng định KTNN có vai trò chủ đạo và sự tồn tại của KTNN là một tất yếu khách quan và chỉ có phát huy vai trò chủ đạo của KTNN thì chúng ta mới có một nền kinh tế độc lập tự chủ. Bởi vì KTNN nắm giữ phần lớn tài sản của nền kinh tế cho nên tạo ra khối lượng hàng hoá dịch vụ công cộng lớn chi phối giá cả thị trường, dẫn đát giá cả thị trường bằng chính chất lượng, giá cả của sản phẩn dịch vụ do mình cung cấp. Thông qua đó Nhà nước có thể kiểm soát được thị trường, xây dựng nền kinh tế nước ta trở thành một nền kinh tế vững mạnh toàn diện luôn chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới và có sức cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế.
Vai trò của kinh tế nhà nước
Như chúng ta đã biết vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một tất yếu khách quan và trong thời kỳ quá độ hiên nay vai trò ấy lại được thể hiên sâu sắc và cấp thiết hơn bao giờ hết. Đại hội Đảng VIII đã khẳng định KTNN có 4 vai trò:
- Làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
- Mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
- Là lực lượng vật chất để thực hiện chức năng quản lý điều tiết vĩ mô.
- Tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới.
Với hình thức tổ chức đa dạng và phạm vi rộng khắp ở các lĩnh vực kinh tế trong nền kinh tế đất nước. Tính chất chủ đạo của KTNN thể hiện qua các nội dung chính sau đây:
Nội dung thứ nhất cũng là nội dung quan trọng nhất của KTNN đó là KTNN thực hiện chức năng điều tiết hệ thống kinh tế xã hội thông qua các công cụ xã hội khác nhau trong đó DNNN là công cụ thiết yếu.
Ở nước ta các DNNN được hình thành ở các lĩnh vực sản xuất – kinh doanh được coi là không hấp dẫn bởi khả năng sinh lời thấp. Chẳng hạn là khu vực sản xuất sản phẩm công cộng. Thực hiện chức năng điều tiết của DNNN theo hướng này tạo ra tính cân đối giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân. Với tư cách là công cụ điều tiết, việc hình thành và tồn tại của các DNNN trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh nào đó không cố định, luôn được nhà nước thực hiện theo phương châm: ở đâu, khi nào nền kinh tế kinh quốc dân dang cần mở rộng sản xuất kinh doanh một mặt hàng cụ thể nào đó mà các doanh nghiệp dân doanh hoặc không đủ sức kinh doanh hoặc chối từ thì ở đó và khi đó cần có sự có mặt của DNNN. Đến một lúc nào đó khi các doanh nghiệp dân doanh đã đủ sức đáp ứng nhu cầu thị trường, DNNN có thể rút khỏi thị trường đó nhường chỗ cho các doanh nghiệp dân doanh, quá trình đó diễn ra một cách liên tục, lặp đi lặp lại ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế hình thành vai trò điều tiết của DNNN.
Chức năng điều tiết của DNNN còn thể hiện ở việc điều tiết kinh tế trong phạm vi từng vùng. Ở từng vùng cũng diễn ra hiện tượng các doanh nghiệp dân doanh chỉ đổ xô vào kinh doanh các mặt hàng dễ sinh lợi nhuận nên dẫn đến những mất cân đối trong sản xuất kinh doanh của từng vùng. Chính DNNN cũng phải xuất hiện ở các ngành mà những vùng kinh tế của đất nước đang đòi hỏi nhằm điều tiết cung cầu ở các vùng đó. Chức năng điều tiết vùng của DNNN đặc biệt quan trọng đối với các vùng xa, vùng sâu và vùng nông thôn.
Nội dung thứ hai. Do KTNN nắm giữ phần lớn tài sản của nền kinh tế nên tạo ra giá trị hàng hoá và dịch vụ công cộng khả dĩ chi phối được giá cả thị trường, dẫn dắt giá cả thị trường bằng chính chất lượng và giá cả của sản phẩm và dịch vụ do mình cung cấp đồng thời tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có tác dụng thúc đẩy các ngành và các thành phần kinh tế khác phát triển.
Nội dung thứ ba. KTNN kiểm soát các hoạt động của thị trường vốn và thị trường tiền tệ để đảm bảo khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của nhà nước. Các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng là các công cụ chính yếu của nhà nước trong quản lý kinh tế vĩ mô.
