- Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại không mang ý chí quyền lực nhà nước mà chủ yếu được giải quyết dựa trên nền tảng ý chí tự định đoạt của các bên tranh chấp hoặc phán quyết của bên thứ ba độc lập theo thủ tục linh hoạt mềm dẻo, từ đó đảm bảo tối đa quyền định đoạt của các bên tranh chấp.
- Thủ tục giải quyết đơn giản, thuận tiện giúp cho việc giải quyết tranh chấp nhanh gọn, dứt điểm, hiệu quả.
- Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mai còn đảm bảo tối đa uy tín cũng như bí mật của các bên tranh chấp, góp phần củng cố và duy trì mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa các bên.
- Việc xét xử bằng cơ chế trọng tài tuân theo nguyên tắc xét xử một lần nên quyết định của trọng tài thương mại có giá trị chung thẩm.
- Ngoài ra, giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài thương mại còn có một sô ưu điểm khác như: trình độ chuyên môn của trọng tài viên (Trình độ của các trọng tài viên thường là tiến sĩ, thấp cũng là cao học và hầu hết đều được đào tạo ở nước ngoài); tính độc lập trong tố tụng, .
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10437 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vai trò của trọng tài và ưu điểm trong giải quyết các tranh chấp thương mại bằng trọng tài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, một hành lang pháp lý an toàn về vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại ngày một lớn.
2.2. Khái niệm tranh chấp thương mại theo luật trọng tài thương mại 2010.
Luật trọng tài thương mại 2010 không nêu định nghĩa về tranh chấp thương mại mà chỉ nêu đối tượng thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài bao gồm:
- Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
- Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.
- Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.
3. Giải quyết tranh chấp thương mại
3.1. Quan niệm về giải quyết tranh chấp thương mại
Tranh chấp là hệ quả tất yếu xảy ra trong hoạt động kinh doanh và vì vậy giải quyết tranh chấp phát sinh được coi là đòi hỏi tự than trong nền kinh tế. Do đó, để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên tranh chấp, duy trì trật tự nền kinh tế thì cần phải có một cơ chế giải quyết tranh chấp tốt nhất.
Như vậy, có thể hiểu giải quyết tranh chấp thương mại chính là việc lựa chọn các hình thức, biện pháp phù hợp để giải tỏa các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột quyền và lợi ích giữa các bên, tạo lập sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên tranh chấp có thể nhận được.
3.2. Yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp thương mại
- Phải tạo ra các hình thức, thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại đa dạng, linh hoạt, phù hợp với tính chất phức tạp của các quan hệ thương mại trong nền kinh tế thị trường, cũng như đáp ứng được lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh.
- Tranh chấp thương mại phải được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, không làm hạn chế và cản trở các hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh doanh.
- Giải quyết tranh chấp thương mại phải chính xác, đúng pháp luật, phán quyết phải có tính cưỡng chế thi hành cao.
- Giải quyết tranh chấp thương mại phải đảm bảo giữ được bí mật kinh doanh, uy tín của các bên trong hoạt động thương mại, phải đảm bảo được tính dân chủ thực sự, sự bình đẳng và quyền tự định đoạt của các bên.
4. Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại.
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, tồn tại 4 phương thức giải quyết tranh chấp thương mại cơ bản gồm:
Thương lượng;
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức thương lượng thực chất là cơ chế giải quyết nội bộ và xuất phát từ sự tự nguyện của các bên mà không có sự can thiệp của bất kỳ cơ quan nhà nước hay chủ thể thứ 3 nào. Hình thức giải quyết tranh chấp này đòi hỏi các bên phải có thiện chí, trung thực, phải có những am hiểu cần thiết về chuyên môn pháp lý và thực sự cầu thị cũng như tinh thần hợp tác cao mới có thể đạt kết quả như mong muốn.
Hòa giải;
Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ 3, đóng vai trò trung gian để hỗ trợ hay giúp đỡ các bên có tranh chấp tìm kiếm được cách hòa giải nhằm loại trừ các tranh chấp đã phát sinh. Cũng như thương lượng, hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp do các bên có tranh chấp tự giải quyết nhưng khác với thương lượng ở chỗ có sự tham gia của nhân tố trung gian. Đây là hình thức giải quyết tranh chấp có nhiều ưu điểm: đơn giản, linh hoạt, thuận tiện, nhanh chóng, đỡ tốn kém thời gian, tiền bạc cho các bên, cơ hội giải quyết tranh chấp cao hơn.
