Tiểu luận Vai trò của tích luỹ tư bản trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa

MỤC LỤC

Phần I: Lời mở đầu. ------------------------------------------------------------trang 3

Phần II: Nội dung.---------------------------------------------------------------------5

Chương 1: Một số lý luận về tích luỹ tư bản.

1.1 Thế nào là tích luỹ.

1.1.1 Các khái niệm có liên quan.---------------------------------------------------5

1.1.2 Thực chất của tích luỹ tư bản.-------------------------------------------------6

1.1.3 Động cơ của tích luỹ tư bản.---------------------------------------------------8

1.1.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới quy mô của tích luỹ tư bản.------------------10

1.2 Các quy luật của tích lũy tư bản.

1.2.1 Sự giảm bớt tương đối bộ phận tư bản khả biến trong tiến

trình tích luỹvà tích tụ đi kèm theo tiến trình đó --------------------------------12

1.2.2 Việc sản xuất ngày càng nhiều nhân khẩu thừa tương đối.--------------14

1.2.3 Lượng cầu về sức lao động tăng cùng với tích luỹ tư bản

trong điều kiện kết cấu của tư bản không đổi.-----------------------------------15

Chương 2: Vai trò của tích luỹ tư bản trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa.

2.1 Tích luỹ nguyên thuỷ tư bản.

2.1.1 Tích luỹ ban đầu điểm xuất phát của phương thức sản

xuất tư bản chủ nghĩa.---------------------------------------------------------------17

2.1.2 Nội dung, đặc điểm của thời kì tích luỹ nguyên thuỷ.--------------------19

2.2. Tích luỹ tư bản trong thời kì chủ nghĩa tư bản hiện đại.

2.2.1 Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.-------------------------------------23

2.2.2 Xã hội hoá nền sản xuất ngày càng cao.------------------------------------24

2.2.3 Xu hướng lịch sử của tích luỹ tư bản.----------------------------------------25

Chương 3: Ý nghĩa của việc nghiên cứu tích luỹ tư bản.

3.1 Ý nghĩa về mặt lí luận.------------------------------------------------------27

3.2 Ý nghĩa thực tiễn của tích luỹ đối với phát triển kinh tế ở nước ta.---28

Phần III: Kết luận.----------------------------------------------------------------30

 

 

 

 

 

 