Như vậy, thành phần KTNN thể hiện vai trò chủ đạo ở chỗ: chi phối các thành phần kinh tế khác, làm biến đổi các thành phần kinh tế khác theo đặc tính của mình (dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN) tạo cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế hàng hoá, chiếm giữ các ngành kinh tế then chốt và trọng yếu của xã hội, làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội. Đóng góp phần lớn vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của toàn xã hội. Do đó xác định nội dung chủ đạo của khu vực KTNN theo các tính chất nêu trên sẽ giúp chúng ta trong việc định hướng đúng việc sắp xếp lại các tổ chức kinh tế hiện có, định hướng cho hoạt động đầu tư của Ngân Hàng Nhà Nước và thiết lập các định chế yểm trợ phát triển chung
Phần IV: Thực trạng của kinh tế nhà nước hiện nay
Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục chủ trương củng cố và phát triển doanh nghiệp nhà nước ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Nhưng có ý kiến cho rằng, doanh nghiệp nhà nước không thích hợp với cơ chế thị trường, kém hiệu quả, trở thành gánh nặng cho nền kinh tế quốc dân, nên tư nhân hóa càng sớm càng tốt. Vì lý do đó, ở đây cần làm rõ sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước.
Một thực tế khách quan là, hiện nay doanh nghiệp nhà nước đang tồn tại ở hầu hết các nước trên thế giới, không chỉ ở các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà cả ở những nước tư bản chủ nghĩa.
Sự tồn tại doanh nghiệp nhà nước ở nước ta cũng như ở các nước có chế độ chính trị và trình độ phát triển khác nhau là do nhiều nguyên nhân trong đó những nguyên nhân chủ yếu là:
Do yêu cầu quản lý vĩ mô nền kinh tế
Yêu cầu này bắt nguồn từ sự phát triển lực lượng sản xuất với trình độ xã hội hóa ngày càng cao. Điều này đòi hỏi phải có sự điều tiết vĩ mô từ một trung tâm quyền lực nhà nước. Và để thực hiện sự điều tiết này, Nhà nước không chỉ sử dụng các công cụ pháp luật, kế hoạch, chính sách kinh tế các lực lượng vật chất mà còn phải hình thành doanh nghiệp nhà nước.
Do phải khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường
Bên cạnh mặt tích cực là có khả năng tự điều chỉnh ở mức độ nhất định về cung, cầu, về điều phối các yếu tố sản xuất, kích thích tiến bộ kỹ thuật, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế… đồng thời kinh tế thị trường mang trong nó những khuyết tật như tính tự phát, bất ổn định, vận động theo lợi nhuận thuần túy – nguyên nhân của những hiện tượng tiêu cực như làm hàng giả, lừa dối, trốn thuế và các hiện tượng "kinh tế ngầm" khác. Cũng vì mục tiêu lợi nhuận, các doanh nghiệp lao vào cạnh tranh, săn tìm lợi nhuận cao, nên ít quan tâm đến những ngành không có lợi nhuận hoặc lợi nhuận thấp, gây ra sự mất cân đối, khủng hoảng, thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo quá mức. Để giải quyết tình trạng này, một trong những biện pháp được áp dụng là hình thành các doanh nghiệp nhà nước. Ngoài nhiệm vụ kinh tế, chính trị, doanh nghiệp nhà nước còn mục tiêu xã hội, góp phần giải quyết sự mất cân đối giữa các ngành, các vùng kinh tế trong cả nước, giữa các tầng lớp dân cư, góp phần khắc phục khủng hoảng, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động…
Do phải chống độc quyền, làm giảm bớt quyền lực kinh tế của một số nhà tư bản hoặc tập đoàn tư bản ở mọi quy mô và mức độ trong đời sống kinh tế quốc gia.
Quá trình chuyển từ tự do cạnh tranh sang độc quyền đã tập trung tiềm lực kinh tế vào tay một số ít nhà tư bản, dẫn đến sự cực quyền, thao túng nền kinh tế quốc gia. Để giải quyết tình trạng này, các nước đã áp dụng biện pháp quốc hữu hóa những công ty tư nhân, biến thành những doanh nghiệp nhà nước, chịu sự quản lý của nhà nước.
Trong thực tế, ở các nước tư bản, doanh nghiệp nhà nước được ưu đãi rất nhiều từ ngân sách, từ các quỹ tín dụng và các nguồn tài chính khác. Nhưng do khuyết tật cố hữu của doanh nghiệp nhà nước là hoạt động kém hiệu quả hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp tư nhân, nên đã xuất hiện phong trào tư nhân hóa bắt đầu từ nước Anh, sau đó phát triển rộng rãi ở các nước phương Tây. Do tư nhân hóa ồ ạt với quy mô lớn nên dẫn tới tình trạng dư cung cổ phiếu làm giảm giá trị cổ phiếu một cách giả tạo. Từ đó phong trào tư nhân hóa không những không làm tăng hiệu quả của doanh nghiệp tư nhân hóa mà còn làm cho một số doanh nghiệp sau tư nhân hóa rơi vào tình trạng khó khăn, nan giải.
