M ỤC L ỤC
I. Khái niệm tri thức ? 2
II. Tri thức khoa học, tri thức công nghệ và mối quan hệ
giữu chúng. 2
1. Tri thức khoa học? 2
2. Tri thức công nghệ 4
3. Mối quan hệ giữa tri thức khoa học và tri thức công nghệ: 5
III. Vai trò của tri thức khoa học, công nghệ sinh học tới sự
phát triển của nghành nông nghiệp. 5
IV. Kết luận 9
V. Các tài liệu sử dụng 10
10 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2106 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vai trò của tri thức khoa học công nghệ sinh học tới sự phát triển của ngành nông nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VAI TRÒ CỦA TRI THỨC KHOA HỌC CÔNG NGHỆ SINH HỌC TỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH NÔNG NGHIỆP
I. Khái niệm tri thức ?
-Tri thức là gì?
Tri thức là kết quả của quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực,làm tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính ,những qui luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống kí hiệu khác
Tri thức thông thường được hiểu là sự hiểu biết của con người về sự vật hiện tượng của tự nhiên hoặc xã hội.nhờ có tri thức nên con ngưòi biết lao động khác hẳn với các động vật khác.Mỗi sản phẩm của lao động sản xuất đều là kết quả vật hoá của tri thức.xét về nguồn gốc phát sinh và phương thức hoạt động tri thức là một hiện tượng xã hội.
Có 3 nguồn để tiếp nhận tri thức.Một là tiếp thu các tri thức của tổ tiên truyền lại từ sách vở ,từ các nguồn truyền bá tri thức các nơi khác…Hai là từ các thực nghiệm khoa học có được các dữ liệu,thông tin rồi dùng tư duy nhân thức xử lí chúng để đạt được những tri thức mới.Ba là suy luận lí thuyết từ các tri thức đã có thể đạt được những tri thức sáng tạo.ngày nay nhờ có mạng Internet,mạng viễn thông toàn cầu,những tri thức mới được tiếp nhận một cách phong phú và nhanh chóng với khối lượng kiến thức cực lớn so với trước đây.Tri thức có thể phân thành: tri thức thường nghiệm, tri thức nghệ thuật và tri thức khoa học.
II. Tri thức khoa học, tri thức công nghệ và mối quan hệ giữu chúng.
1. Tri thức khoa học?
-Tri thức khoa học là sự phản ánh trình độ của con người đi sâu vào nhận thế giới hiện thực. Tri thức khoa học bao gồm : tri thức kinh nghiệm và tri thức lí luận. Trong đó tri thức kinh nghiệm là trình độ thấp còn tri thức lí luận là trình độ cao của tri thức khoa học.Giữa 2 trình độ này các tri thức khoa học có mối quan hệ mật thiết với nhau, làm tiền đề, cơ sở cho nhau cùng phát triển phản ánh ngày càng gần đúng hơn và sâu sắc hơn về thế giới vật chất đang vận động không ngừng.
Tri thức kinh nghiệm thu nhận được thông qua quan sát những thí nghiệm. Nó nảy sinh một cách trực tiếp từ thực tiễn, từ lao động sản xuất đến đấu tranh xã hội hoặc từ thí nghiệm khoa học. Xét một cách toàn diện và đầy đủ hơn tri thức kinh nghiệm được chia làm 2 loại:
+Một là tri thức kinh nghiệm thông thường còn gọi là tri thức tiền khoa học, tri thức thường nghiệm. Tri thức kinh nghiệm thông thường chủ yếu thu nhận từ những qua sát hang ngày trong cuộc sống. Loại tri thức này phản ánh trực tiếp vẻ bề ngoài và mang đậm màu sắc cảm tính nhưng không đồng nhất với nó
+Hai là tri thức kinh nghiệm khoa học được thu nhận từ những thí nghiệm khoa học, từ sự khái quát các thực nghiệm khoa học trong sự phát triển của xã hội
Hai loại tri thức này có sự xâm nhập và bổ sung lẫn nhau,giả định chuyển hoá lẫn nhau, làm phong phú thêm quá trình nhận thức
Nói tóm lại tri thức kinh nghiệm là sự phản ánh các hiện tượng đơn nhất,cái cụ thể , tiếp bề ngoài của sự vật
Tri thức lí luận là một trình độ cao hơn về chất so với tri thức kinh nghiệm tri thức lí luận được khái quát từ tri thức kinh nghiệm.Nó tồn tại trong hệ thống các khái niệm ,phạm trù,qui luật,giả thiết,học thuyết nào đó.Lí luận hình thành từ kinh nghiệm nhưng nó không xuất hiện một cách trực tiếp, tự phát và không phải mọi lí luận đều xuất phát từ kinh nghiệm.Tri thức lí luận ở vào trình độ cao nhất của tri thức khoa học, là sản phẩm của tư duy bậc cao.Cố nhiên nó phải là kết quả của quá trình nghiên cứu,học tập bền bỉ có hệ thống của con người
Tri thức lí luận và tri thức kinh nghiệm là 2 trình độ khác nhau nhưng chúng có mối liên hệ hữu cơ mật thiết với nhau và bổ sung cho nhau để nắm bắt chuẩn xác hơn bản chất của sự vật.Thực ra nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lí luận không đồng nhất với nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính.Tuy nhiên trên thực tế ranh giới giữa tri thức kinh nghiệm và tri thức lí luận đôi khi chỉ là tương đối vì không có kết quả nào của nhận thức lại không phải là sản phẩm của sự thống nhất biện chứng của hai quá trình nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính.Tri thức kinh nghiệm chính là cơ sở dữ liệu để khái quát hình thành nên nhận thức lí luận.Tri thức lí luận nâng tri thức kinh nghiệm nên trình độ cao hơn về chất, từ chỗ cái cụ thể , đơn chất trở thành cái có tính khái quát phổ biến.
