MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
1. KHÁI NIỆM TRI THỨC VÀ KẾT CẤU CỦA NÓ .2
a) Khái niệm tri thức .2
b) Kết cấu của tri thức .2
2. VAI TRÒ CỦA TRI THỨC VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI .4
a) Về mặt vật chất .4
b) Về mặt tinh thần .5
c) Hiệu quả tư duy .5
3. VAI TRÒ CỦA TRI THỨC VỚI HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI .6
a) Tri thức và triển vọng ra đời một xã hội mới: xã hội giàu có - công bằng - văn minh - dân chủ .6
b) Tri thức trong việc ứng dụng các phát minh sáng chế trong các lĩnh vực: sinh học, công nghệ, môi trường, thông tin liên lạc, giao thông vận tải .7
4. VAI TRÒ CỦA TRI THỨC VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ .7 a) Tri thức là động lực nõng cao sức sản xuất và thực hiện sự tăng trưởng kinh tế .7
b) Cỏc đặc trưng cơ bản .8
c) Những chuyển biến trong nền kinh tế 9
5. KẾT LUẬN .11
6. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .13
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 16013 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vai trò của tri thức trong đời sống xã hội và sự phát triển kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc vào thời đại “Tri thức lớn” vô cùng mới mẻ.
Tri thức với hệ thống “Tri thức lớn” lấy khoa học kĩ thuật và văn hoá tư tưởng làm chủ thể, đã giữ vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển của nền văn minh xã hội loài người. Trong khoảng 50 năm trở lại đây, những phát minh khoa học kĩ thuật và những thành tựu về văn hoá tư tưởng do loài người sáng tạo ra còn nhiều hơn kết quả mà loài người đã đạt được trong khoảng 3000 năm trước. Lượng tri thức tăng như vũ bão, khối lượng thông tin cứ 10 năm thậm chí có lĩnh vực chỉ 5 năm lại tăng lên gấp đôi. Cuộc cách mạng công nghiệp và nền văn minh công nghiệp 200 năm trước đã làm cho sức sản xuất xã hội tăng 100 lần, vậy mà vi điện tử, vi kĩ thuật, vi tuần hoàn, vi mạch chỉ trong vòng 10 năm trở lại đây đã làm cho sức sản xuất tăng một triệu lần. Trong sự tăng trưởng nhanh chóng, tổng sản phẩm quốc dân toàn cầu (GNP) từ 5% ở đầu thế kỷ XX lên tới 85% ở đầu thế kỷ XXI này và tri thức đã trở thành nguồn của cải chính của xã hội và động lực chủ yếu của văn minh. Do sức sản xuất tri thức (khoa học, kỹ thuật, văn hoá) ở thế kỷ XX phát triển cực mau lẹ, tri thức đã biến không thành có, trở thành sức đẩy số một, sức sản xuất số một trong sự tiến bộ của xã hội loài người. Chính vì vậy, chúng ta có đủ lí do để khẳng định rằng xã hội loài người đang tiến tới. Xã hội tri nghiệp và nền văn minh nhân loại đang tiến tới nền văn minh tri thức. Sau đây, chúng ta sẽ cùng làm rõ hơn vai trò to lớn mà tri thức mang lại cho con người, xã hội và nhất là với sự phát triển cực mau lẹ của nền kinh tế như hiện nay.