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 13332 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vai trò của tích luỹ tư bản trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a nhà tư bản. Nếu tỉ lệ phân chia đó đã có sẵn thì rõ ràng đại lượng của tư bản tích luỹ sẽ do đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư quyết định. D o đó những nhân tố quyết định quy mô của tích luỹ chính là những nhân tố quyết định quy mô của gía trị thặng dư. Những nhân tố đó là : 1.1.4.1 Mức độ bóc lột sức lao động Nâng cao mức độ bóc lột sức lao động bằng cách cắt xén vào tiền công. Khi nghiên cứu sự sản xuất ra giá trị thặng dư, C.MAC giả định rằng sư trao đỏi giữa công nhân và nhà tư bản là sự trao đổi ngang giá. Nhưng trong thực tế, công nhân bị nhà tư sản chiếm đoạt một phần lao động tất yếu, bị cắt xén một phần tiền công. Việc cắt xén tiền công giữ vai trò quan trọng trong quá trình tích luỹ tư bản. Nâng cao mức độ bóc lột bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động. Việc tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động rõ ràng làm tăng thêm giá trị thặng dư, do đó làm tăng bộ phận giá trị thặng dư được tư bản hoá tức là làm tăng tích luỹ.Anhr hưởng này còn thể hiện ở chỗ số lượng lao động tăng thêm mà nhà tư bản chiếm không do tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động không đòi hỏi phải tăng thêm tư bản một cách tương ứng (không đòi hỏi phải tăng thêm số lương công nhân, tăng thêm máy móc thiết bị, mà hầu như chỉ cần tăng thêm sư hao phí nguyên liệu ) 1.1.4.2 Trình độ năng suất lao động V iệc nâng cao năng suất lao động làm tăng thêm giá trị thặng dư, do đó tăng thêm bộ phận giá trị thặng dư được tư bản hóa. Song vấn đề ở đây là tích luỹ không chỉ được quyết định bởi khối lượng giá trị thặng dư, mà còn bởi khối lượng tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng do khối lượng giá trị thặng dư có thể chuyển hoá thành. Như vậy, năng suất lao động tăng sẽ làm tăng thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư bản mới. Do đó làm tăng quy mô của tích luỹ. Năng suất lao động cao thì lao động sống sử dụng được nhiều lao đọng quá khứ hơn, lao động quá khứ đó lại tái hiện dưới hình thái có ích mới, chúng làm chức năng tư bản để sản xuất ra tư bản càng nhiều, do đó mà quy mô của tư bản tích luỹ càng lớn. Như vậy, năng suất lao động là nhân tố quan trọng quyết định quy mô của tích luỹ. 1.1.4.3 Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng Tư bản tăng lên thì sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng cũng tăng lên. Nói một cách khác: khối lượng giá trị và khối lượng vật thể của những tư liệu lao động như nhà xưởng, máy móc, ống tiêu nước, súc vật cày kéo, các thứ khí tài cúng tăng lên; những thứ đó, trong một thời kì dài hay ngắn, những quá trình sản xuất thường xuyên lắp đi lắp lại, đều hoạt động với quy mô của chúng hay được dùng để đạt tới một hiệu quả có ích nhát định, nhưng lại chỉ hao mòn dần dần, và do đó chỉ mất giá trị từng phần một, nghĩa là chỉ chuyển giá trị ấy từng phần một vào sản phẩm mà thôi. Vì các tư liệu lao động được dùng làm những cái tạo ra sản phẩm nhưng lại không nhập thêm giá trị vào sản phẩm, nghĩa là vì chúng được sử dụng toàn bộ nhưng chỉ bị tiêu dùng từng phần thôi, cho nên như đã nhắc trên kia, các tư liệu đó phục vụ không công giống như các lực lượng thiên nhiên: nước, hơi nước, không khí, điện... nhưng sự phục vụ không công đó của lao động quá khứ, được lao động sống nắm lấy và làm sống lại, đang được tích luỹ lại cùng với quy mô ngày càng tăng của tích luỹ Lực lượng sản xuất xã hội càng phát triển, máy móc càng hiện đại, phần giá trị của nó chuỷen vào