Quy mô của các doanh nghiệp nhà nước
Chỉ tính trong 10 năm từ 1990 – 2000. Chúng ta đã 3 lần thực hiện việc cải cách đổi mới DNNN. Lần thứ nhất thực hiện vào những năm từ 1990 – 1993 với mục đích tổ chức lại sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp quốc doanh. Lần thứ hai từ năm 1994 – 1997, chúng ta đã thành lập 18 Tổng công ty 91 và 77 Tổng công ty 90. Lần thứ ba chúng ta thực hiện cổ phần hoá các DNNN và ngay sau đó là việc giao bán, khoán và cho thuê các DNNN.
Sau 3 lần cải cách đổi mới DNNN thì năm 2000 so với năm 1990 quy mô của các doanh nghiệp nhà nước đã giảm từ 12300 doanh nghiệp xuống còn 5280, những doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm tới 76,1%. Tuy có sự giảm sút về quy mô nhưng các DNNN vẫn đạt được mức tăng trưởng mạnh. Trong 5 năm từ 1991-1995 tốc độ tăng trưởng bình quân của DNNN đạt 11,7%. tỉ lệ đóng góp vào tổng sản phẩm quốc dân GDP đạt 40,3%. Đồng thời quá trình tổ chức sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước đã mở rộng quy mô vốn của các doanh nghiệp, giảm được sự tài trợ đáng kể của ngân sách nhà nước, một số ngành mới đã và đang áp dụng công nghệ cao thực sự mang lại hiệu quả đáng kể như: dầu khí, năng lượng, bưu chính viễn thông vv… Trong đó quyền chủ động của các sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được phát huy.
Tuy vậy cơ cấu tổ chức của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế như việc doanh nghiệp hoạt động chông chéo về ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý. Còn các doanh nghiệp cùng thuộc một ngành thì phân bố rất phân tán, manh mún thuộc nhiều cơ quan quản lý khác nhau. Ví dụ như ở địa bàn Hà Nội các ngành sản xuất thiết bị có 35 đơn vị, trong đó có 27 doanh nghiệp do Trung ương quản lý nhưng lại được tập trung vào 7 đầu mối quản lý khác nhau. Bộ Công nghiệp có 8 doanh nghiệp, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn có 8 doanh nghiệp và Bộ Xây dựng có 7 doanh nghiệp.
Hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước
Vấn đề hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước và đặc biệt quan trọng vì đã là doanh nghiệp kinh doanh đương nhiên phải có hiệu quả thì mới tồn tại phát triển. Thực tế các DNNN của chúng ta bên cạnh những thành tựu to lớn đã và đang bộc lộ những yếu kém khá nghiêm trọng:
Quy mô các DNNN còn nhỏ (vốn bình quân chỉ là 12 tỉ đồng) Cơ cấu có nhiều bất hợp lý, công nghệ lạc hậu, quản lý yếu kém, chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh. Kết quả khảo sát 10 ngành cho thấy ngoài một số doanh nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại hoặc trung bình của thế giới và khu vực, số còn lại lạc hậu so với thế giới từ 10 đền 20 năm, thậm chí 30 năm. Đến tháng 5-2001 mới chỉ có 4,1% tổng số doanh nghiệp nhà nước đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước cũng chưa tương xứng với các nguồn lực đã có và sự hỗ trợ đầu tư của nhà nước: trong 4 năm (1997 - 2000) ngân sách nhà nước đã đầu tư thêm cho DNNN gần 8200 tỉ đồng, giãn nợ 540 tỉ đồng, giảm tính khấu hao 200 tỉ đồng và cho vay ưu đãi đầu tư 9000 tỉ đồng. Đến năm 2000 số doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả mới chỉ là 40% bị lỗ liên tục chiếm tới 29%. Tình hình đúng như vậy nhưng từ đó để đi đến khẳng định chỉ có các doanh nghiệp tư nhân mới có lãi và DNNN chỉ có thua lỗ, kém hiệu quả là hoàn toàn không đúng. Nhận định này thiếu cả cơ sở lý luận và thực tiễn, coi một số hiện tượng trùng với bản chất, bởi nếu đi sâu nghiên cứu chúng ta cũng dễ thấy không chỉ DNNN mới thua lỗ mà cũng có nhiều doanh nghiệp tư nhân cũng thua lỗ. Khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực với những hậu quả nặng nề về kinh tế, chính trị, xã hội có thể coi là khủng hoảng của kinh tế tư nhân.
Thực tế ở thành phố Hải Phòng ( cũng như ở nhiều địa phương khác ) cho thấy, tỉ lệ nợ quá hạn của các khoản vay tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp tư nhân vào khoảng 36% tính đến tháng 6-2001 cao gấp đôi so với DNNN trong đó phần lớn là nợ khó có khả năng thanh toán. Trong tổng số các DNNN có đến 70% là hoạt động có lãi và khi lãi khi lỗ. Số DNNN thua lỗ tuy còn nhiều nhưng chỉ là thiểu số. Ở Trung Quốc có 500 doanh nghiệp hàng đầu là các DNNN lớn sản xuất kinh doanh có hiệu quả làm đầu tầu thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển. ở nhiều nước khác cũng đều có DNNN hoạt động có hiệu quả và doanh nghiệp tư nhân bị thua lỗ phải phá sản.
Như vậy thua lỗ, hiệu quả thấp là đồng hành của cả DNNN và doanh nghiệp tư nhân. Có nhiều nguyên nhân không liên quan đến sở hữu doanh nghiệp trong đó có nguyên nhân rất cơ bản là điều kiện sản xuất kinh doanh của nước ta còn gặp nhiều khó khăn, biến động rủi ro lớn các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế yếu kém, nhất là trình độ quản lý, kinh nghiệm thương trường.
Những thách thức với doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới
Trong tương lai không xa DNNN phải đối mặt với hai sức ép cạnh tranh lớn, sức ép cạnh tranh thứ nhất là cạnh tranh với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác và chuẩn bị cho một cuộc cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, các tập đoàn kinh tế mạnh, các tập đoàn kinh tế siêu quốc gia sau khi chúng ta hoàn thành tiến trình ra nhập vào AFTA hay sau khi hiệp định tự do thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực thi hành.
Về các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác: ở nước ta sau khi có luật doanh nghiệp ra đời chỉ trong một thời gian ngắn, các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất phát triển một cách rầm rộ người ta ví như hình ảnh “ nấm mọc sau cơn mưa” cả nước có khoảng 23000 doanh nghiệp loại này đầu tư một khoản vốn khoảng 25000 tỉ đồng vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Ngoài một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước, còn lại các ngành sản xuất không đòi hỏi vốn đầu tư lớn thì tư nhân đang lấn dần thị phần của DNNN. Một khu vực khác cũng là một đối thủ cạnh tranh đáng kể với DNNN là các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài, các doanh nghiệp này có ưu thế hơn các DNNN về vốn, công nghệ hiện đang được nhà nước ta khuyến khích và ưu đãi, đang len lỏi vào một số các lĩnh vực kinh tế lớn của nước ta như: dầu khí, chế biến thuỷ hải sản, xây dựng công nghiệp, sản xuất hoá chất, xi măng…đáng chú ý hơn cả là năm 2000 tốc độ tăng trưởng của DNNN chỉ có 11% thì doanh nghiệp tư bản tư nhân tăng 14% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng trên 20%, do đó trong thời gian tới nếu nước ta không có biện pháp để củng cố sức mạnh của DNNN thì DNNN sẽ bị lấn át ngay trên thị trường sân nhà.
Khi chúng ta hoàn thành tiến trình ra nhập AFTA và thực hiện hiệp định thương mại Việt-Mỹ thì sức cạnh tranh sẽ cụ thể hoá bằng cạnh tranh hàng hoá, hay yếu tố quan trọng nhất là chất lượng hàng hoá và giá cả hảng hoá. Hiện tại ngoài một số mặt hàng như hoá mỹ phẩm, đồ nhựa, than, một số hoá chất cơ bản…Giá của ta rẻ hơn của nước ngoài, còn lại một số mặt hàng như giấy, phân bón, xi măng, hàng điện tử, hàng cơ khí…Thì hàng của ta đều cao hơn hàng nước ngoài từ 20-40%
Hai cuộc cạnh tranh trên đây chính là vấn đề cấp bách và nghiêm trọng đối với các DNNN. Trong thời gian tới nước ta cần phải đẩy mạn việc cải tổ, xây dựng, sắp xếp…để KTNN giữ được vai trò chủ đạo, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phần V: Những giải pháp cải cách, đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước.
1 – Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh tiếp tục giảm bớt gánh nặng đối với ngân sách nhà nước. Đây là mục tiêu rất cơ bản nhưng rất khó thực hiện, vì tình trạng kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước trở thành khuyết tật cố hữu mang tính phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, kể cả những nước tư bản phát triển. Vì vậy, nâng cao hiệu quả, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách là mục tiêu quan trọng, là nhiệm vụ bức bách đối với toàn bộ hệ thống cũng như từng doanh nghiệp nhà nước.
2 – Nâng cao vai trò của doanh nghiệp nhà nước, làm cho doanh nghiệp nhà nước trở thành lực lượng vật chất và công cụ quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế vĩ mô theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu này xuất phát từ đặc điểm của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất phát triển thấp, nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, do đó cần củng cố và phát triển doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, góp phần
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong xây dựng kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.doc