1. Khái niệm tri thức và kết cấu của nó:
a) Khái niệm tri thức:
- Tri thức là sản phẩm của hoạt động trí tuệ của con người. Vì vậy là sản phẩm quý báu nhất của con người. Điểm khác biệt lớn nhất giữa người và động vật là ở chỗ con người có khả năng tích luỹ kinh nghiệm, hình thành tri thức. Có thể nói kể từ khi loài người xuất hiện trên Trái ĐẤT LÀ BẮT ĐẦU CÓ TRI THỨC VÀ CÙNG VỚI SỰ TIẾN HOÁ CỦA LOÀI NGƯỜI, tri thức được tích luỹ, phát triển và nhân lên mãi mãi. Lịch sử văn minh của loài người chính là do tri thức đan bện mà thành. Nhờ có quá trình lĩnh hội, tích luỹ, sử dụng và truyền thụ tri thức đã làm cho con người vượt lên trên muôn loài, đứng ở đỉnh cao của bậc thang tiến hoá. Nhà triết học nổi tiếng Anh Kark Popper đã nói: “Giả dụ nhân loại bị mét tai nạn khủng khiếp nào đó, toàn bộ hệ thống kĩ thuật của hình thái vật chất đều bị tiêu huỷ sạch, chỉ còn lại hệ thống tri thức của hình thái tinh thần như thư viện chẳng hạn với khả năng học tập của con người, thì sau một quá trình phấn đấu gian khổ, con người lại vẫn có thể tái tạo văn minh, tiếp tục tiến lên ở một trình độ khá cao”. Qua đây ta có thể thấy rõ vai trò của tri thức trong lịch sử văn minh, tri thức là tài sản quý báu nhất của loài người và sách vở là bậc thang của sự tiến bộ loài người.
- Thời kỳ nguyên thuỷ, tri thức được tích luỹ rất ít, một số ít thông tin được ứng dụng vào sản xuất, yếu tố sản xuất chỉ là đất đai và sức lao động. Dần dần, kỹ thuật phát triển, tri thức được tích luỹ tương đối nhiều, một lượng trung bình thông tin được ứng dụng vào sản xuất, tri thức được dùng nhưng vẫn còn tương đối ít, được dùng gián tiếp vảo sản xuất, kỹ thuật.
Và đến thời kỳ bùng nổ thông tin các phát minh sáng chế, cách mạng khoa học kỹ thuật, một lượng siêu lớn thông tin được ứng dụng trực tiếp vào sản xuất, khoa học và kĩ thuật là sức sản xuất hàng đầu. Do vậy, tri thức là nhận thức và kinh nghiệm mà loài người thu được trong quá trình cải tạo thế giới.
b) Kết cấu của tri thức:
- Sự giao thoa hiện nay giữa các bộ môn xã hội là một xu thế thế giới lớn không có cách gì ngăn cản nổi. Xu thế ấy đòi hỏi phải có những tri thức cơ sở sâu rộng và vững chắc chỉ có như vậy mới có thể hoà nhập các bộ môn khoa học. Chẳng hạn, sự phát triển của địa chất học trước sau trải qua ba lần đột phá quan trọng: Lần thứ nhất đưa sinh học vào trong địa chất học căn cứ vào sự tiến hoá của sinh vật cổ đại xác định thứ tự trước sau của địa tầng, hình thành “quan điểm địa sinh học”. Lần thứ hai đưa hoá học vào trong địa chất học, phân tích cấu tạo hoá học và sự biến đổi hoá học của các bộ phận Trái Đất hình thành “quan điểm địa hoá học. Lần thứ ba đưa vật lí học vào trong địa chất học, nghiên cứu sự biến đổi của Trái Đất thông qua cấu tạo và các quá trình vật lí trong lòng Trái Đất, hình thành “quan điểm địa vật lí”.Các bạn thử tưởng tượng nếu như nhà nghiên cứu địa chất học không đồng thời có những tri thức cơ sở vững chắc về sinh học, hoá học, vật lí học thì làm sao có thể ứng dụng lý luận và kĩ thuật của sinh học, hoá học, vật lí học và địa chất học, từ đó đẩy mạnh sự phát triển của địa chất học? Rõ ràng, ở đây đòi hỏi phải có những tri thức cở sở rộng và sâu.
- Không có tri thức chuyên môn sâu sắc dĩ nhiên không thể trở thành nhân tài kiệt xuất trong lĩnh vực chuyên môn đó được. Thế nhưng, một trong những đặc trưng quan trọng của sự phát triển tri thức hiện đại là tính tổng hợp. Đặc trưng này đòi hỏi kết cấu tri thức không thể chỉ bó hẹp ở một lĩnh vực chuyên môn nào đó mà phải vừa có tầm sâu vừa có bề rộng, kết hợp giữa sâu và rộng.