2. Tri thức công nghệ
- Tri thức công nghệ là tập hợp những hiểu biết (các phương pháp, các quy tắc, các kỹ năng) hướng vào cải thiện thiên nhiên phục vụ cho các nhu cầu của con người. Công nghệ là hiện thân của văn minh xã hội và sự phát triển của nhân loại.
Trong tất cả các nghành công nghệ thì công nghệ thông tin là nghành được chú trọng nhất. ở các nước tư bản công nghệ thông tin được khai thác ở mức rất cao trong mọi lĩnh vực kinh tế,xã hội,văn hoá…Đặc biệt trong các lĩnh vực tài chính ngân hàng,thương mại việc áp dụng công nghệ này đem lại nhiều hiệu quả và lợi nhuận kếch sù.Chủ nghĩa tư bản lợi dụng tính chất đặc biệt của tiền tệ và hệ thống máy tính ngày càng tinh xảo đã tạo lập được một hệ thống tài chính tiền tệ có vị trí độc lập,tách rời hệ thống sản xuất và các nhà tư bản tài chính đã kiếm lời trên hệ thống này
3. Mối quan hệ giữa tri thức khoa học và tri thức công nghệ:
-Trong giai đoạn hiện nay khoa học và công nghệ luôn gắn bó chặt chẽ với nhau.Khoa học là tiền đề trực tiếp của công nghệ và công nghệ lại là kết quả trực tiếp của khoa học.Tri thức công nghệ là tri thức phát triển trên nền tảng của các tri thức khoa học cơ bản được hình thành trong nửa đầu của thế kỉ XX.Muốn có tri thức công nghệ một mặt phải có tri thức khoa học cơ bản. Tuy mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ hết sức gắn bó, nhưng giữa chúng cũng có những khác biệt quan trọng:
Một là, nếu như các tri thức khoa học có thể được phổ biến không hạn chế, thì công nghệ lại là một thứ hàng dùng để mua bán với các yếu tố sở hữu và giá cả.
Hai là, trong khi các hoạt động khoa học thường được giá bằng các thước đo trực cảm thì thước đo đối với công nghệ lại là phần đóng góp cụ thể đối với việc giải quyếtcác mục tiêu kinh tế xã hội.
Ba là, các hoạt động khoa học thường đòi hỏi phỉ có một khoảng thời gian giải quyết dài với các yếu tố bất định khá lớn, ngược lại, đối với hoạt động công nghệ thời gian giải quyết thường ngắn hơn.
III. Vai trò của tri thức khoa học, công nghệ sinh học tới sự phát triển của nghành nông nghiệp.
Hiện nay Việt Nam có khoảng 8 triệu ha đất nông nghiệp, trong đó có 6,8 triệu ha trồng lúa. Diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người là 0,1 ha và đang có xu hướng giảm dần, do tăng số dân và quá trình đô thị hoá cũng như do tình hình ô nhiễm môi trường làm cho đất có chiều hướng nghèo kiệt đi. Nguồn nhân lực trẻ, khoẻ ở nông thôn là nguồn tài nguyên quý để phát triển nông nghiệp, nhưng chưa được khai thác có hiệu quả. Theo số liệu thống kê, có khoảng 6 triệu thanh niên thiếu việc làm. Nguy cơ thiếu dinh dưỡng, thất học, thất nghiệp, tội phạm gia tăng trong nông thôn khá rõ. Trong bối cảnh đó, việc nâng cao thu nhập của người nông dân, bảo đảm an ninh lương thực, sức khoẻ và môi trường là vấn đề bức bách, không thể giải quyết bằng các biện pháp thông thường, mà phải bằng con đường khoa học công nghệ, trong đó có công nghệ sinh học.