Trọng tài thương mại;
Trọng tài thương mại là phương thức có tình chất tài phán, quyết định giải quyết tranh chấp do một bên chủ thể thức 3 nêu ra, có giá trị ràng buộc các bên tranh chấp.
Tòa án.
Giải quyết tranh chấp thương mại tại tòa án la hình thức giải quyết tranh chấp do các cơ quan tài phán nhà nước thực hiện nhân danh quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ của pháp luật tố tụng. Kết quả của quá trình tố tụng là tòa án đưa ra bản án có giá trị pháp lý bắt buộc đối với các bên đương sự. Nếu các bên đương sự không tự nguyện thi hành thì sẽ được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Do đó, các đương sự thường tìm đến sự trợ giúp của tòa án như một giải pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích chính đáng của mình khi họ có thể thất bại với các hình thức thương lượng, hòa giải hoặc không muốn lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp.
II/ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI:
1. Khái niệm trọng tài thương mại
Trong khoa học pháp lý, trọng tài được nghiên cứu dưới nhiều bình diện khác nhau và do đó hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về trọng tài:
- Luật Trọng tài mẫu của UNCITRAL đưa ra khái niệm“Trọng tài nghĩa là mọi hình thức trọng tài có hoặc không có sự giám sát của một tổ chức trọng tài thường trực”(Điều 2.a)
- Theo cuốn “Từ điển kinh tế thị trường từ A đến Z” thì: “Trọng tài là một cách giải quyết bất đồng trong quan hệ công nghiệp mà không cần đưa ra pháp luật hay đình công”.
- Theo Hội đồng trọng tài Mỹ (AAA): “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải thi hành”.
Theo khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại: “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của luật này”.
Mặc dù có khá nhiều định nghĩa khác nhau về trọng tài, song nhìn chung hiện nay trọng tài thương mại được nhìn nhận dưới 2 góc độ:
- Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, được thực hiện bởi hội đồng trọng tài hoặc một số trọng tài viên duy nhất với tư cách là bên thứ 3 độc lập nhằm giải quyết tranh chấp bằng việc đưa ra một số phán quyết trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên tranh chấp và có hiệu lực bắt buộc với các bên.
- Trọng tài là một cơ quan giải quyết tranh chấp được thành lập tự nguyện bởi các trọng tài viên để giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh donh, thươngmaij theo yêu cầu của các bên tranh chấp.
2. Đặc điểm và các hình thức trọng tài thương mại
2.1. Đặc điểm của trọng tài thương mại
Với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp thương mại, trọng tài mang những đặc điểm sau:
Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ 3 – một trọng tài viên duy nhất hoặc hội đồng trọng tài, với tư cách là người cầm cân nảy mực.
Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua một thủ tục tố tụng chặt chẽ mà pháp luật trọng tài, điều lệ, quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài đó quy định.
Kết quả của việc giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài thương mại là phán quyết do trọng tài tuyên đối với các đương sự của vụ tranh chấp.
2.2. Các hình thức trọng tài
Luật trọng tài thương mại 2010 quy định trọng tài thương mại tồn tại dưới 2 hình thức: trọng tài quy chế và trọng tài vụ việc.
Khoản 6 Điều 3 quy định “Trọng tài quy chế là hình thức giải quyết tại một trung tâm trọng tài theo quy định của Luật này và quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài đó”
Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và có trụ sở giao dịch ổn định.
Các trung tâm trọng tài có một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước
Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau. Giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên, cấp dưới.
Thứ ba, tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ. Cơ cấu của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài viên của trung tâm.
Thứ tư, mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố tụng riêng.
Thứ năm, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài viên của trung tâm.
Trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài vụ việc sẽ tự chấm dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp. Đây là hình thức trọng tài xuất hiện sớm nhất và được sử dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Trước đây, chưa có một văn bản pháp lý cụ thể nào quy định về trọng tài vụ việc. Đến Pháp lệnh trọng tài thương mại do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành ngày 25/02/2003 mới quy định về hình thức trọng tài này và đến nay vẫn được quy định tại khoản 7 Điều 3 Luật trọng tài thương mại 2010 “Trọng tài vụ việc là hình thức giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật này và trình tự, thủ tục do các bên thoả thuận.”