- Trong cuộc sống có rất nhiều sự kiện cho thấy rằng nắm vững thêm một lĩnh vực tri thức và kinh nghiệm phong phú càng dễ dàng nảy sinh trong trí óc những liên tưởng mới và những ý tưởng độc đáo hơn so với những người chỉ có một loại tri thức và kinh nghiệm. Một người có tương đối nhiều tri thức về cấu tạo không gian thì trí tưởng tượng không gian mạnh mẽ hơn và phong phú hơn rất nhiều so với những người chỉ biết chỉ nhìn thấy hình học phẳng, chỉ có những tri thức về cấu trúc hai mặt mà thôi. Nếu chỉ bó hẹp trong việc nghiên cứu một lĩnh vực chuyên môn hạn chế, tri thức cũng chỉ đóng khung ở đó, sẽ rất khó vươn dài tư duy của mình sang các lĩnh vực khác, đồng thời hấp thụ những kiến thức, những chất dinh dưỡng, những gợi mở bắt ngờ từ các lĩnh vực khoa học ấy. Vì thế, những nhà khoa học có những cống hiến độc đáo đều là những con người có diện tri thức rộng và đa dạng. - Kiểu mạng nhện:
Mô hình kết cấu tri thức này lấy tri thức chuyên môn của mình làm trung tâm, còn những tri thức lí luận ứng dụng gần với chuyên môn, trực tiếp tác dụng đến chuyên môn thì xem như những nút mạng, sau nữa đến các tri thức tương đối xa chuyên môn, gián tiếp ảnh hưởng đến chuyên môn thì xem như ngoại vi mạng. Như thế sẽ tạo thành một kết cấu tri thức kiểu mạng nhện từ trung tâm toả ra xung quanh. Đặc điểm chủ yếu của kết cấu tri thức kiểu này là thiên về địa vị hạt nhân của tri thức chuyên môn, nhấn mạnh đến việc phát huy tác dụng của tri thức chuyên môn.
- Kiểu bảo tháp:
Mô hình kết cấu tri thức này được xây dựng trên cơ sở xác định mục tiêu, chia tri thức ra thành 4 tầng: tri thức cơ sở chung, tri thức cơ sở chuyên môn, tri thức chuyên môn và tri thức chuyên môn chủ yếu, theo thứ tự từ dưới lên, giống như một hình bảo tháp. Đặc điểm của mô hình này thiên về việc coi trọng bề rộng của tri thức cơ sở, chú ý tầm sâu của tri thức chuyên môn, nhấn mạnh mục tiêu rõ ràng, ra sức phấn đấu, bồi bổ tri thức, cuối cùng đến thành công.
- Kiểu bức rèm:
Mô hình kết cấu tri thức này nhấn mạnh sự tổ hợp hữu cơ giữa kết cấu tri thức cá thể với kết cấu tri thức tập thể, thể hiện tình hình phân bố tri thức của các thành viên của các tầng bậc khác nhau. Tất cả đan xen, phối hợp, thống nhất phủ kín suốt từ trên xuống dưới chẳng khác gì một bức rèm. Tóm lại, đặc điểm của kết cấu tri thức này thể hiện tính thống nhất hữu cơ giữa kết cấu tri thức cá thể và tập thể cũng như giữa sự khác biệt về kết cấu tri thức của nhân tài.
2. Vai trò của tri thức với hoạt động của con người:
a) Về mặt vật chất:
- Nhờ có tri thức giúp phát triển kinh tế, cải tiến các phương thức sản xuất làm năng suất lao động tăng cao, mọi người có việc làm ổn định với mức sống cao hơn, đời sống vật chất cũng nhờ đó được cải thiện một bước đáng kể. Nhu cầu ăn mặc, ở, đi lại được đáp ứng ngày một tốt hơn. Các trung tâm dịch vụ ra đời ngày càng nhiều, cạnh tranh nhau sẵn sàng phục vụ mọi người một cách đầy đủ nhất. Như giờ đây ta có thể ngồi ngay tại nhà và chỉ với một cuộc điện thoại sẽ được phục vụ tận nhà. Sự ra đời ngày càng nhiều của các cửa hàng, siêu thị với khả năng sáng tạo cách thức buôn bán phù hợp với nhu cầu của khách hàng cũng làm mọi người thoải mái và vì đó chú trọng chăm sóc bản thân mình hơn như nhu cầu ăn uống, làm đẹp,… Tóm lại, tri thức đã góp phần đáng kể trong việc tạo ra của cải vật chất phục vụ con người và con người luôn không ngừng sáng tạo, sử dụng tri thức để tạo ra của cải vật chất phục vụ cho chính lợi ích của mình.
