Tiểu luận Vai trò của vàng và so sánh với tiền đồng

Giá vàng hiện chủ yếu được yết bằng USD, do vậy khi USD bị đẩy lên cao, đến lượt nó lại ảnh hưởng trực tiếp đến giá vàng. Theo đó, khi giá USD tăng, giá vàng sẽ tăng tương ứng. Giá vàng tăng trong khi cầu về vàng vượt quá cung khiến nhu cầu mua USD để nhập khẩu vàng tăng, lúc này, giá vàng đã tác động ngược trở lại giá USD, tạo vòng xoáy giữa vàng, USD.

doc29 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3676 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vai trò của vàng và so sánh với tiền đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vàng hoặc ngành vàng bạc đá quý sẽ tăng theo, dẫn đến giá bán tăng đối với nhóm hàng hóa này. Khi giá bán các sản phẩm kim loại quý tăng, các sản phẩm này sẽ tác động gián tiếp đến 572 nhóm hàng và dịch vụ chính thức nói trên. Ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ. Khi giá vàng tăng gây ảnh hưởng gián tiếp đến chỉ số CPI tăng, những dấu hiệu về lạm phát sẽ xuất hiện. Nếu tỷ lệ lạm phát không dao động trong vùng kiểm soát theo kỳ vọng chung của nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước sẽ phải xem xét thực thi một số giải pháp như điều chỉnh lãi suất cơ bản, điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc, và điều tiết tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế để kiềm chế lạm phát. Ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán vốn được xem là mặt hàng để xem xét biểu của nền kinh tế. Khi giá vàng tăng với mức sinh lợi kỳ vọng hấp dẫn, các công ty chứng khoán một mặt vừa chú tâm theo dõi diễn biến của thị trường vàng, mặt khác vừa lo ngại một số nhà đầu tư chứng khoán sẽ dịch chuyển danh mục đầu tư sang vàng. Nếu nhiều nhà đầu tư chuyển hướng đầu tư sang vàng, thị trường chứng khoán sẽ thiếu tính thanh khoản, và điều này sẽ gây ảnh hưởng đến sự phục hồi và sự tăng trưởng của thị trường chứng khoán và nền kinh tế. Ảnh hưởng đến thị trường bất động sản. Theo tập quán truyền thống từ lâu đời, người dân Việt Nam có thói quen sử dụng vàng để định giá nhà đất hoặc bất động sản. Nhà đất là tài sản có giá trị rất lớn có khi phải tích lũy vài chục năm mới sở hữu được, vì vậy việc người dân “neo” giá bán nhà đất vào vàng cũng là điều dễ hiểu. Dù hiện nay, việc rao bán nhà đất bằng tiền đồng thay cho vàng có tăng lên, nhưng đó chỉ là hình thức. Bởi xét về bản chất, người bán nhà hay bất động sản thường quy đổi ra tiền đồng theo giá vàng hiện hành. Giá vàng tăng, dẫn đến giá trị nhà đất, bất động sản tăng theo, khiến các nhà đầu tư ngại mua bán nhà đất/bất động sản do sợ rủi ro giá vàng đảo chiều. Điều này có thể sẽ làm cho thị trường bất động sản kém sôi động hoặc thậm chí tắc nghẽn. 2.1.2. Phạm vi kinh doanh vàng ở Việt Nam hiện nay khá rộng, khó kiểm soát Tại Việt Nam, theo các quy định của pháp luật hiện hành (Nghị định 174/1999/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định 64/2003/NĐ-CP), phạm vi hoạt động kinh doanh vàng khá rộng rãi. