MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
I. LÝ LUẬN CHUNG 3
1. Khái niệm 3
a. Định nghĩa 3
b. Nguồn gốc 4
c. Phân loại 5
2. Vai trò vốn ODA 6
a. Nguồn vốn bổ sung quan trọng 6
b. Xóa đói giảm nghèo 6
c. Phát triển khoa học kỹ thuật 6
d. Phát triển xã hội 7
e. Thu hút đầu tư 7
II. VAI TRÒ CỦA ODA NHẬT BẢN VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM 8
1. Tổng quan tình hình ODA tại Việt Nam 8
2. Vốn ODA Nhật Bản 11
a. Tác động của ODA Nhật Bản tới GDP và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác (từ đầu thập niên 90 đến nay) 11
b. Vai trò của ODA đối với sự phát triển cơ sở hạ tầng 12
c. Vai trò của ODA trong xóa đói giảm nghèo 14
d. Vai trò của ODA đối với sự phát triển nguồn nhân lực 16
e. Vai trò của ODA đối với sự phát triển khoa học kỹ thuật 16
III. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ, SỬ DỤNG HIỆU QUẢ NGUỒN VỐN ODA NHẬT BẢN 18
1. Đánh giá việc quản lý, sử dụng vốn ODA Nhật Bản 18
a. Thành tựu 18
b. Hạn chế 20
2. Bài học kinh nghiệm 22
a. Bài học kinh nghiệm của nước ngoài trong sử dụng vốn ODA 22
b. Bài học kinh nghiệm của Việt Nam trong sử dụng vốn ODA 22
3. Giải pháp cho việc quản lý và sử dụng hiệu quả vốn ODA Nhật Bản 25
KẾT LUẬN 28
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
30 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 4931 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vai trò của vốn ODA Nhật Bản đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đạt khoảng 25 tỉ (chiếm 43,6%). Như vậy Việt Nam là nước đang phát triển có tỷ trọng huy động nguồn vốn nước ngoài thông qua ODA khá lớn. Hàng loạt công trình sử dụng nguồn vốn ODA (giải ngân) được đưa vào sử dụng đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống.
Năm nhà viện trợ ODA hàng đầu cho Việt Nam
giai đoạn 5 năm 2006-2010
Ví dụ : Dự án nâng cấp đô thị 160 triệu USD (WB); Dự án Phát triển năng lượng tái tạo và mở rộng mạng lưới điện cho các vùng sâu, vùng xa 151 triệu USD (ADB); Dự án tăng cường quản lý hải quan tại Cảng Hải Phòng 9,2 triệu USD ( Japan).
Nếu xét trên bình diện tổng thể, nguồn vốn ODA hòa cùng các nguồn vốn trong nước góp phần đưa tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của nước ta từ 3,5% năm 1993 lên 5.32% năm 2009 (đặc biệt từ năm 2005-2007: đạt mức bình quân trên 8%/ năm), đồng thời cũng góp phần giúp tỉ lệ hộ nghèo giảm đi đáng kể. Hơn thế, nhờ có lợi thế riêng “thành tố hỗ trợ” (lãi suất thấp, thậm chí bằng không, kết hợp thời gian vay dài, thời gian ân hạn cao…) đã tạo nên tính ưu đãi của ODA so với các nguồn vốn.
Ví dụ : ODA của Nhật Bản có mức lãi suất dao động 0,75% -2,3%/ năm tùy thuộc vào tính chất từng dự án, thời hạn cho vay từ 30-40 năm, thời gian ân hạn 10 năm… Như vậy Việt Nam đã ưu tiên phần lớn nguồn vốn này vào thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế mang tính chất dài hạn.
Nguồn vốn ODA đã bổ sung một nguồn kinh phí quan trọng cho đầu tư phát triển, chiếm khoảng 11% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và khoảng 12-13% trong tổng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước trong 5 năm trở lại đây. Song điều quan trọng hơn là ở chỗ nguồn vốn ODA đã được tập trung cao để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, góp phần tạo ra môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn của khu vực tư nhân, xóa đói giảm nghèo và cải thiện đời sống nhân dân.