b) Về mặt tinh thần:
- Trong lĩnh vực sáng tạo văn hoá mà ở đó con người có vị trí quan trọng, phải trước tiên đến lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Trung Quốc vốn được xem là cái nôi của nền văn minh nhân loại, đã phát minh sáng chế ra nhiều công nghệ có cơ sở khoa học cần thiết cho một cuộc cách mạng có giá trị công nghiệp, nhưng đến nay vẫn chịu sự lạc hậu sau nhiều nước châu Âu. Trong khi đó cũng ở châu A, người ta thường nói đến nước Nhật, một nước chẳng có phát minh sáng chế gì lớn cũng xuất phát điểm từ một nước lạc hậu ở châu A, nhưng nhờ chính sách mở cửa sớm với thế giới, có ý thức học tập và nhập khẩu công nghệ mới từ phương Tây nên đã trở thành một nước có nền công nghiệp rất phát triển. Qua đó cho thấy đội ngũ tri thức không chỉ tác động vào sự nghiệp phát triển giáo dục, đào tạo mà bản thân giáo dục đào tạo cũng tác động đến việc phát triển đội ngũ tri thức. Đó là hai mặt có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Cho nên khi nói con người có trách nhiệm quan trọng với sự nghiệp giáo dục cũng chính là trách nhiệm với bản thân sự nghiệp phát triển của đội ngũ tri thức.
- Khi nói đến vai trò đội ngũ tri thức trong sáng tạo văn hoá, giữ vững nền tảng tinh thần xã hội và phát huy bản sắc dân tộc thì không phải chỉ thấy tri thức mới có vai trò sáng tạo văn hoá mà chỉ là muốn nhấn mạnh vai trò quan trọng của con người trong sự nghiệp sáng tạo văn hóa. Vì thế, chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa. Những câu tục ngữ, những câu vè rất hay là những sáng tạo của quần chúng”.[Hồ Chí Minh - toàn tập, nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội, 2000, tập 9, trang 250]. Bằng lao động trí tuệ, con người sáng tạo ra những sản phẩm tinh thần như những phát minh khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật, những công trình khoa học, công nghệ, những tác phẩm khảo cứu, dịch thuật, những giáo trình và sách giáo khoa. Và rất nhiều loại hình sản phẩm văn hoá, khoa học, nghệ thuật khác. Và cũng chính nhờ đó đáp ứng một cách đầy đủ hơn nhu cầu tinh thần của con người về vui chơi và giải trí.
c) Hiệu quả tư duy:
Hiệu quả tư duy của con người thể hiện ở các khả năng sau:
- Khả năng tiếp thu tri thức.
- Khả năng tiếp thu và xử lí thông tin;
- Khả năng đổi mới.
- Khả năng diễn đạt tư duy.
- Khả năng quản lí khoa học.
- Khả năng giao tiếp.
3) Vai trò của tri thức với hoạt động xã hội:
a) Tri thức và triển vọng ra đời một xã hội mới: xã hội giàu có - công bằng - văn minh - dân chủ:
- Thứ nhất, đem lại sự giàu có với mức sống đầy đủ cho mọi người. Tri thức đem lại cho đất nước khả năng giải quyết các vấn đề về xã hội, đảm bảo sự phát triển các lĩnh vực giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, hạn chế và kiểm soát được tỉ lệ tăng dân số. Nhờ đó, giải quyết cơ bản vấn đề việc làm và nâng cao chất lượng cuộc sống. Mặt khác nhà nước có đủ khả năng cung cấp cho mọi người chỗ ở cơ bản, nhà riêng hoặc chung cư, tạo điều kiện và có thể chế đảm bảo cho mọi người được tiếp cận với các tiện nghi chăm sóc sức khoẻ ban đầu và đảm bảo các nhu cầu thiết yếu. Trẻ em đến tuổi đều được đi học, có chỗ vui chơi, giải trí để mơ ước, sáng tạo.