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước chỉ quản lý một số hoạt động về vàng có liên quan tới điều hành chính sách tiền tệ như: Xuất, nhập khẩu vàng nguyên liệu Sản xuất vàng miếng Các hoạt động kinh doanh vàng khác như mua bán vàng trang sức mỹ nghệ, vàng miếng được coi là hoạt động kinh doanh bình thường giống như các loại hàng hoá khác. Theo Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện, hoạt động mua bán, sản xuất gia công vàng trang sức mỹ nghệ là ngành nghề kinh doanh có điều kiện nhưng không cần cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh. Tổ chức, cá nhân muốn tham gia chỉ cần đăng ký kinh doanh tại Sở Kế hoạch Đầu tư trên địa bàn và hoạt động trên cơ sở Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Hoạt động kinh doanh này thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại và Luật Doanh nghiệp. Ngay cả hoạt động xuất, nhập khẩu vàng trang sức, mỹ nghệ cũng không hề có bất kỳ một quy định nào để điều phối và kiểm soát. Không có các quy định cụ thể để xác định: Thế nào được xem là vàng gia công chế tác; vàng trang sức, mỹ nghệ. Trong khi đó, việc xuất khẩu, nhập khẩu vàng trang sức mỹ nghệ thực hiện theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; không cần có giấy phép của Ngân hàng Nhà nước. Như vậy, khả năng lạm dụng để xuất khẩu vàng có chất lượng cao (ví dụ, từ 90% trở lên) dưới hình thức vàng trang sức mỹ nghệ nhưng với khối lượng lớn là rất dễ xẩy ra. Do vậy, Bộ Tài chính đã sửa đổi mức thuế suất xuất khẩu vàng. Theo Thông tư số 184/2010/TT-BTC, từ ngày 01/01/2011, các loại vàng nguyên liệu, vàng trang sức có hàm lượng cao sẽ chịu thuế xuất khẩu là 10% thay cho mức cũ là 0%. Do phạm vi hoạt động kinh doanh vàng khá rộng rãi, lượng vàng và USD trôi nổi ngoài thị trường nhiều (các chuyên gia kinh tế gọi là tình trạng “vàng hóa”, “đô la hóa”) nên ngay cả các cơ quan quản lý cũng không thể nắm rõ được số liệu thật là bao nhiêu. Biến động của thị trường vàng Tác động của thị trường vàng năm 2010 đến chính sách tiền tệ Trong những năm gần đây, giá vàng có xu hướng tăng nhanh. Năm 2010 thị trường vàng biến động bất thường với những mức giá kỷ lục liên tiếp được thiết lập. Tháng 11/2010 người dân đã chứng kiến giá vàng trong nước đạt mức giá 38 triệu đồng/lượng. Từ cuối năm 2009 đến ngày 21/12/2010 giá vàng quốc tế tăng 26%, giá vàng trong nước tăng 46%. Sự biến động của thị trường vàng đã tác động không nhỏ đến nền kinh tế đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng. Bài toán vàng, lạm phát lại một lần nữa thách thức các nhà điều hành chính sách tiền tệ. Vậy những nguyên nhân nào khiến giá vàng trong nước tăng đột biến ? Thứ nhất: Giá vàng Việt Nam chịu tác động của giá vàng thế giới Giá vàng thế giới đã có những bước ngảy vọt chưa từng có, lần đầu tiên trong vòng 10 năm qua, đạt cao nhất vào năm 2010, tăng gấp 5 lần. Vào trung tuần tháng 10/2010, giá vàng thế giới đã lập kỷ lục 1.379,1 $/oune, tăng 22% so với đầu năm. Vàng đã trở thành tài sản đặc biệt, không chỉ các Ngân hàng trung ương mà các quỹ đầu tư nhỏ lẻ rất quan tâm. Giá vàng thế giới tăng do 3 nguyên nhân chính: Khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến nhà đầu tư tìm đến vàng như một chỗ trú ẩn an toàn: Nhân tố chính kích động giá vàng là lạm phát hoành hành các nền kinh tế. Trong hai năm qua, cùng với các chiến dịch kích thích tăng trưởng kinh tế, các NHTW của Mỹ, châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản và nhiều nước khác đã tìm cách tăng chi tiêu đồng thời in thêm tiền