sản phẩm trong từng thời gian càng ít, thì sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản bị tiêu dùng càng lớn. Do đó, tư bản lợi dụng được những thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều. 1.1.4.4 Quy mô của tư bản ứng trước Với trình độ bóc lột không đổi thì khối lượng giá trị thặng dư sẽ do khối lượng công nhân bị bóc lột quyết định. Do đó, quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư bản khả biến càng lớn, thì giá trị thặng dư bóc lột được và quy mô tích luỹ cũng càng lớn. 1.2Các quy luật cuả tích luỹ tư bản 1.2.1 Lượng cầu về sức lao động tăng cùng với tích luỹ tư bản trong điều kiện kết cấu của tư bản không đổi. 1.2.1.1Sự tăng lên của lượng cầu về sức lao động Tư bản tăng lên thì cũng tăng thêm bộ phận khả biến của nó hay bộ phận được biến thành sức lao động. Gỉa dụ rằng, cùng với những điều kiện khác không thay đổi- nghĩa là để vận một khối lượng tư liệu sản xuất hay tư bản bất biến nhất định,bao giờ cũng cần một khối lượng sức lao động như trước ,thì rõ ràng là lượng cầu về lao động và quỹ sinh hoạt của công nhân sẽ tăng lên một cách tỉ lệ với tư bản, và tư bản tăng lên càng nhanh bao nhiêu thì lượng cầu đó cũng càng tăng lên nhanh bấy nhiêu. K hi quy mô tích luỹ có thể mở rộng đột ngột bằng cách chỉ cần thay đổi sự phân chia giá trị thặng dư hay sản phẩm thặng dư thành tư bản và thu nhập, vì những lẽ đó nên nhu cầu tích luỹ của tư bản có thể vượt quá sự tăng thêm cảu sức lao động hay số công nhân, lượng cầu về công nhân có thể vượt quá lượng cung về công nhân và vì thế tiền công có thể tăng lên. Vì mỗi năm người ta sử dụng nhiều công nhân hơn năm trước, nên sớm hay muộn ắt phải đến lúc mà nhu cầu của tích lũy bắt đầu vượt quá lượng cung bình thường về lao động, và do đó tiền công cũng sẽ tăng lên. Tích lũy tư bản là làm tăng thêm giai cấp vô sản. 1.2.1.2 Sự tăng lên về tiền công không ngăn cản việc tăng tích lũy tư bản . Như ta đã thấy, do bản chất của nó, tiền công đòi người lao động bao giờ cũng phải cung cấp một số lượng lao động không công nhất định. Hoàn toàn không nói đến trường hợp tăng tiền công trong trường hợp giá cả lao động hạ xuống...thì trong trường hợp tốt nhất tăng tiền công cũng có nghĩa là giảm bớt về số lượng phần lao động không công mà người lao động phải cung cấp. Sự giảm bớt này không bao giờ có thể đi đến mức đe doạ sự tồn tại của bản thân chế độ này. Theo cách nói của toán học, có thể nói rằng: đại lượng tích lũy là một biến số độc lập, đại lượng tiền công là một biến số phụ thuộc, chứ không phải ngược lại . Nếu khối lượng lao động không công do giai cấp công nhân cung cấp và do giai cấp các nhà tư bản tích lũy, lại tăng lên khá nhanh đến mức nó chỉ có thể biến thành tư bản khi nào có một sự tăng thêm khác thường của số lao động được trả công, thì tiền công sẽ tăng lên, và nếu những điều kiện khác không thay đổi, thì lao động không công sẽ giảm xuống một cách tương xứng. Nhưng một khi sự giảm xuống này chạm tới cái điểm mà ở đấy lao động thặng dư nuôi dưỡng tư bản không còn cung cấp với một khối lượng bình thường nữa, thì có ngay một sự phản ứng :một phần ít hơn của thu nhập sẽ được tư bản hoá, tích luỹ chững lại, và sự vận động đi lên của tiền công sẽ bị đánh bật trở lại. Như vậy, sự tăng lên của giá cả lao động không vượt quá những giới hạn bảo đảm không những giữ nguyên được những cơ sở của chế độ tư bản chủ nghĩa mà còn đảm bảo cho tái sản xuất của chế độ đó được thực hiện với quy mô mở rộng. 1.2.2 Sự giảm bớt tương đối bộ phận tư bản khả biến trong tiến trình tích luỹ và tích tụ đi kèm theo tiến trình đó Một khi đã có những có những cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa, thì trong tiến