Bản chất của trọng tài vụ việc được thể hiện qua các đặc trưng cơ bản sau:
-Trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt hoạt động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp.
-Trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành và không có danh sách trọng tài viên riêng.
-Trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình, mà quy tắc tố tựng để giải quyết vụ tranh chấp phải được các bên thỏa thuận xây dựng.
III/VAI TRÒ CỦA TRỌNG TÀI VÀ ƯU ĐIỂM TRONG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI
1. Vai trò của trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại.
Khi các tranh chấp phát sinh trong các hoạt động thương mại, các bên có thể thương lượng, hoà giải với nhau để giải quyết vụ việc. Trong trường hợp hai bên không thể tự hoà giải được thì có thể đưa vụ việc ra giải quyết bằng toà án hoặc trọng tài. Trong các tranh chấp có yếu tố nước ngoài thường thì các bên có xu hướng ngại đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng toà án. Nếu giải quyết toà án ở quốc gia của một trong hai bên đương sự thì tất nhiên phía bên kia sẽ không tin tưởng vì e ngại rằng thẩm phán sẽ ưu ái cho đương sự phía nước họ hơn. Còn nếu tiến hành tố tụng ở một nước thứ ba thì cả hai bên đều bỡ ngỡ trước quy tắc, thủ tục và trình tự tố tụng của quốc gia thứ ba đó. Ngoài ra, tố tụng toà án đòi hỏi nhiều thủ tục rất phức tạp, mất nhiều thời gian và tiền của. Do đó trong thực tiễn, trọng tài đóng một vai trò quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp thương mại, đặc biệt là các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài.
Thứ nhất, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài rất tôn trọng ý chí của các bên đương sự. Các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên, chọn thủ tục trọng tài nhằm giải quyết một cách có hiệu quả nhất tranh chấp mà ít tốn chi phí về mặt thời gian cũng như tài chính. Việc giải quyết tranh chấp có thẻ được tiến hành bởi một trọng tài viên hay một hội đồng trọng tài tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của các bên.
Thứ hai, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có tính ràng buộc các bên đương sự về mặt pháp lý. Điều đó làm cho cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hữu hiệu hơn biện pháp hoà giải hay thương lượng. Hoà giải hay thương lượng chỉ mang tính chất khuyến nghị chứ không có tính ràng buộc thực hiện về mặt pháp lý đối với các bên tranh chấp. Còn quyết định trọng tài mang hiệu lực pháp luật, các bên có nghĩa vụ phải thi hành.
Thứ ba, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài linh hoạt hơn toà án. Trong cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các trọng tài viên được các bên lựa chọn có quyền xét xử và ra các quyết định xét xử một cách hoàn toàn độc lập trên cơ sở chứng cứ, tài liệu mà các bên cung cấp hoặc có được bằng con đường khác như trọng tài viên tự điều tra xem xét hay giám định viên và nhân chứng cung cấp trên cơ sở những quy định của pháp luật. Điều này khiến cho người ta liên tưởng tới tố tụng toà án. Nhưng về bản chất quyền lực của trọng tài và toà án khác hẳn nhau. Toà án đại diện cho quyền lực nhà nước còn trọng tài đại diện cho ý chí của các bên đương sự. Do đó, trong tố tụng trọng tài, các bên có quyền tự do lựa chọn trọng tài viên, lựa chọn cơ quan trọng tài giải quyết khi có tranh chấp. Nhưng trong tố tụng toà án, các bên không có quyền lựa chọn thẩm phán, không có quyền lựa chọn toà án xét xử cho mình.
Thứ tư, tố tụng trọng tài thường nhanh chóng hơn so với tố tụng toà án. Đặc điểm của tố tụng trọng tài là chỉ xét xử một lần và phán quyết có giá trị trung thẩm, chỉ trong một số trường hợp đặc biệt thì toà án mới xem xét lại quyết định trọng tài. Đối với các tranh chấp thương mại thì sự nhanh gọn của hình thức giải quyết này là một lý do các bên tranh chấp thường hay chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp.