mặt. Hàng nghìn tỷ USD được bơm vào nền kinh tế toàn cầu, khiến lạm phát gia tăng. Mặt khác, các yếu tố quốc tế đầy rủi ro sau khủng hoảng khiến vàng trở thành tài sản được ưa chuộng để tích trữ. Chiến dịch nới lỏng chính sách tiền tệ đã không thể thúc đẩy nền kinh tế và giảm thất nghiệp ở các nước như mong muốn. Thay vào đó, luồng "tiền nóng" chảy sang các nền kinh tế đang nổi, nơi chúng được đổ vào các mặt hàng giữ giá như vàng. Tại Mỹ, sự mất lòng tin vào đồng USD khiến giá trái phiếu chính phủ Mỹ giảm mạnh và lãi suất tăng vọt. Cứ 18 ngày, Mỹ lại phát hành các loại giấy tờ ghi nợ tương đương giá trị sản lượng vàng khai thác 1 năm và mỗi năm nước Mỹ vay nợ tương tương 1/3 tổng số lượng vàng hiện có trên thế giới. Tại Châu Âu, nợ xấu tại một số quốc gia có biểu hiện ngày một trầm trọng hơn, thúc đẩy nhà đầu tư tìm đến kênh đầu tư vàng… Cung yếu: Bất chấp giá vàng đang ở mức cao kỷ lục, các Công ty khai thác vàng không thể đáp ứng đủ mức cầu. Dưới góc độ kinh tế, mỗi khi cầu tăng thì cung sẽ tăng theo, qua đó giữ giá ổn định. Tuy nhiên điều này không xảy ra với vàng, đơn giản vì không có nguồn quặng mới đủ để tăng sản lượng khai thác và thay thế lượng vàng đi vào tiêu dùng. Trong năm qua, sản lượng vàng thế giới chỉ tăng được 3%, trong khi giá vàng tăng hơn 20%. Cầu bùng nổ: Bên cạnh các yếu tố cơ bản khiến giá vàng luôn theo xu thế đi lên như: nhu cầu vàng trang sức và vàng công nghiệp ngày càng tăng; tâm lý ưa chuộng vàng của một số quốc gia (điển hình là Trung Quốc và Ấn Độ), thì động thái găm giữ vàng của các nhà đầu tư, các chính phủ đã khiến nhu cầu vàng năm 2010 tăng vọt. Theo Hội đồng vàng toàn cầu, tổng giá trị đầu tư vào vàng trong quý 3/2010 tăng lên mức kỷ lục 9,6 tỷ USD, tăng 60% so với cùng kỳ năm 2009. Đồng thời, các nhà đầu tư và một số Ngân hang trung ương, chủ yếu ở Trung Đông và châu Á, cũng chuyển sang dự trữ vàng. Thứ hai: Tâm lý giữ vàng Vàng là một công cụ đầu tư, cất trữ truyền thống của người Việt Nam. Việc quy đổi tài sản theo giá trị của vàng đã trở thành thói quen lâu đời và đã được người Việt Nam lựa chọn là phương tiện đo lường, trao đổi từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Trước những đợt biến động giá vàng trong thời gian gần đây, nhiều tổ chức và cá nhân đã đổ xô đi mua vàng. Có thể thấy vàng đã len lỏi vào định giá hàng hoá, dự trữ và dẫn đến “vàng hoá”. Trên thực tế, Việt Nam cũng nằm trong những nước nhập khẩu vàng lớn trên thế giới (Năm 2006, nhập 91 tấn vàng, năm  2007 nhập 51 tấn vàng, năm 2008 nhập 90,5 tấn vàng). Mặt khác, cùng với khủng hoảng kinh tế, lạm phát, năm 2010 việc đầu tư vào các chứng khoán và bất động sản đều hạn chế, thậm chí thua lỗ đã khiến các nhà đầu tư Việt Nam tập trung vào vàng. Theo tính toán sơ bộ, lượng vàng dự trữ (chủ yếu trong dân cư) của Việt Nam đã tăng liên tục trong nhiều năm qua và đạt mức cao nhất 1.000 tấn vào cuối năm 2009 với tổng trị giá lên tới 45 tỉ USD, bằng 50% GDP của Việt Nam cùng thời điểm và sang năm 2010 lượng vàng trong dân cũng tăng cao. Do đó, việc nhìn nhận vai trò của vàng đối với hệ thống tài chính là hết sức quan trọng. Thứ ba: Cung vàng trong nước được kiểm soát chặt chẽ Trong khi cầu vàng trong nước tăng đột biến thì cung lại rất hạn chế. Khoảng 95% lượng vàng tiêu thụ tại Việt Nam được nhập khẩu, tuy nhiên hoạt động nhập khẩu vàng được quản lý rất chặt chẽ, các doanh nghiệp kinh doanh vàng muốn nhập khẩu phải xin hạn ngạch từ Ngân hang Nhà nước. Tháng 5/2008, để làm dịu áp lực lạm phát và bình ổn nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước ngừng cấp phép nhập khẩu vàng. Điều này hạn chế lượng ngoại hối dùng để nhập vàng, nhưng lại tạo ra ít nhất là ý niệm khan hiếm vàng. Khi chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới tăng cao, không được phép nhập khẩu qua đường chính thức, nhà đầu cơ đẩy mạnh mua USD để nhập lậu vàng, tạo áp lực khan hiếm đồng USD và đẩy giá USD lên cao. Thứ tư: tỷ giá hối đoái tăng cao Giá vàng hiện chủ yếu được yết bằng USD, do vậy khi USD bị đẩy lên cao, đến lượt nó lại ảnh hưởng trực tiếp đến giá vàng. Theo đó, khi giá USD tăng, giá vàng sẽ tăng tương ứng. Giá vàng tăng trong khi cầu về vàng vượt quá cung khiến nhu cầu mua USD để nhập khẩu vàng tăng, lúc này, giá vàng đã tác động ngược trở lại giá USD, tạo vòng xoáy giữa vàng, USD. Tác động của giá vàng đến các yếu tố kinh tế vĩ mô và hoạt động của các ngân hàng thương mại Theo báo cáo của Hội đồng Vàng thế giới, lượng vàng hiện có tại Việt Nam (lấy lượng vàng nhập khẩu trừ đi số đã xuất khẩu) khoảng 1.000 tấn, tương đương với 45 tỷ USD. Tuy con số này chưa được công nhận, nhưng chắc chắn một lượng vàng rất lớn đang được người dân nắm giữ, đang trở thành luồng vốn hoạt động không chính thức, gây sức ép không nhỏ đến chính sách tiền tệ, tăng trưởng kinh tế nói chung và hoạt động của các ngân hàng thương mại nói riêng. Mặt khác, giá vàng tăng cao gây ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của chính sách tiền tệ và ổn định kinh tế vĩ mô trong trung hạn. Xét từ quan hệ ảnh hưởng từ trực tiếp đến gián tiếp có thể thấy tác động của giá vàng tăng như sau: Ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động nguồn vốn của khu vực tài chính: Khi giá vàng tăng người dân rút tiết kiệm để đầu tư vàng thay vì gửi tiết kiệm tại ngân hàng. Đồng thời vốn rút ra lại loanh quanh ở thị trường vàng và ngoại tệ dẫn đến khả năng huy động vốn của các ngân hàng thương mại bị giảm sút, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Thị trường ngoại tệ tự do bành trướng: Tình trạng đô la hóa ở Việt Nam không chỉ biểu hiện bằng tỉ lệ tiền gửi ngoại tệ/tổng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng mà còn là khối lượng ngoại tệ lưu hành ngoài hệ thống tài chính. Khi giá vàng tăng làm cho nhu cầu mua USD trên thị trường tự do để nhập khẩu vàng lậu lớn dẫn đến tỷ giá USD tăng, khó kiểm soát. Nguy cơ lạm phát: Tuy chưa thống kê được quy luật cụ thể cho mối liên quan chặt chẽ giữa vàng và lạm phát. Tuy nhiên, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế dẫn đến hiện tượng dùng vàng để định giá các tài sản lớn, điển hình là giá bất động sản. Khi vàng trở thành thước đo giá trị, việc vàng tăng giá kéo giá bất động sản và các loại hàng hóa khác tăng theo, gây nguy cơ lạm phát. Thâm hụt cán cân thương mại: Khi giá vàng tăng thì nhập khẩu vàng tăng và nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu càng lớn. Với khối lượng vàng cất trữ rất lớn và gia tăng nhanh chóng những năm gần đây giải thích vì sao thâm hụt cán cân thương mại.  