Trong thời gian gần đây, xét về cơ cấu vốn ODA được kí kết, tỷ trọng nguồn vốn dành cho các dự án trong lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, nông nghiệp, lâm nghiệp, nông thôn, y tế, giáo dục, môi trường đã được cải thiện đáng kể.
Biểu đồ cơ cấu ODA trong các lĩnh vực phát triển kinh tế
Nguồn:
Chiếm tỷ trọng cao nhất (30,9%) trong thu hút ODA tính đến năm 2009 là lĩnh vực y tế giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ với 1,67 tỷ USD vốn ODA kí kết. Tiếp đến là cơ sở hạ tầng đạt 29,3% (trong đó giao thông vận tải 899 triệu USD, chiếm tỷ trọng 16,7%, cấp thoát nước và phát triển đô thị với gần 697 triệu USD, chiếm 12,6%). Lĩnh vực nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp, thủy sản kết hợp với nông nghiệp nông thôn, xóa đói giảm nghèo với gần 1,37 tỷ USD (chiếm 24,7%).
2. Vốn ODA Nhật Bản
Kể từ khi nối lại viện trợ phát triển cho Việt Nam vào năm 1991, Nhật Bản đã liên tục dẫn đầu danh sách các quốc gia cung cấp ODA cho Việt Nam, với mức tăng năm sau cao hơn năm trước. Từ năm 1992 đến nay, ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam đạt 1.542 tỷ Yên (gần 17 tỷ USD), chiếm khoảng 30% tổng ODA của cộng đồng quốc tế cam kết với Việt Nam. Đặc biệt từ năm 2005 tới nay, tổng số viện trợ ODA của Nhật Bản luôn đạt hơn 100 tỷ yên (khoảng 1 tỷ USD) mỗi năm. Từ năm 2001, Nhật Bản cắt giảm 10% ngân sách ODA nhưng vẫn giữ và tăng kim ngạch ODA cho Việt Nam. Năm 2003, mặc dù cắt giảm 5,8% ODA cho các nước nói chung, nhưng ODA cho Việt Nam vẫn là 91,7 tỷ yên, giảm khoảng 1.2% so với năm 2002. Năm 2009, ODA Nhật Bản dành cho Việt Nam trên 2 tỷ USD (183 tỷ Yên) > 100 tỷ Yên cam kết 1 năm trước, tiếp tục tập trung vào các dự án cơ sở hạ tầng, dự án môi trường...
Vai trò ODA Nhật Bản trên các lĩnh vực cụ thể:
a. Tác động của ODA Nhật Bản tới GDP và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác (từ đầu thập niên 90 đến nay)
Quốc gia
Trung Quốc
Indonesia
Malaysia
Philippine
Thái Lan
Việt Nam
Tăng GDP
0.12
0.5
0.2
0.71
0.49
1.65
Lạm Phát
-0.06
-0.22
-0.13
-0.6
-0.29
-0.69
Xuất Khẩu
0.14
0.59
0.19
0.9
0.34
2.53
Cán cân TM
139
67
13
6
29
28
ODA làm tăng tổng vốn đầu tư của các quốc gia tiếp nhận, do đó làm tăng năng lực sản xuất, kéo theo đó là tăng trưởng GDP so với trường hợp không nhận nguồn vốn bổ sung này. Từ bảng trên cho thấy, tác động của vốn vay ODA Nhật lên tăng trưởng GDP của Việt Nam là 1,7% , trong khi ở các quốc gia còn lại lớn nhất chỉ là 0,7% (thấp hơn một nửa). Đây là một con số khá lớn, đặc biệt đối với Việt Nam, kể cả nếu so với tốc độ tăng trưởng chung của GDP khá nhanh trong cùng thời kỳ, trên 7%.