Thứ năm, trọng tài hoạt động theo nguyên tắc xử kín tức là không cần phải đưa các vấn đề tranh chấp, cơ sở của các quyết định trọng tài về vụ tranh chấp vào quyết định trọng tài.Trọng tài không cần phải xét xử công khai như toà án nếu các bên yêu cầu. Nhờ vậy mà có thể giữ được bí mật những chi tiết, số liệu, thông tin cụ thể mà các bên tranh chấp không muốn công khai (liên quan đến bí mật công nghệ...) giúp tránh được những hậu quả khôn lường và thiệt hại sau này cho các bên tranh chấp. Chính vì vậy mà các bên tranh chấp thường chọn biện pháp trọng tài để giải quyết những tranh chấp về thương mại.
Với những đặc điểm và vai trò như vậy của mình, biện pháp trọng tài đã đáp ứng được yêu cầu đề ra đối với việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài nói chung và trong quan hệ quốc tế nói riêng. Có thể nói, trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp mang tính khả thi nhất và là phương thức phổ biến nhất để giải quyết các tranh chấp thương mại nhằm ổn định và thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
2. Ưu điểm của trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp thương mại:
- Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại không mang ý chí quyền lực nhà nước mà chủ yếu được giải quyết dựa trên nền tảng ý chí tự định đoạt của các bên tranh chấp hoặc phán quyết của bên thứ ba độc lập theo thủ tục linh hoạt mềm dẻo, từ đó đảm bảo tối đa quyền định đoạt của các bên tranh chấp.
- Thủ tục giải quyết đơn giản, thuận tiện giúp cho việc giải quyết tranh chấp nhanh gọn, dứt điểm, hiệu quả.
- Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mai còn đảm bảo tối đa uy tín cũng như bí mật của các bên tranh chấp, góp phần củng cố và duy trì mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa các bên.
- Việc xét xử bằng cơ chế trọng tài tuân theo nguyên tắc xét xử một lần nên quyết định của trọng tài thương mại có giá trị chung thẩm.
- Ngoài ra, giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài thương mại còn có một sô ưu điểm khác như: trình độ chuyên môn của trọng tài viên (Trình độ của các trọng tài viên thường là tiến sĩ, thấp cũng là cao học và hầu hết đều được đào tạo ở nước ngoài); tính độc lập trong tố tụng,….
IV/ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại
Để áp dụng hình thức trọng tài thương mại trong việc giải quyết tranh chấp, các chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp cần tuân thủ một số những nguyên tắc cơ bản sau (Điều 4 Luật trọng tài thương mại 2010):
1.1. Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài:
Nguyên tắc này được hiểu như sau: tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết tại trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài đó có hiệu lực.
Thỏa thuận trọng tài không chỉ là hình thức pháp lý ghi nhận sự thỏa thuận của các bên mà còn là 1 căn cứ pháp lý để dựa vào đó bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ. Đây là nguyên tắc quan trọng và có tính quyết định đối với việc có hay không áp dụng hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Theo điểm a khoản 2 Điều 68 Luật trọng tài thương mại 2010, nếu không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu mà hội đồng trọng tài vẫn giải quyết thì phán quyết của hội đồng sẽ bị hủy. Với vai trò quan trọng như vậy nên LTTTM 2010 đã dành hẳn chương II để quy định các vấn đề liên quan đến trọng tài thương mại. Nếu không có nguyên tắc này thì những nguyên tắc sau cũng trở thành vô nghĩa và không cần thiết. Chính vì vậy mà nó được đưa lên làm nguyên tắc đầu tiên và cũng là nguyên tắc cần áp dụng trước tiên khi tiến hành xem xét một vụ tranh chấp bằng hình thức trọng tài thương mại.
1.2. Nguyên tắc trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan:
Một số tổ chức trọng tài yêu cầu trọng tài viên xác nhận bằng văn bản rằng họ đang và sẽ độc lập với các bên và yêu cầu trọng tài viên trình bày bất kỳ sự kiện hoặc chi tiết nào có thể khiến các bên nghi ngờ về tính độc lập của họ. Trọng tài viên phải có đủ cách điều kiện nhất định để đảm bảo rằng họ độc lập, vô tư, khách quan trong việc giải quyết tranh chấp. Để trở thành một trọng tài viên của một trung tâm trọng tài, công dân Việt Nam cần hội tụ đầy đủ những điều kiện quy định tại điều 20 Luật trọng tài thương mại.
Khi tham gia giải quyết tranh chấp thương mại, trọng tài viên phải thật sự là người thứ ba độc lập, vô tư, không liên quan đến các bên có tranh chấp cũng như không có bất kỳ lợi ích nào dính dáng đến vụ tranh chấp đó. Nếu vi phạm những quy định trên, trọng tài viên phải từ chối giải quyết vụ tranh chấp hoặc các bên có quyền yêu cầu đổi trọng tài viên vụ tranh chấp. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài viên phải căn cứ vào các tình tiết của vụ tranh chấp, xác mình sự việc nếu thấy cần thiết và phải căn cứ vào các chứng cứ mà mình thu thập được chứ không thể bị chi phố bởi bất kỳ tổ chức, cá nhân nào. Không ai có quyền can thiệp, chỉ đạo vào việc giải quyết tranh chấp của trọng tài viên. Quyết định của trọng tài viên phải đúng với sự thật khách quan.
1.3. Nguyên tắc trọng tài viên phải căn cứ vào pháp luật:
Nguyên tắc này được ghi nhận trong khoản 2 Điều 4 Luật trọng tài thương mại “Trọng tài viên phải … tuân theo quy định của pháp luật”. Đây được coi là một nguyên tắc rất quan trọng trong mọi thủ tục tố tụng cũng như giải quyết mọi vấn đề của đời sống xã hội trong điều kiện nhà nước pháp quyền. Vì vậy, để giải quyết tranh chấp thương mại một cách công bằng, hợp lý, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên; trọng tài viên phải căn cứ theo pháp luật. Nếu trọng tài viên không căn cứ vào pháp luật, nhận hối lộ hoặc có hành vi vi phạm đạo đức trọng tài viên thì các bên có quyền yêu cầu thay đổi trọng tài. Tư tưởng chỉ đạo đối với trọng tài viên là pháp luật, chỉ có căn cứ vào pháp luật, trọng tài viên mới giải quyết được các tranh chấp một cách vô tư, khách quan. Có như vậy mới được các nhà kinh doanh tín nhiệm.
1.4. Nguyên tắc trọng tài viên phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên:
Các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận với nhau về nhiều vấn đề liên quan đến thủ tục giải quyết tranh chấp mà trọng tài viên phải tôn trọng, nếu không sẽ dẫn đến hậu quả là quyết định của hội đồng trọng tài sẽ bị tòa án hủy theo yêu cầu của các bên. Khoản 1 Điều 4 Luật trọng tài thương mại quy định “Trọng tài viên phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và đạo đức xã hội”.
Có thể thấy nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên tham gia tranh chấp là một trong những nguyên nhắc tiên quyết của việc áp dụng hình thức trọng tài thương mại. Và chỉ có trong tố tụng trọng tài – hình thức giải quyết tranh chấp do các bên lựa chọn, các bên mới có quyền thỏa thuận nhiều vấn đề như vậy và trọng tài viên bắt buộc phải tuân theo.
1.5. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác (Khoản 4 Điều 4 Luật trọng tài thương mại 2010)
Nguyên tắc này xuất phát từ tính đặc thù của hoạt động kinh doanh. Theo nguyên tắc này, các buổi xét xử trọng tài chỉ gồm trọng tài viên, các đương sự và các bên có liên quan đến vụ tranh chấp. Những người không có trách nhiệm và không liên quan đến vụ tranh chấp không được tham dự. Và quyết định của trọng tài cũng như các căn cứ để trọng tài đưa ra phán quyết sẽ không được công bố công khai nếu các bên đương sự không có yêu cầu.
1.6. Nguyên tắc giải quyết một lần:
Một trong những mục đích quan trọng nhất của việc giải quyết tranh chấp thương mại là nhanh chóng, tránh dây dưa kéo dài, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Với tư cách là một tổ chức phi chính phủ, trọng tài thương mại không có cơ quan cấp trên nên phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm như bản án sơ thẩm của tòa án, cũng không có thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Tố tụng trọng tài chỉ có một trình tự giải quyết, tức là các tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết một lần tại trọng tài theo quy định tại khoản 5 Điều 4 Luật trọng tài thương mại “Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm”.