Ảnh hưởng đến điều hành chính sách tiền tệ: Với số liệu trên cho thấy tỉ trọng vàng trên GDP ở Việt Nam rất lớn. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến điều hành chính sách tiền tệ. Đơn cử, với tổng phương tiện thanh toán không kể vàng (M2) thì hệ số nhân tiền theo tính toán của các chuyên gia khoảng 4,8. Nhưng nếu tính gộp M2 + vàng thì hệ số này chỉ còn 2,0. Rõ ràng rằng có rất nhiều vấn đề đối với hệ thống tiền tệ đang bị chi phối bởi khối lượng vàng và thị trường vàng đang bành trướng hiện nay. Như vậy, vàng không còn là vấn đề nhỏ của các nhà kinh doanh, mà đang thực sự trở thành một lực lượng thị trường có khả năng chi phối cả tiết kiệm, đầu tư, cán cân thanh toán, dự trữ ngoại tệ và hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế. Vì vậy, việc quản lý thị trường vàng, vấn đề vàng hóa và đô la hóa cần phải được nghiên cứu toàn diện hơn để có chiến lược và chính sách hợp lý. Bảng 1: Quy mô vàng thuộc Dữ trữ quốc tế của các nước từ 2001 - 2010 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Nghìn tấn 33.06 32.78 32.41 31.86 31.34 30.74 30.38 29.87 29.73 30.19 Tỷ USD 291.7 291.4 361.8 426.4 438.9 507.0 617.3 800.8 831.3 1,005.4 % so với tổng dự trữ ngoại hối 11.5 10.8 11.4 10.8 9.2 9.6 9.7 9.9 9.8 9.9 Nguồn: World Gold Council-WGC Bảng 2: Lượng vàng nắm giữ và tỷ lệ so với tổng dự trữ của một số nước cuối năm 2010 Quốc gia Tổng lượng vàng (tấn) Tỷ lệ so với tổng dự trữ (%) Mỹ 8.133,5 77,4 Một số nước Châu Âu Đức 3.406,8 69,2 Ý 2.451,8 66,6 Pháp 2.435,4 70,6 Eurozone ( bao gồm ECB) 10.797,9 59,7 Anh 310,3 17,6 Một số nước Bắc Á Trung Quốc 1.054,1 1,9 Hàn Quốc 14,4 0,2 Nhật 765,2 2,3 Một số nước Đông Nam Á Thái Lan 84 2,1 Malaysia 36,4 1,2 Indonesia 73,1 3,9 Singapore 127,4 2,2 Nguồn: World Gold Council-WGC 2.3. Vai trò của vàng 2.3.1. Tác động của vàng đối với tỷ giá Trong giai đoạn 5 năm 2006-2010, tỷ giá ngoại tệ USD so với đồng Việt Nam (VND) được điều chỉnh linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ của thị trường và tình hình kinh tế vĩ mô. Sự điều chỉnh tỷ giá USD/VND xuất phát từ nhiều yếu tố kinh tế cơ bản khác nhau, chủ yếu là do cán cân thương mại mất cân đối, giải pháp kỹ thuật hạn chế nhập siêu, và chính sách khuyến khích xuất khẩu. Tính từ năm 2008 đến nay, bình quân mỗi năm tỷ giá được điều chỉnh tăng khoảng 5%. Bảng thống kê điều chỉnh tỷ giá USD/VND trong giai đoạn 2006-2010 Stt Ngày Điều chỉnh biên độ và/hoặc tỷ giá bình quân Ghi chú Tỷ lệ điều chỉnh chung cuộc 1 31/12/2006 0,50% Tăng biên độ giao dịch 0,25% 2 24/12/2007 0,75% Tăng biên độ giao dịch 0,25% 3 10/03/2008 1% Tăng biên độ giao dịch 0,25% 4 27/06/2008 2% Tăng biên độ giao dịch 1,00% 5 11/07/2008 3% Tăng biên độ giao dịch 1,00% 6 25/12/2008 16.494 lên 16.989, % Giữ nguyên biên độ giao dịch, tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng 3,00% 7 24/03/2009 5% Tăng biên độ giao dịch 2,00% 8 26/11/2009 17.034 lên 17.961,% Giảm biên độ giao dịch, tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng 3,44% 9 11/12/2010 17.961ên 18.544,% Giữ nguyên biên độ giao dịch, tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng 3,24% Vàng không được xem là một thước đo hoặc một loại hàng hóa chủ lực trong chính sách điều tiết hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và điều hành chính sách vĩ mô của Nhà nước. Khi mà vàng không được xem là một thước đo giá trị một loại hàng hoá thì đồng nội tệ của Việt Nam (VNĐ) là đồng tiền duy nhất mà luôn gắn liền với giá trị của hàng hóa, sản phẩm và dịch vụ, giữa tiền và vàng có sự liên hệ gắn bó rất chặt chẽ với nhau, khi vàng tăng giá mạnh, những hệ quả của sự tăng giá đó vẫn gây ra những tác động vừa trực tiếp, vừa gián tiếp đối với tỷ giá VND như trong những năm vừa qua. Khi giá vàng tăng với mức tăng trung bình từ 20-25%/năm, các nhà đầu tư trên thị trường tài chính không thể không chú ý đến vàng, nhất là khi những loại tài sản khác như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, bất động sản v.v… chưa mang lại hiệu quả sinh lợi như mong đợi. Nói cách khác, nhà đầu tư sẽ có xu hướng chuyển dịch một phần vốn vào vàng để vừa đa dạng hóa danh mục đầu tư, vừa hướng tới mục tiêu sinh lợi kỳ vọng. Kể từ tháng 06/2008, Ngân hàng Nhà nước tạm thời không cấp hạn mức (quota) nhập khẩu vàng cho các doanh nghiệp kinh doanh vàng và các ngân hàng thương mại như trước đó, trừ trường hợp nhập khẩu can thiệp thị trường. Có thể nói cung cầu vàng trong nước không còn liên thông với thế giới nữa. Vì nguồn cung vàng trong nước bị gián đoạn, bị thắt cổ chai và thiếu tính liên tục tại một số thời điểm nhất định do cái “van” nhập khẩu đang tạm khóa, nên chỉ cần nhà đầu tư muốn mua vàng, giá vàng trong nước sẽ tăng lên. Khi lực cầu không được đáp ứng đầy đủ, giá vàng trong nước sẽ tăng mạnh và nhanh hơn ở thế “lệch pha trên” so với giá vàng thế giới với mức chênh lệch giá có khi lên đến hơn 1 triệu đồng/lượng vàng như đã từng xảy ra. Trường hợp không cho phép nhập khẩu vàng chính thức Ở tình huống mất cân đối cung cầu này, nếu không cho phép nhập khẩu chính thức và nếu mức chênh lệch giá quá lớn, sẽ có một khối lượng nhập khẩu vàng “không chính thức” vào Việt Nam qua các đường biên giới giáp ranh với Campuchia, Lào và Trung Quốc để giải tỏa “cơn khát” vàng trong nước. Để “nhập” được số vàng này, một số đầu mối phải tích cực thu gom USD trên thị trường tự do để thanh toán số vàng nhập khẩu đó, tạo sức cầu và sự khan hiếm “cục bộ” đối với tiền mặt USD. Do tình trạng thâm hụt mậu dịch bị mất cân đối trong một thời gian dài và do giá vàng vẫn tiếp tục tăng chưa có điểm dừng, thực tế cho thấy trong một số tình huống ngân hàng nhà nước phải điều chỉnh tỷ giá chính thức theo “tín hiệu đón đầu” của tỷ giá tự do, khi mà người cần ngoại tệ và người có ngoại tệ đã xác lập trước một mức tỷ giá kỳ vọng mới. Đây là tình huống tỷ giá USD/VND tăng trong bối cảnh không cho nhập khẩu vàng chính thức. Bảng tóm tắt mức thâm hụt mậu dịch trong giai đoạn 2007-2011 Năm Kim ngạch xuất khẩu (tỷ USD) Kim ngạch nhập khẩu (tỷ USD) Thâm hụt mậu dịch (tỷ USD) Tăng/ giảm so với năm trước 2007 39,6 44,41 -4,81 2008 48,38 (tăng 22,17%) 60,83 (tăng 36,97%) -12,45 +158,84% 2009 62,69 (tăng 29,1%) 80,71 (tăng 28,8%) -18,02 +44,74% 2010 57,04 (giảm 9,01%) 69,96 (giảm 13,32%) -12,92 -28,30% 4 tháng đầu năm 2011 51,5 60,08 -8,58 Khi đó sẽ dẫn đến lượng tiền VND bỏ ra để thu về ngoại tệ phục vụ cho các doanh nghiệp nhập khẩu sẽ rất cao dẫn đến giá bán sản phẩm ra thị trường cũng cao theo. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến chính sách quản lý hàng hóa của nước nhà, giá mặt hàng ngày càng càng tăng làm cho cuộc sống của người dân ngày càng khó khăn. Trường hợp cho phép nhập khẩu vàng chính thức Nếu ngân hàng nhà nước cho nhập khẩu vàng chính thức, một lượng ngoại tệ cũng sẽ được chi ra từ hệ thống ngân hàng để thanh toán tiền nhập khẩu vàng. Có thể nói rằng trong bối cảnh giá vàng tăng và nhiều nhà đầu tư đang muốn mua vàng, việc nhập khẩu vàng bằng con đường chính thức hay không chính thức cũng đều tác động lên cung cầu ngoại tệ và gây áp lực lên tỷ giá. Đây cũng chính là thế “tiến thoái lưỡng nan” mà ngân hàng nhà nước luôn luôn đối diện khi xử lý vấn đề nhập khẩu vàng. Tuy nhiên, việc nhập khẩu vàng chính thức vẫn được xem là giải pháp tích cực hơn, vì Nhà nước sẽ đạt được nhiều mục tiêu khác nhau như Kiểm soát được số lượng nhập khẩu Kiểm soát được doanh thu của các đơn vị nhập khẩu vàng Chủ động tăng nguồn cung vàng trong nước Giảm bớt sự căng thẳng tâm lý muốn mua vàng của người dân Ngăn chặn tình trạng đầu cơ “đục nước béo cò” Gia tăng tính công khai minh bạch trong chính sách quản lý thị trường vàng Chủ động điều chỉnh tỷ giá khi cần thiết, thay vì để cho thị trường tự do thản nhiên thao túng. Trong 2 năm 2009-2010 vừa qua, vàng không phải là nguyên nhân làm tiêu tốn ngoại tệ, mà ngược lại còn góp phần đáng kể trong việc cải thiện cán cân thương mại. Với mức xuất siêu vàng (xuất vàng nhiều hơn nhập vàng) khoảng 60 tấn/năm, các doanh nghiệp kinh doanh vàng đã mang về khoảng 2,5 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm. Tuy nhiên, sự đóng góp từ kim ngạch xuất siêu vàng chỉ giúp giảm bớt mức thâm hụt mậu dịch trong ngắn hạn. Vấn đề cốt lõi đó là sự mất cân đối trong cán cân thương mại trong suốt một thời gian dài luôn gây áp lực trực tiếp lên tỷ giá, không nhất thiết xuất phát từ vàng. Bảng tóm tắt số liệu xuất nhập khẩu vàng trong giai đoạn 2006-2010 Tấn vàng 2006 2007 2008 2009 2010 (*) Nhập khẩu 91 51 90.5 12 9 Xuất khẩu - - 11 72 70 Chênh lệch (XK - NK) -79.5 +60 +61 2.3.2. Vàng giúp đa dạng hóa danh mục đầu tư: Hầu hết các danh mục đầu tư ban đầu chỉ tập trung vào những tài sản truyền thống như cổ phiếu và trái phiếu. Lý do để nắm nhiều tài sản khác nhau là để bảo vệ danh mục đầu tư tránh được những rủi ro từ biến động giá của một loại chứng khoán nhất định. Danh mục đầu tư có bao gồm vàng sẽ ổn định hơn so với danh mục khác. Đưa vàng vào danh mục đầu tư của mình – một tài sản có giá trị thực ít biến động hơn các loại tài sản tài chính khác sẽ đảm bảo an toàn về giá trị trong trường hợp thị trường biến động dẫn đến rủi ro mất giá của các tài sản tài chính. Khi mà đồng nội tệ của Việt Nam phụ thuộc vào tỷ giá của đồng USD rất nhiều trong các hạng mục, trong xuất nhập khẩu hàng hóa. Đồng USD tăng và giảm liên tục cũng làm cho giá trị của VND cũng bị ảnh hưởng theo, do đó khi nhà đầu tư dùng VND đầu tư vào các hạnh mục công trình có giá trị lớn sẽ gặp rất nhiều rủi ro trong quá trình hoạt động của dự án, nhất là khi mà nền kinh tế nước nhà đang rơi vào tình trạng lạm phát với hai con số như hiện nay. Do đó vàng được xem là nơi ẩn nấp an toàn khi áp lực lạm phát xảy ra do áp lực lạm phát tăng đồng nghĩa với giá cả hàng hóa dịch vụ tăng nhanh, đồng tiền mất