Vậy công nghệ sinh học là gì? công nghệ sinh học là một tập hợp các ngành khoa học và công nghệ (sinh học phân tử, di truyền học, vi sinh vật học, sinh hoá học và công nghệ học) nhằm tạo ra các quy trình công nghệ khai thác ở quy mô công nghiệp các hoạt động sống của vi sinh vật, tế báo động vật và thực vật để sản xuất các sản phẩm có giá trị phục vụ đời sống, phát triển ,inh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.
Công nghệ sinh học bao gồm các loại công nghệ và kỹ thuật chủ yếu đó là: Công nghệ vi sinh, công nghệ tế bào, công nghệ mô- công nghệ men(enzym) và kỹ thuật di truyền.
Cùng vơí các ngành công nghệ mũi nhọn khác như công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hoá, công nghệ sinh học góp phần khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước phục vụ phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và tạo ra những tiền đề cần thiết cho công nghệ sinh học trong thế kỷ XXI.
Theo tinh thần của Nghị quyết đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX với mục tiêu chính là xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá quy mô lớn lấy an toàn sinh thái làm cơ sở cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn; nghiên cứu ứng dụng một cách có chọn lọc các thành tựu khoa học công nghệ thuộc lĩnh vực công nghệ sinh học của thế giới, phục vụ thiết thực có hiệu quả sự phát triển bền vững nông, lâm, ngư nghiệp, bảo quản, chế biến nông sản cũng như bảo vệ môi trường trong nông nghiệp - nông thôn. Tạo dựng mạng lưới từ nghiên cứu đến sản xuất những sản phẩm của công nghệ sinh học có đủ năng lực, đáp ứng sự đòi hỏi của nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, xây dựng hệ thống giống đủ mạnh dựa trên cơ sở công nghệ sinh học như: xây dựng hệ thống giống cây trồng, vật nuôi, bảo đảm giống tốt về chất lượng, đủ về số lượng, đặc biệt chú trọng các công nghệ nhân giống nhanh nhằm tăng năng suất từ 20-50% so với giống hiện nay. Bảo đảm cung cấp đủ giống đến từng hộ nông dân, với quan điểm giống là phương tiện lao động đầu tiên, căn bản nhất của hộ nông dân. Thông qua hệ thống giống, nhằm khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai, mặt nước và nguồn lao động dồi dào. Trên cơ sở đó, nâng cao năng suất, chất lượng, bảo vệ môi trường sinh thái, tăng khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam và tăng thu nhập cho nông dân, góp phần làm thay đổi tính chất của quá trình sản xuất nông nghiệp ở khu vực nông thôn: hình thành mô hình nông nghiệp công nghệ cao; nông nghiệp hữu cơ (hạn chế tối đa việc sử dụng hoá chất trong nông nghiệp) ở Việt Nam.
Theo quan điểm phát triển công nghiệp công nghệ sinh học nông nghiệp hiện đại thì ngành Công nghiệp công nghệ sinh học nông nghiệp là hệ thống sản xuất có khả năng tạo giống, nhân giống và khai thác các hoạt động sống của vi sinh vật, tế bào và cơ thể sống của động thực vật ở quy mô sản xuất công nghiệp. Công nghiệp công nghệ sinh học hiện đại chỉ có thể hình thành và phát triển trên cơ sở của những thành tựu khoa học tự nhiên và công nghiệp. Cho nên, công nghiệp công nghệ sinh học phải bao hàm tổng hoà những thành tựu khoa học và công nghệ như tin học, điện tử, điều khiển học, vật liệu mới, hoá học... Nếu thiếu một trong các yếu tố đó thì không thể tạo ra một ngành công nghệ sinh học hiện đại.
Đối với nông nghiệp Việt Nam chủ trương phát triển cả 3 loại hình công nghiệp công nghệ sinh học nông nghiệp như:
- Xây dựng mạng lưới các cơ sở sản xuất trung bình và nhỏ từ trung ương đến địa phương như: Các phòng thí nghiệm sản xuất, các pilot (sản xuất bán công nghiệp), các trạm trại, vườn ươm tạo giống và nhân giống cây trồng, vật nuôi.
- Xây dựng các xí nghiệp lớn là các xí nghiệp công nghiệp lên men chế biến nông sản và chế biến thức ăn giàu chất dinh dưỡng...