trình tích luỹnhất định sẽ đến lúc sự phát triển của năng suất lao động xã hội trở thành đòn bẩy mạnh nhất của tích luỹ. Năng suất lao động tăng thể hiện ở việc giảm bớt khối lượng lao động so với khối lượng tư liệu sản xuất mà lao động đó làm cho hoạt động hay là thể hiện ở sự giảm bớt đại lượng của nhân tố chủ quan của quá trình lao động so với các nhân tố khách quan của quá trình đó. Sự thay đổi đó của kết cấu kĩ thuật của tư bản, sư tăng lên của khối lượng tư liệu sản xuất so với khối lượng sức lao động đang làm cho các tư liệu sản xuất đó sống lại, lại phản ánh trở lại vào trong kết cấu giá trị của tư bản, vào trong việc tăng thêm bộ phận bất biến của giá trị tư bản, bằng cách lấy vào bộ phận khả biến của nó. Ví dụ: lúc đầu 50% của một tư bản nào đó được chi cho tư liệu sản xuất, còn 50% được chi cho sức lao động; sau đó cùng với sự phát triển của năng suất lao động 80% được chi cho tư liệu sản xuất và 20% được chi cho sức lao động...Các quy luật về sư tăng lên của bộ phận bất biến của tư bản so với bộ phận khả biến, ở mỗi bước đều được xác minh. Tuy vậy sự giảm bớt phần khả biến của tư bản so với phần bất biến hay là sự thay đổi kết cấu của tư bản, chỉ nói lên một cách gần đúng sự biến đổi trong kết cấu của các bộ phận vật chất của tư bản mà thôi. Cùng với năng suất đã tăng lên của lao động thì không những khối lượng tư liệu sản xuấtdo nó tiêu dùng tăng lên, mà giá trị của tư liệu sản xuất so với khối lượng của nó lại còn giảm xuống nữa. Như vậy giá trị của tư liệu sản xuất tăng lên một cách tuỵet đối, nhưng không tăng theo cùng tỉ lệ với khối lượng của nó. Vì vậy, sự chênh lệch giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến tăng lên chậm hơn nhiều so với sự chênh lệch giữa khối liệu tư liệu sản xuất do tư bản bất biến chuyển hoá thành, và khối lượng sức lao động do tư bản chuyển hoá thành. Sự chênh lệch trên cũng tăng lên với sự chênh lệch dưới, nhưng với một mức độ ít hơn. Vả lại nếu sự tiến bộ của tích luỹ làm giảm bớt đại lượng tương đối của bộ phận tư bản khả biến thì như vậy tuyệt nhiên không phải nó loại trừ sự tăng lên của đại lượng tuyệt đối của nó. Gỉa định rằng một giá trị tư bản lúc đầu tự chia ra thành 50% là tư bản bất biến và 50%là tư bản khả biến, về sau lại chia thành 80% là tư bản bất biến và 20%là tư bản khả biến. Nếu trong thời gian đó số tư bản lúc đầu gồm 6000 chẳng hạn, đã tăng lên thành 18000 thì phần khả biến của nó đã tăng thêm. Trước kia nó là 3000, bây giờ là 3600. Nhưng, nếu trước kia chỉ cần tăng tư bản thêm 20%là đủ để tăng lượng cầu về lao động lên 20% thì bây giờ điều đó lại đòi hỏi phải tăng tư bản lúc đầu lên gấp 3 lần. Mọi tư bản đều là sự tích tụ nhiều hay ít tư liệu sản xuất với một sự chỉ huy tương ứng đối với một đội quân lao động. Với mọi tích luỹ đều trở thành phương tiện cho một tích luỹ mới.Tích tụ và tập trung tư bản có quan hệ với nhau. Sự khác biệt này không chỉ về chất mà còn khác nhau về mặt lượng. Tập trung tư bản tuy không làm tăng quy mô tư bản xã hội nhưng có vai trò rất lớn trong quá trình chuyển sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn TBCN và quá trình chuyển CNTB từ giai đoạn thấp lên giai đoạn cao. 1.2.3 Việc sản xuất ngày càng nhiều nhân khẩu thừa tương đối 1.2.3.1.Nhân khẩu thừa sản phẩm tất yếu của tích lũy Lượng cầu về lao động không phải do quy mô của tổng tư bản quyết định mà do quy mô của bộ phận khả biến của tư bản quyết định; cho nên cùng với sự tăng lên của tổng tư bản thì lượng cầu về lao động cũng dần dần giảm bớt đi chứ không phải tăng lên theo tỉ lệ với sự tăng thêm của tổng tư bản, như chúng ta đã giả định trước đây. Lượng cầu về lao động giảm xuống một cách tương đối so với đại