- Thứ hai, biến đổi cơ cấu xã hội, dân cư đòi hỏi sự phân phối công bằng về kinh tế. Căn cứ vào hiện tượng nhiều nhà máy có trình độ tự động hóa cao, công nhân lao động giản đơn hầu như không còn chỗ đứng, thay vào đó là những công nhân “cổ trắng” có người nghĩ rằng tri thức sẽ thay thế công nhân và trở thành một giai cấp đặc biệt trong xã hội hiện đại, như điều dự báo trong bài báo: “Chủ nghĩa tư bản trong thời đại toàn cầu hoá, tri thức sẽ ngày càng trở thành tiền vốn của tương lai và khi đó một xã hội có giai cấp kiểu khác có thể trở thành một mối nguy chung. Lúc đó, không phải chỉ có tư bản và lao động đối mặt với nhau mà là một giai cấp bề trên giàu trí tuệ đối mặt với quần chúng lao động không có việc làm”[Tin tham khảo chủ nhật - Tuần báo Tấm gương số 31 - 1997]. Mặt khác, sự chênh lệch trình độ phát triển giữa các vùng được thu hẹp. Một mạng lưới các đô thị quy mô trung bình và nhỏ phát triển gắn với các hoạt động sản xuất công nghiệp và dịch vụ, phân bố tương đối đồng đều làm thu hẹp sự khác biệt giữa các vùng, tạo điều kiện và kích thích sự phát triển của khu vực nông thôn, giảm sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị.
- Thứ ba, tạo lập nền văn minh mới mang tính nhân văn trong quan hệ giữa con người và tính chất bền vững trong quan hệ với tự nhiên. Đó là bảo đảm sự phát triển hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái. Trong lĩnh vực lâm nghiệp, kết hợp bảo vệ tài nguyên rừng với thực hiện phủ xanh đất trống đồi trọc. Các đô thị hoá, cũng như quá trình hội nhập quốc tế được kiểm soát chặt chẽ về mặt môi trường, tránh gây những hậu quả cho sự phát triển chung.
b) Tri thức trong việc ứng dụng các phát minh sáng chế trong các lĩnh vực: sinh học, công nghệ, môi trường, thông tin liên lạc, giao thông vận tải:
- Về công nghệ sinh học:
Ưng dụng, phát triển các ngành sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và chế biến thực phẩm, nâng cao sức khoẻ của người dân, bảo vệ môi trường sinh thái.
- Về công nghệ, thông tin:
Xây dựng một kết cấu hạ tầng mới cùng với kết cấu hạ tầng truyền thống (giao thông, vận tải, năng lượng…), kết cấu hạ tầng thông tin là tiền đề, là điều kiện quan trọng để mở rộng cho việc phổ cập các công nghệ tiên tiến trong các ngành sản xuất, dịch vụ, quản lí công cộng, điều hành xã hội.
- Về tài nguyên, môi trường:
Nghiên cứu các giải pháp khoa học và công nghệ nhằm khai thác hợp lí, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái. Ưng dụng những công nghệ mới trong kiểm soát và xử lí ô nhiễm môi trường.
- Về quốc phòng, an ninh:
Tổ chức điều tra, nghiên cứu các vấn đề khoa học và công nghệ phục vụ quốc phòng - an ninh, bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, đảm bảo an ninh, trật tự và an toàn xã hội.Ưng dụng các công nghệ tiên tiến trong sản xuất, sửa chữa, bảo trì các loại vũ khí, quân trang, quân dụng.
- Về y tế và bảo vệ sức khoẻ:
Nghiên cứu các vấn đề y sinh cơ bản, ảnh hưởng của môi trường tới sức khoẻ, các bệnh nhiễm vi khuẩn chủ yếu, ngăn chặn AIDS, cải thiện tình trạng suy dinh dưỡng, kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền ứng dụng các công nghệ tiên tiến trong sản xuất thuốc.