giá và các nhà đầu tư thường có khuynh hướng mua vàng vào để cất trữ. Vàng là kênh đầu tư được ưu tiên lựa chọn khi thị trường bất ổn: khi thị trường tồn tại nhiều bất ổn như thiên tai, chiến tranh… các nhà đầu tư có xu hướng mua vàng để bảo vệ giá trị của đồng tiền 2.3.3. Vàng là công cụ phòng chống lạm phát: Khi hàng hóa và dịch vụ tăng nhà đầu tư có khuynh hướng mua vàng do sức mua và giá trị của vàng có khuynh hướng ổn định. Do đó mỗi khi lo sợ về lạm phát, nhà đầu tư lại mua vàng. Ở thời điểm hiện tại, Việt Nam đang phải đối phó với nạn lạm phát tăng cao. Chỉ số giá tiêu dùng sẽ ở mức hai con số trong 2011. Lạm phát tăng thể hiện sự tương quan giữa tiền và hàng hoá. Với cùng một số tiền như nhau thì người ta sẽ mua được một số lượng hàng hóa ít hơn. Từ điều này có thể thấy rằng, khi có lạm phát thì người giữ tài sản sẽ có lợi hơn người giữ tiền hay nói cách khác hàng hóa là công cụ phòng ngừa rủi ro lạm phát. Khi mà VND ngày càng bị mất giá trên thị trường, vật giá thì leo thang một cách nhanh chóng, khó kiểm soát. Vì vậy, không chỉ có vàng mà các loại hàng hóa khác như kim loại quý, bất động sản... đều là những công cụ chống lạm phát hữu hiệu. Tuy vậy, vàng là một loại hàng hóa đặc biệt hơn cả, có giá trị cao, luôn duy trì được giá trị trao đổi cao trên thị trường và đặc biệt là khả năng thanh khoản trên thị trường. Tất cả những yếu tố trên đã biến vàng thành công cụ để chống lạm phát hữu hiệu. 2.3.4. Vàng là công cụ đầu tư thay thế đồng USD: Vàng thường được sử dụng như một công cụ đầu tư hiệu quả thay thế đồng USD – đồng tiền được giao dịch nhiều nhất thế giới. Nếu đồng USD tăng giá, thì vàng sẽ giảm. Ngược lại USD giảm giá thì vàng sẽ tăng. Do đó vàng là cách đầu tư hiệu quả nhất trong việc phòng chống rủi ro giảm giá của đồng USD. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và Việt Nam như hiện nay thì đồng Đô la đã rớt giá quá nhiều, mọi người không có còn đảm bảo về sự ổn định đầu tư tài chính của mình dựa vào đồng đô la nữa. Giờ đây với nhiều kênh đầu tư mà đồng đô la không thể đảm bảo sự ổn định cho danh mục đầu tư đó với sự lên xuống tỷ giá liên tục như hiện nay thì mọi người sẽ chuyển sang một loại tiền tệ mà họ có thể yên tâm, đó là vàng. 2.3.5. Vàng giúp kiểm soát rủi ro: Nhìn chung, vàng ít biến động hơn hầu hết các loại hàng hóa khác cũng như thị trường chứng khoán. Với việc sở hữu tài sản ít biến động trong danh mục đầu tư, rủi ro của nhà đầu tư sẽ giảm. Vàng đã từng được gọi là "hàng hóa khủng" bởi vì nó có xu hướng an toàn hơn các công cụ đầu tư khác trong các thời kì khó khăn. Những nhân tố gây cản trở các công cụ đầu tư khác lại giúp làm cho giá vàng tăng lên. Nền kinh tế trì trệ sẽ dẫn đến việc một số ngân hàng hoạt động kém phải đóng cửa. Đến lượt nó, hệ thống ngân hàng gặp khó khăn sẽ gây ra tác động xấu cho nền kinh tế. Và trong một nền kinh tế toàn cầu ngày nay, ai cũng hiểu rằng những thất bại kinh tế và của hệ thống ngân hàng có thể phá hủy tất cả. Khi ngân hàng gặp khủng hoảng, công chúng bắt đầu mất lòng tin vào các tài sản bằng "giấy" và do tính chất, đặc tính bền vững của vàng mà người dân chuyển sang vàng cho an toàn. 2

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVai trò của vàng và so sánh với tiền đồng.doc
Tài liệu liên quan