lượng của tổng tư bản và giảm xuống theo một cấp số ngày càng nhanh cùng với sự tăng lên của đại lượng ấy. Thật ra cùng với sự tăng lên của tổng tư bản thì phần khả biến của nó, hay sức lao động kết hợp vào nó, cũng tăng lên, nhưng lại tăng lên theo một tỷ lệ không ngừng giảm sút. Cùng với sự tích luỹ tư bản do bản thân nó đẻ ra, nhân khẩu công nhân cũng sản xuất ra với một quy mô ngày càng lớn những phương tiện làm cho họ trở thành nhân khẩu thừa tương đối là quy luật nhân khẩu thừa riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, cũng giống như trên thực tế, mọi phương thức sản xuất đặc thù trong lịch sử đều có quy luật nhân khẩu đặc thù, có hiệu lực trong lịch sử của nó. Một quy luật nhân khẩu trìu tượng chỉ tồn tại đối với thực vật và động vật, chừng nào mà con người trong lịch sử chưa xâm nhập vào lĩnh vực này. 1.2.3.2 Nhân khẩu thừa, đòn bẩy của tích luỹ tư bản điều kiện tồn tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đội quân công nghiệp trừ bị . Nhưng, nếu nhân khẩu công nhân thừa là sản phẩm tất yếu của tích luỹ, hay của sự phát triển của cải trên cơ sở tư bản chủ nghĩa, thì ngược lại nhân khẩu thừa này lại trở thành một đòn bẩy của tích lũy tư bản chủ nghĩa và thậm chí còn là điều kiện tồn tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nứa. Số nhân khẩu đó tạo thành một đội quân công nghiệp trừ bị có sẵn, hoàn toàn thuộc về tư bản một cách tuyệt đối tựa hồ như thể tư bản đã bỏ công của ra nuôi dưỡng lên số nhân khẩu thừa đó. Khối lượng của cải xã hội, ngày càng phình ra cùng với sự tiến bộ của tích lũy và có thể biến thành tư bản phụ thêm, điên cuồng đổ xô vào những ngành sản xuất cũ mà thị trường mở rộng đột ngột, hoặc vào những ngành sản xuất mới...mà sự phát triển của những ngành sản xuất cũ đòi hỏi phải có. Trong tất cả những trường hợp như thế thì cần làm thế nào để có thể tung một cách đột ngột những khối lượng người rất lớn vào những điểm quyết định mà không phải giảm bớt quy mô sản xuất trong những lĩnh vực khác. Nhân khẩu thừa cung cấp những khối lượng người đó. Việc mở rộng quy mô một cách đột ngột và nhảy vọt là tiền đề của việc thu hẹp nó một cách đột ngột; bản thân sự thu hẹp này lại gây ra sự mở rộng kia, nhưng sự mở rộng kia không thể nào thực hiện được nếu không có một nguồn sức người bóc lột được, nếu không có sự tăng thêm khối lượng công nhân một cách độc lập với số tăng tuyệt đối của nhân khẩu. Số tăng đó được tạo bởi một quá trình đơn giản thường xuyên "giải phóng" một bộ phận công nhân, nhờ những phương pháp làm giảm bớt số công nhân đang làm việc so với sản xuất đã tăng lên. Như vậy toàn bộ hình thức vận động đặc biệt của nền công nghiệp hiện đại đều phát sinh trên sự thường xuyên biến một bộ phận nào đó của nhân khẩu công nhân thành những công nhân không có việc làm hay chỉ có việc làm một nửa. Việc sản xuất nhân khẩu thừa tương đối, nghĩa là thừa so với nhu cầu trung bình của tư bản trong việc làm tăng giá trị của nó, là điều kiện sống còn của nền công nghiệp hiện đại. CHƯƠNG 2: VAI TRò CủA TíCH Luỹ tư bản trong quá trình Hình thành và phát triển kinh tế TBCN 2.1 Tích luỹ nguyên thuỷ tư bản 2.1.1Tích luỹ ban đầu, điểm xuất phát của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa 2.1.1.1 Hai điều kiện ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa Qúa trình phát triển của con người từ khi sinh ra cho tới nay gắn liền với quá trình phát triển và thay thế lẫn nhau của các phương thức sản xuất xã hội.Phương thức sản xuất đầu tiên là cộng sản nguyên thuỷ, phương thức sản xuất này được thay thế bởi phương thức sản xuất nô lệ tiếp đó là phuơng thức sản xuất phonng kiến. Và từ giữa thế kỉ XV cho tới giữa thế kỉ XVII là thời kì bắt đầu tan rã của chế độ phong kiến và thay thế bởi chế độ phong kiến là chế độ tư bản chủ nghĩa bắt đầu ra đời. Chủ nghĩa tư bản ra đời trong lòng chế độ phong kiến. Hai điều kiện cần và đủ để hình thành chủ nghĩa tư bản +Tập trung trong tay một số ít người số tiền của lớn để lập ra các xí nghiệp TBCN +Có một lớp người hoàn toàn tự do về thân thể (quyền quyết định thân thể mình) và đã bị mất hết tư liệu sản xuất. 2.1.1.1 Tích luý nguyên thuỷ tư bản,đòn bẩy đẩy nhanh sư ra đời của hai điều kiện Gỉa định rằng trước tích luỹ tư bản chủ nghĩa đã có một sự tích luỹ "ban đầu" -một tích luỹ không phải là kết quả của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà là xuất phát điểm của nó. Trong khoa kinh tế chính trị, sự tích lũy ban đầu này đóng một vai trò cũng gần giống như vai trò của tội tổ tông trong thần học. Và từ thời cái tội tổ tông đó đã bắt đầu sự nghèo khổ của số đông người, là những người dù có lao động hết sức cũng chẳng có gì để bán trừ bản thân họ ;và bắt đầu sự giàu có của một số ít, dù đã thôi lao động từ lâu mà vẫn cứ giàu mãi lên. Nhưng khi đã đụng đến vấn đề quyền sở hữu thì người ta có nghĩa vụ thiêng liêng là phải theo đúng quan điểm của sách vở vỡ lòng cho tẻ con, là quan điểm duy nhất đúng với mọi lứa tuổi mọi trình độ phát triển. Như mọi người đều biết, trong lịch sử hiện thực thì sự xâm chiếm, nô dịch, cướp bóc, tóm lại là bạo lực đã đóng một vai trò lớn. Tiền và hàng hoá, cũng giống hệt như tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt, ngay từ đầu không phải là tư bản.Chúng cần được chuyển hoá thành tư bản. Nhưng sự chuyển hoá này chỉ có thể diễn ra trong những hoàn cảnh nhất định thôi, những hoàn cảnh đó quy lại là :"hai loại hàng hoá rất khác nhau phải gặp nhau và tiếp xúc với nhau - một bên là người có tiền, có tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt,cần mua sức lao động của người khác để làm tăng thêm giá trị đã chiếm được; bên kia là những người lao động tự do,những người bán sức lao động của bản thân mình, do đó là những người bán lao động ". Với việc chia thị trường hàng hoá thành hai cực như vậy, thì những điều kiện cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng được tạo ra."Quan hệ tư bản chủ nghĩa giả định phải tách rời người lao động với quyền sở hữu những điều kiện thực hiện lao động" Qúa trình một mặt thì biến tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt của xã hội thành tư bản, và mặt khác, biến những người sản xuất trực tiếp thành những người lao động làm thuê. Do đó, cái gọi là tích luỹ ban đầu chẳng qua chỉ là một quá trình lịch sử tách rời người sản xuất ra khỏi tư liệu sản xuất(Nó là ban đầu vì nó là tiền sử của tư bản và của phương thức sản xuất phù hợp với tư bản ). Cái đã đánh dấu thời đại trong lịch sử của tích luỹ ban đầu là những sự đảo lộn làm đòn bẩy cho giai cấp các nhà tư bản đang hình thành. Cơ sở của toàn bộ quá trình này là sự tước đoạt ruộng đất của những người sản xuất nông nghiệp, của nông dân . ở Anh nó mang hình thức cổ điện, vì vậy nên chúng ta lấy nước Anh làm ví dụ 2.1.2 Nội dung, đặc điểm của thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ(Điển hình ở Anh) 2.1.2.1 Sự tước đoạt ruộng đất của dân cư ở nông thôn Màn mở đầu của sự đảo lộn đặt nền tảng cho phương thức tư bản chủ nghĩa đã diễn ra trong ba mươi năm cuối thế kỉ XV và mấy mươi năm đầu thế kỉ XVI. Biến đồng ruộng thành bãi chăn thả đã trở thành khẩu hiệu của các chúa phong kiến. Nhà ở của nông dân và những chiếc nhà nhỏ của công nhân bị phá huỷ đi bằng bạo lực noặc cho đổ nát để biến thành bãi chăn thả, ở đấy chỉ còn nhà của chúa đất mà thôi. Trong thời kì này, cơ quan lập pháp cũng