4. Vai trò của tri thức với phát triển kinh tế:
a) Tri thức là động lực để nâng cao sức sản xuất và thực hiện sự tăng trưởng kinh tế:
Những năm 60 của thế kỷ XX tới nay, tri thức khoa học tăng trưởng rất lớn, sự thẩm thấu và kết hợp lẫn nhau giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, giữa khoa học và kĩ thuật tiên tiến cho khoa học, kĩ thuật hiện đại trở thành một hệ thống tri thức thống nhất với nhiều bộ môn khoa học và nhiều tầng bậc chuyên môn. Trong lịch sử, tri thức luôn là một nhân tố quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, nhưng từ trước đến nay chưa hề có nhiều lao động tri thức như bây giờ và cũng chưa từng có việc truyền bá tri thức nhanh như bây giờ thông qua máy tính và internet. Nhìn chung, cung cấp tri thức không gây ra cho người cung cấp sự nghèo đói mà ngược lại chia sẻ tri thức thường lại có thể là nguồn gốc đem lại sự giàu có.
Hiện nay khi khoa học công nghệ phát triển tới trình độ cao, đòi hỏi một trình độ học vấn sâu rộng đối với người lao động và thu hẹp nhanh chóng ranh giới giữa lao động chân tay với lao động trí óc. Do đó, trong thời đại của chúng ta khi khoa học và công nghệ tiên tiến đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực cuộc sống xã hội, việc chia người lao động thành lao động trí óc và lao động chân tay ở công trường nhà máy, ngoài đồng ruộng cũng như ở mọi lĩnh vực cuộc sống, dù là người lao động giản đơn nhất dần dần được tri thức hoá. Nếu không có kiến thức nhất định về một nghề nghiệp nào đó thì người lao động sẽ không có chỗ đứng trong xã hội. Tại nhiều nước phát triển trong khi các khu vực sản xuất truyền thông đang phải liên tục cắt giảm lượng nhân công thì những ngành thông tin, dược,… lại đang trong tình trạng khan hiếm lao động kĩ thuật từ nước ngoài. Chính vì vậy, tri thức thực tại được coi như một động lực thúc đẩy cho sự phát triển sức sản xuất và tăng trưởng kinh tế.
b) Các đặc trưng cơ bản:
- Thứ nhất, tri thức khoa học công nghệ cùng với lao động kĩ năng là lực lượng sản xuất thứ nhất là lợi thế quyết định. Trí tuệ con người được thể hiện trong tri thức khoa học và công nghệ cùng với kĩ năng lao động cao là lợi thế có ý nghĩa quyết định triển vọng phát triển của mọi quốc gia hay cụ thể hơn của mỗi con người trong thời đại ngày nay. Lịch sử phát triển hiện đại chứng tỏ rằng các lợi thế tự nhiên (tài nguyên, nguồn nhân lực rẻ do thiếu kĩ năng, lao động giản đơn thuần tuý) ngày càng giảm bớt vai trò trong phát triển. Trong khi đó trình độ khoa học kĩ thuật và nguồn nhân lực tri thức ngày càng đóng vai trò quyết định khẳng định trong cuộc tranh đua - cạnh tranh phát triển. Trong nền kinh tế tri thức vừa được sử dụng để quản lí, điều khiển, tham gia vào quá trình sản xuất như công cụ sản xuất, vừa trực tiếp là thành tố trong sản phẩm như nguyên liệu sản xuất. Tri thức để xử lí tri thức, để làm ra tri thức, tri thức quản lí điều hành. Còn quá sớm để dự báo những thay đổi quan hệ sản xuất trong tương lai nhưng chắc chắn tri thức sẽ dẫn đến những thay đổi triệt để và hết sức sâu rộng trong phát triển nền kinh tế.