Khác với thẩm quyền của tòa án, thẩm quyền của trọng tài chỉ là thẩm quyền vụ việc, nếu được các bên có “vụ việc” lựa chọn đích danh. Các nguyên tắc phân định thẩm quyền theo lãnh thổ, theo trụ sở hoặc chỗ ở của bị đơn và theo sự thỏa thuận của nguyên đơn không được áp dụng trong tố tụng trọng tài. Thẩm quyền của trọng tài không được phân định theo lãnh thổ, vì các bên có tranh chấp có quyền thỏa thuận lựa chọn bất kỳ một tổ chức trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho họ, không phụ thuộc vào nơi ở cũng như trụ sở của nguyên đơn hay bị đơn, cũng không phân định theo cấp xét xử, vì chỉ có một cấp trọng tài và lại càng không phân định theo sự lựa chọn của nguyên đơn, vì trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết nếu các bên có thỏa thuận trọng tài. Khi các bên đã thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng con đường trọng tài, tức là họ đã trao cho hội đồng trọng tài thẩm quyền giải quyết tranh chấp và phủ định thẩm quyền xét xử đó của tòa án trừ khi thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc các bên hủy thỏa thuận trọng tài.
2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại
Về nguyên tắc, tranh chấp được giải quyết tại trọng tài nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, không phải mọi tranh chấp có thỏa thuận trọng tài đều thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại.Trọng tài thương mại chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp nào được pháp luật quy định là tranh chấp thương mại phát sinh từ hoạt động thương mại.
2.1. Tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại phải là tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại hoặc tranh chấp giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.
Trong hoạt động giao kết hợp đồng giữa 1 bên là thương nhân với một bên là các cá nhân, tổ chức (không phải là thương nhân), nếu có phát sinh tranh chấp thì Luật thương mại 2005 cho phép bên có hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi (bên có hành vi dân sự) có thể chọn áp dụng Luật thương mại để giải quyết. Về bản chất, hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong giao dịch với thương nhân không phải là hoạt động thương mại thuần túy nhưng bên không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng Luật thương mại thì quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật thương mại và tranh chấp phát sinh từ quan hệ này phải được quan niệm là tranh chấp thương mại và thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại
2.2. Giữa các bên tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài hợp lệ
* Thỏa thuận trọng tài:
Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại. Như vậy, các bên có thể thỏa thuận trọng tài trước khi có tranh chấp hoặc sau khi có tranh chấp. Khác với việc giải quyết tranh chấp tại tòa án – cơ quan tài phán nhà nước, khi có tranh chấp phát sinh, bên có quyền và lợi ích hợp pháp bị vi phạm có quyền đệ đơn yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết mà không cần có sự thỏa thuận trước, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đòi hỏi phải có sự thỏa thuận của các bên. Nguyên tắc chung là “không có thỏa thuận giải quyết bằng phương thức trọng tài, không có tố tụng trọng tài”.
Thỏa thuận trọng tài có thể là một thỏa thuận riêng hoặc là thỏa thuận trong hợp đồng và phải được lập thành văn bản. Các hình thức thỏa thuận qua thư, điện báo, Telex, Fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác thể hiện ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài đều được coi là thỏa thuận trọng tài. Ngay cả khi hợp đồng giữa các bên không được thể hiện bằng văn bản thì thỏa thuận trọng tài vẫn phải lập thành văn bản. Khi nộp đơn kiện cho trung tâm trọng tài, nguyên đơn phải nộp kèm theo thỏa thuận trọng tài. Nếu không có thỏa thuận trọng tài, trung tâm trọng tài sẽ không có thẩm quyền giải quyết.
* Thỏa thuận trọng tài hợp lệ:
Thỏa thuận trọng tài hợp lệ là thỏa thuận trọng tài đó không bị vô hiệu. Điều này có nghĩa là, ngay cả khi có thỏa thuận trọng tài nhưng nếu thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu thì trọng tài cũng không có thẩm quyền giải quyết. Các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu được quy định tại điều 18 Luật trọng tài thương mại 2010.
Như vậy, thỏa thuận trọng tài bị coi là vô hiệu khi thỏa thuận đó không thể hiện đầy đủ, thể hiện không đúng ý chí của các bên hoặc ý chí của các bên không phù hợp quy định của pháp luật. Thỏa thuận trọng tài vô hiệu không tạo ra thẩm quyền cho trọng tài. Khi đó vụ việc sẽ thuộc thẩm quyền của tòa án.
3. Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài thương mại
Tranh chấp giữa các bên có thể được giải quyết tại Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng trọng tài do các bên thỏa thuận. Song dù lựa chọn hình thức nào thì cá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập học kì tm2- Trọng tài thương mại.doc