tìm cách duy trìmột mức tối thiểu 4 a-cơ đất đai cho mỗi căn nhà nhỏ của người công nhân công nghiệp làm thuê và cấm không nhận cho ngưoừi khác đến ở thuê trong nhà mình. Trong thế kỉ XVI cuộc cải cách tôn giáo và sự cướp bóc hàng loạt những tài sản của giáo hội tiếp theo sau nó đã đem lại một sự thúc đẩy ghê gớm cho quá trình tước đoạt quần chúng nhân dân bằng bạo lực. Việc xoá bỏ các nhà tu kín đã đẩy các người trong các nhà tu đó vào hàng ngũ vô sản. Vấn đề "rào ruộng đất của công xã ", việc rào đất của công xã rất phổ biến và phần lớn những lãnh địa mới do việc rào đất mà có, dã bién thành đồng cỏ. Không phải chỉ những đất bỏ hoang, mà lắm khi cả những đất đai đã trồng trọt cũng đều bị địa chủ lân cận sáp nhậpdưới cớ rào đất. Tóm lại, cướp đoạt tài sản của nhà thờ, nhượng đất đai nhà nước một cách gian lận, ăn cắp đất đai của công xã, biến sở hữu phong kiến và sở hữu thị tộc thành sở hữu tư nhân hiện đại bằng cách chiếm đoạt và khủng bố tàn nhẫn-đó là bấy nhiêu phương pháp thơ mộng của tích luỹ banđầu-Chúng đã chinh phục đất đai cho nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa, đem ruộng đất gắn vào tư bản và tạo ra một luồng cần thiết những người vô sản bị đặt ra ngoài vòng pháp luật để cung cấp cho công nghiệp thành thị. 2.1.2.2 Phương pháp đẫm máu từ cuối thế kỉ XV nhằm chống những người bị tước đoạt. Những đạo luật nhằm hạ thấp tiền công. Pháp chế về lao động làm thuê- nhay từ đầu đã nhằm vào sự bóc lột công nhân và trong quá trình phát triển của nó luôn luôn thù ddịch với công nhân. Pháp luật đã quy định một biểu tiền công cho thành thị và nông thôn, cho công khoán và công ngày. Công nhân nông thôn phải làm thuê năm, công nhân thành thị làm thuê "trên thị trường công khai". Cấm không được trả công cao hơn mức quy định, trái lệnh thì bị phạt tù, những người lĩnh tiền công cao hơn lại bị phạt nặng hơn người trả công.Ví dụ, theo điều 18 và 19 của quy chế Ê-li-da-bet về người học việc thì người trả tiền công cao hơn bị phạt tù 10 ngày, còn người nhận tiền công đó bị phạt 21 ngày.Quy chế năm 1360 lại tăng mức trừng phạt hơn nữa và thậm chí còn cho phép chủ được dùng quyền cưỡng bức thân thể để bắt làm việc theo biểu tiền công do pháp luật quy định.Các tổ chức liên kết công nhân bị coi là tội nặng kể từ thế kỉ XIV cho đến tận năm 1825 .Những đạo luật nhằm làm giảm tiền công vẫn tiếp tục có hiệu lực đồng thời với việc xẻo tai và dùng sắt nung đóng dấu vào "những người mà không ai muốn thuê cả". Trong suốt hơn bốn trăm năm, người ta sản xuất ranhững đạo luật chỉ quy định mức cao nhất của tiền công tronh bất cứ trường hợp nào cũng không được vượt quá. Những diều khoản trong các quy chế công nhân nói về giao kèo giữa thợ và chủ, về thời gian xoá bỏ giao kèo... quy định rằng người chủ bội ước chỉ bị truy tố về dân sự, còn người thợ bội ước lại bị truy tố về hình sự. 2.1.2.3 Sự ra đời của người Phécmie tư bản chủ nghĩa. Ta hãy tự hỏi: vậy thì lúc ban đầu do đâu mà có các nhà tư bản. Sự hình thành những người phecmie, thì có thể nói rằng chúng ta có thể lấy tay sờ thấy được, vì nó là một quá trình kéo dài trong nhiều thế kỉ.Người Phecmie được hình thành từ rất xa xưa. Cuộc cách mạng công nghiệp trong khoảng 30 năm cuối thế kỉ XV và kéo dài trong gần suốt cả thế kỉ XVI đã làm cho người Phecmie giàu lên một cách nhanh chóng. Việc chiếm đoạt những bãi chăn nuôi của công xã cho phép người Phecmie tăng đàn súc vật của mình lên rất nhiều mà hầu như không phải tốn kém gì cả.Sự giảm giá không ngừng của các loại kim loại quý, và do đó của tiền nữa, đã đem lại những quả bằng vàng cho người Phecmie. Sự lên giá không ngừng của lúa mì, len, thịt, tóm lại là tất cả sản phẩm nông nghiệp, làm