- Thứ hai, tri thức trở thành nội dung chủ yếu của sản xuất, phân bố tiêu dùng. Trong nền kinh tế yếu tố sản xuất quý nhất, động lực quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế là tri thức, lao động có trình độ và kĩ năng cao. Tri thức trở thành nội dung chủ yếu của sản xuất, phân phối và tri thức. Chức năng của nền sản xuất hiện đại là sản xuất và phân phối vật chất. Tri thức là nguồn lực hàng đầu tạo nên sự tăng trưởng kinh tế. Sự cống hiến của tri thức và kĩ thuật đối với tăng trưởng kinh tế ngày càng lớn, rất nhiều ngành nghề trong nông nghiệp và công nghiệp đang trở thành những ngành nghề trí tuệ. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang dần dần làm mất chỗ đứng của người lao động giản đơn và thay vào đó là những công nhân có tri thức và tay nghề cao cùng những kĩ sư, những trí thức thực thụ. Điều đó cho thấy nền kinh tế ngày càng phải dựa vào “chất xám” để phát triển. Chất xám ngày càng cao, trí tuệ ngày càng sâu sắc, tri thức càng có vị trí trong sản xuất, phân bố tiêu dùng và không thể thiếu trong xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
- Thứ ba, tri thức không những có vai trò sáng tạo, truyền bá mà còn có vai trò truyền thông, nguồn lực của sản xuất. Do vậy đầu tư phát triển tri thức là đầu tư chủ yếu. Điều này không có nghĩa là nền kinh tế không cần vốn, nguồn tài nguyên thiên nhiên và nhân lực nữa. Trái lại, các yếu tố này về mặt giá trị còn được đầu tư với số lượng đáng kể hơn, thậm chí đối với trang thiết bị máy móc công nghệ cao cần được đầu tư với một số lượng vốn rất lớn song vốn vô hình (như thông tin, kĩ năng, lao động công nghệ,…) còn có giá trị cao hơn gấp bội trở thành yếu tố quan trọng nhất, phần vốn cơ bản nhất trong sự phát triển kinh tế.
c) Những chuyển biến trong nền kinh tế:
- Khu vực công nghệ thông tin truyền thông trên toàn thế giới tăng trưởng mạnh trong suốt thập kỉ qua nhất là ở các nước tư bản phát triển. Việc làm trong khu vực công nghệ thông tin truyền thông cũng tăng mạnh hơn các khu vực kinh tế khác. Sản lượng của khu vực công nghệ thông tin tăng nhanh đồng nghĩa với việc sự tăng trưởng mạnh về số lượng việc làm của khu vực này, con số này bao gồm công nhân trong các ngành sản xuất công nghệ thông tin và các ngành khác như phân tích hệ thống, xử lí máy tính hay vận hành và bảo quản hạ tầng công nghệ thông tin trong các cơ sở sản xuất không thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin kết hợp với công nhân truyền thông đã tạo ra mạng Internet. Ơ Mỹ tỉ trọng tuyệt đối của khu vực Internet trong nền kinh tế Mỹ còn tăng với tốc độ cao hơn năm 1999 tăng 62% so với năm 1998. Mức lương trong ngành công nghệ thông tin cũng luôn cao hơn so với mức lương trung bình (hơn 85% so với mức lương trung bình của một công nhân thuộc khu vực tư nhân). Và tất yếu đầu tư vốn cho công nghệ thông tin cũng chiếm tỉ lệ lớn hơn tổng số đầu tư của khu vực tư nhân. Qua đó cho ta thấy được vai trò nổi bật của khu vực công nghệ tin tức truyền thông.
- Trong lĩnh vực tài chính cũng có nhiều biến đổi. Làn sóng công nghệ mới và các ý tưởng sáng tạo không thể ra đời và thương mại hoá nếu không có một môi trường tài chính thuận lợi, đúng hơn là nếu không đi kèm với những đổi mới trong khu vực tài chính. Một loạt các công cụ tài chính mới đã ra đời và đổi mới để hỗ trợ cho làn sóng công nghệ mới. Như vậy có thể thấy rằng môi trường tài chính đóng vai trò quyết định cho quá trình đổi mới trong nền kinh tế. Sự sáng tạo và đổi mới là “linh hồn” của một nền kinh tế dựa trên tri thức đang phôi thai.
- Sự biến đổi của mô hình sản xuất và kinh doanh:
Thứ nhất đó là xu hướng tổ chức sản xuất có sự phân tách “tư duy” và “hành động” giữa kĩ sư quản lí với kĩ sư chuyên môn hóa, giữa kĩ sư quản lí với các công nhân không có tay nghề. “Tư duy” và “hành động” sản xuất được tái hợp nhằm tận dụng trí thông minh và năng lực của công nhân sản xuất để giải quyết các vấn đề tại xưởng sản xuất.
Thứ hai,đó là xu hướng giới hạn trách nhiệm công việc của công nhân và tăng cường chuyên môn hoá công việc càng nhiều càng tốt nhằm tối đa hoá tính kinh tế nhờ quy mô tiềm năng.