- Xây dựng các tổ hợp hoặc thành phố công nghiệp công nghệ sinh học quy hoạch theo vùng kinh tế sinh thái trong tương lai.
Để phát triển công nghiệp công nghệ sinh học nông nghiệp, thì Việt Nam phải dựa vào những tiềm năng sẵn có, mà khai thác một cách có hiệu quả diện tích đất canh tác, thông qua hệ thống giống (cây trồng, vật nuôi và chủng loại vi sinh vật vật mới). Đồng thời, dựa vào tiềm năng, thế mạnh của nền nông nghiệp Việt Nam là nguồn nhân lực dồi dào và có học thức khá (6-7triệu thanh niên nông dân đang còn thiếu việc làm), (có hơn 10 triệu ha đất chưa được khai thác)... Công nghiệp công nghệ sinh học phải đảm bảo thu hút với quy mô lớn các nguyên vật liệu nông sản thô, từ đó tạo ra những sản phẩm chế biến với chất lượng cao, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp lớn, các khu công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp, các thị trường dịch vụ nông nghiệp trong nước và quốc tế.
Phát triển công nghiệp công nghệ sinh học luôn phải liên kết chặt chẽ với an ninh quốc gia và bảo vệ môi trường sinh thái, thường xuyên kiểm tra, kiểm soát và xử lý các nguồn gây ô nhiễm dịch bệnh. Đồng thời cần quan tâm bồi dưỡng, đào tạo, khai thác và sử dụng nhân tài được coi là yếu tố then chốt nhất trong phát triển công nghiệp công nghệ sinh học nông nghiệp.
Nhiệm vụ phát triển công nghiệp công nghệ sinh học nông nghiệp của Việt Nam trong thời gian tới là: Xây dựng cơ sở vật chất và tiềm năng con người trong lĩnh vực nghiên cứu, triển khai và sản xuất theo phương thức công nghệ các sản phẩm công nghệ sinh học nông nghiệp; xây dựng các tổ hợp nghiên cứu và sản xuất công nghệ sinh học nông nghiệp thuộc lĩnh vực giống cây trồng vật nuôi, công nghiệp vi sinh chế biến nông sản, vi sinh bảo vệ thực vật, thuốc thú y và chế biến thức ăn gia súc; xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao sản xuất rau quả ở Hà Nội, các tỉnh đồng bằng sông Hồng, Đà Lạt, Sa Pa, Mộc Châu và các trung tâm sản xuất giống, chế biến thức ăn nuôi trồng thuỷ hải sản ở vùng Duyên Hải.
Trong tương lai, Việt Nam sẽ xây dựng các khu công nghiệp sản xuất cây ăn quả có quy mô lớn như vùng trồng cam với 20.000 ha ở các tỉnh miền núi phía Bắc; 10.000 ha cam ở Phủ Quỳ, Nghệ An; 10.000 ha bưởi Đoan Hùng, Phúc Trạch, Năm Roi...
Phát triển công nghiệp công nghệ sinh học nông nghiệp đóng vai trò là công nghệ chìa khoá để hiện đại hoá công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn. Tuy nhiên, đối với nước ta, công nghiệp công nghệ sinh học hãy còn là một ngành kinh tế mới hình thành, cho nên cần có những biện pháp cụ thể, nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, vận dụng sáng tạo và khẩn trương đào tạo nguồn nhân lực trong thời gian tới. Thực hiện liên doanh sản xuất và chuyển giao công nghệ sinh học tiên tiến từ nước ngoài vào Việt Nam và coi đây là một biện pháp phát triển nhanh.
IV. Kết luận
Hiệu quả Kinh tế xã hội của sự phát triển công nghiệp công nghệ sinh học nông nghiệp là xây dựng một nền nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh thái bảo đảm tính bền vững của quá trình phát triển nông nghiệp với quy mô sản xuất lớn, phù hợp với đường lối phát triển kinh tế mà Đảng và Chính phủ đã nêu trong nghị quyết đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX là thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn Việt Nam.
Đối với em sau khi làm xong bài này em cũng thấy được tầm quan trọng hơn của tri thức khoa học công nghệ. Là một doanh nhân tương lai em thấy mình cần phải học tập thật tốt để sau này có thể góp một phần công sức cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.
V. Các tài liệu sử dụng
Tạp chí đảng cộng sản số 52
Tạp chí triết học số 47, 49, 50
Báo cao chính trị đại hội đại biểu lần thứ X
Bộ tư bản ( C.Mác )
Một số thông tin trên các website:
Trang wed: bai "Phát triển công nghệ sinh học vai trò đối với nền nông nghiệp Việt Nam"
M ỤC L ỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22512.doc