tăng thêm tư bản bằng tiền của người Phecmie mà anh ta chẳng phải mất công sức gì, còn địa tô anh ta phải trả lại được kí kết theo giá trị đồng tiền cũ. Như vậy là cùng một lúc người Phecmie đã làm cả giàu trên lưng của những người công nhân làm thuê cho họ, lẫn trên lưng người địa chủ quý tộc. Vì vậy không có gì đáng lấy làm lạ là cuối thế kỉ XVI ở Anh dã hình thành nên một giai cấp"những người Phecmie tư bản chủ nghĩa" giàu có đốivới thời đó. 2.1.2.4 ảnh hưởng ngược trở lại của cuộc cách mạng nông nghiệp đối với công nghiệp, sự hình thành thị trường trong nước cho tư bản công nghiệp. Việc tước đoạt và xua đuổi dân cư nông thôn ra khỏi ruộng đất không ngừng hết đợt này đến đợt khác, đã cung cấp cho công nghiệp ở thành thị ngày càng nhiều đám người vô sản hoàn toàn đứng ngoài quan hệ phường hội.Tình hình dân dư nông thôn đọc lập tự mình cày cấy trở lên thưa thớt, thì không phải chỉ tương ứng với sự đông đặc thêm của giai cấp vô sản công nghiệp. Mặc dù số người cày cấy ruộng đất có giảm đi, ruộng đất bây giờ vẫn mang một số sản phẩm như trước hay nhiều hơn trước, vì cuộc cách mạng về quan hệ sở hữu ruộng đất đã dẫn theo sự cải tiến các phương pháp canh tác, sự hiệp tác rộng lớn hơn, sự tập trung các tư liệu sản xuất... Việc tước đoạt và đuổi một bộ phận dân cư nông thôn không những giải phóng công nhân, giải phóng tư liệu sinh hoạt và tư liệu lao động của họ cho tư bản công nghiệp, mà còn tạo ra thị trường trong nước nữa. Thật vậy, chính những sự kiện biến những người tiểu nông thành công nhân làm thuê, và biến tư liệu sinh hoạt và tư liệu lao động của họ thành yếu tố vật thể của tư bản , thì cũng đồng thời tạo ra tạo ra thị trường bên trong cho tư bản. Vậy là, đi đôi với sự tước đoạt những người nông dân độc lập trước đây và với việc tách họ ra khỏi cá tư liệu sản xuất, thì cũng diễn ra sự tiêu diệt nghề phụ nông thôn và quá trình tách rời công trường thủ công với nghề nông. Và chỉ có sự tiêu diệt nghề phụ ở nông thôn mới có thể làm cho thị trường bên trong của một nước có được cái quy mô và sự ổn định cần thiết cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. 2.1.2.5 Sự ra đời của nhà tư bản công nghiệp( hệ thống thuộc địa, chế độ công trái, hệ thống thuế khoá..) Sự ra đời của nhà tư bản công nghiệp không có tính chất dần dần từng bước như sự ra đời của người Phecmie. Một số ít thợ cả nhỏ phường hội thủ công, một số đông hơn những thợ thủ công nhỏ độc lập, hay thậm chí cả những công nhân làm thuê nữa, cũng đã trở thành nhà tư bản nhỏ, rồi dần dần nhờ mở rộng sự bóc lột lao động làm thuê và đẩy mạnh tích luỹ tư bản một cách tương xứng mà trở thành những nhà tư bản thực thụ.Thời thơ ấu của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa thường hay có tình hình giống như thời thơ ấu của thành thị thời trung cổ, tức là cái thời mà vấn đề ai trong số những nông nô chạy trốn sẽ là ông chủ, ai sẽ là đầy tớ, phần lớn những quyết định tuỳ theo ai là kẻ đã bỏ trốn sớm hơn. Nhưng bước di chậm như rùa của phương pháp này đã không làm sao đáp ứng được nhu cầu buôn bán của thị trường thế giới mới, do những phát kiến lớn cuối thế kỷ XV tạo ra. Chế độ phong kiến ở nông thôn, chế độ phường hội ở thành thị đã cản trở việc tư-tiền tệ-được hình thành. Những trở ngại này bị xoá bỏ cùng với việc giải tán những đoàn tuỳ tùng phong kiến, cùng với việc tước đoạt dân cư nông thôn và đuổi họ đi từng phần một. Việc tìm thấy những vùng mỏ vàng và mỏ bạc ở châu Mỹ, việc tuyệt diệt người bản xứ, bắt họ làm nô lệ và chôn vùi họ trong các hầm mỏ, việc bắt đầu đi chinh phục và cướp bóc mièn Đông Ân , việc biến châ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60003.DOC
Tài liệu liên quan