Thứ ba, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của hoạt động đổi mới liên tục, không chỉ đổi mới trong sản phẩm thông qua việc thích ứng với sự thay đổi của nhu cầu mà phải đổi mới trong cách thức sản xuất, sử dụng công nghệ mới và các phương pháp mới để tổ chức và kinh doanh.
5. Kết luận:
- Các bậc tiền bối của chúng ta đã có nhiều suy ngẫm thiên tài đẹp đẽ về xã hội tương lai, nhưng dù tư tưởng đại đồng ở thời đại nông nghiệp hay nhà nước lí tưởng Utopia ở thời đại công nghiệp e rằng cũng chưa thể tưởng tượng ra rằng xã hội tương lai sẽ là xã hội tri thức. Cũng giống như cuộc cách mạng nông nghiệp và công nghiệp, cuộc cách mạng tri thức sau khi tạo ra sức sản xuất như nước vỡ bờ, cũng sẽ xác lập nền kinh tế chính trị của chính minh. Đây không đơn thuần chỉ là một cuộc cách mạng kinh tế, mà còn là một cuộc cách mạng xã hội có ảnh hưởng sâu sắc. Trong cuộc cách mạng xã hội này, quan hệ kinh tế, tình trạng giai cấp, phương thức tư duy, tập quán sinh hoạt, quan niệm giá trị đều thay đổi về cơ bản. Sự hiện đại hoá nền công nghiệp không phải là hình thái xã hội lí tưởng hoá của loài người, nó làm bộc lộ nhiều vấn đề: sự tranh cướp tài nguyên mâu thuẫn giai cấp và những căn bệnh văn minh sẽ làm cho xã hội mới tan ra trên quy mô lớn. Tất cả các quốc gia và cá nhân sẽ bị cuốn vào một cuộc “đại cách mạng tri thức trên con đường tiến tới xã hội tri thức”.
- Thời đại công cụ kéo dài niên miên trong lịch sử, đổi mới tri thức là sự ngẫu nhiên, tri thức vô cùng hạn hẹp, nhân loại tiến bộ rất chậm chạp. Mặc dù vậy, cách chúng ta một vạn năm về trước, loài người đã bắt đầu đổi mới tri thức nông nghiệp nguyên thuỷ. Cùng với sự đổi mới, truyền bá và ứng dụng tri thức nông nghiệp, loài người tiến vào thời đại văn minh nông nghiệp, tiến trình của văn minh được đẩy nhanh. Cuộc cách mạng công nghiệp xảy ra trên 20 năm trước thực chất là cuộc cách mạng văn minh do sự đổi mới, truyền bá và ứng dụng tri thức kĩ thuật tạo ra, đưa nhân loại tiến vào nền văn minh công nghiệp. Sự đổi mới tri thức ở thời đại tri thức tất yếu, sẽ dẫn tới “vụ nổ lớn tri thức”.
- Tri thức và cơ hội cho Việt Nam:
Trong hơn nửa thế kỉ qua, tri thức nước ta phát triển rất nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng. Ngay nay tri thức có mặt trong hầu hết các lĩnh vực hoạt động xã hội. Tri thức không những trong các ngành giáo dục, văn hoá, khoa học mà còn tham gia vào nhiều lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong lĩnh vực kinh tế quốc doanh. Số tri thức làm công tác lãnh đạo, công tác quản lí xã hội gia tăng nhanh. Xu hướng “đại học hoá” sẽ quan trọng trong các lực lượng vũ trang, trong cán bộ, nhân viên bộ máy các cơ quan chính quyền, đoàn thể phát triển mạnh mẽ.
Bằng lao động tinh thần của mình, tri thức đã tạo ra những giá trị tinh thần và vật chất cơ bản bảo tồn và phát triển các giá trị văn hoá dân tộc, góp phần quan trọng vào việc bồi dưỡng, đào tạo con người với tư cách là yếu tố cơ bản nhất của lực lượng sản xuất. Tri thức ngày nay đóng vai trò quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội.
Tri t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vai trò của tri thức trong đời sống xã hội.DOC