Bên cạnh đó tăng năng lực sản xuất giúp làm giảm lạm phát. Được lợi nhất vẫn là Việt Nam, với tốc độ giảm lạm phát là 0,7%. Giá cả nội địa giảm sẽ cải thiện tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của những nước tiếp nhận này, và do đó làm tăng khối lượng xuất khẩu của họ, đáng kể nhất vẫn là Việt Nam, tới 2,5%. Nhập khẩu cũng tăng vì nhu cầu của nền kinh tế đã tăng hơn khi tốc độ tăng trưởng nhanh hơn, nhưng nhu cầu này phần nào bị cản trở bởi sự giảm giá ở thị trường nội địa nên cuối cùng cán cân thương mại vẫn được cải thiện mạnh, ở Việt Nam là 28% (cao nhất là Trung Quốc 139%).
Nguồn vốn này còn đặc biệt khi nó là nguồn vốn bổ sung quý báu và quan trọng cho phát triển vào những giai đoạn khó khăn, khủng hoảng kinh tế ở châu Á (ví dụ vào thời kỳ khủng hoảng tài chính năm 1997, khủng hoảng kinh tế 2008-2009).
b. Vai trò của ODA đối với sự phát triển cơ sở hạ tầng
ODA Nhật Bản chú trọng đầu tư, hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng (đường xá, cầu cảng, điện, thông tin, năng lượng…). Hơn 50% số dự án sử dụng vốn ODA Nhật Bản là các dự án về xây dựng cơ sở hạ tầng.
Giới thiệu một số dự án lớn có vai trò quan trọng
* Cầu Bãi Cháy: ( sau hơn 3 năm xây dựng, 2/12/2006 khánh thành)
Dự án cầu Bãi Cháy được thực hiện bằng vốn vay ODA Nhật Bản và vốn đối ứng trong nước với tổng mức đầu tư 2.140 tỷ đồng. Cầu Bãi Cháy nằm trên Quốc lộ 18 nối liền 2 khu vực trung tâm văn hóa – kinh tế của tỉnh Quảng Ninh là Hòn Gai và Bãi Cháy, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông nội đô thành phố Hạ Long và nối thông toàn bộ Quốc lộ 18 – trục giao thông huyết mạch của tam giác kinh tế: Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của toàn bộ vùng Đông Bắc đất nước.
* Hầm qua đèo Hải Vân
Đây là hầm đường bộ lớn nhất được xây dựng ở Việt Nam và là một trong 30 hầm lớn và hiện đại nhất của thế giới. Tổng vốn đầu tư là hơn 127,9 triệu USD, trong đó vốn ODA chiếm hơn 75%. Việc thông xe công trình đã cải thiện cơ bản điều kiện giao thông qua lại trên đoạn đường đèo hiểm trở, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội của cả nước, và trực tiếp là miền Trung. Đường hầm bao gồm điểm đầu và điểm cuối của con đường hành lang Đông - Tây là một trong những dự án quan trọng được các nước ASEAN và các nước vùng sông Mê Kông đánh giá cao.
* Dự án đường cao tốc TPHCM - Long Thành - Dầu Giây
Dự án với tổng vốn đầu tư hơn 932,4 triệu USD do cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và ngân hàng phát triển châu Á (ADB) cho vay. Đường cao tốc này nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam nên có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với sự phát triển của khu vực.
Năm tài khóa 2008 : Dự án xây dựng tuyến đường sắt đô thị TP Hà Nội (đoạn Nam Thăng Long - Trần Hưng Đạo, tuyến số 2, giai đoạn 1) trị giá 14,688 tỷ Yên; Dự án cải thiện môi trường TP Hải Phòng, trị giá 21,306 tỷ Yên; Dự án thoát nước Hà Nội giai đoạn, trị giá 29,289 tỷ Yên; Dự án tín dụng ngành giao thông vẫn tải để nâng cấp mạng lưới đường bộ giai đoạn 2, trị giá 17,918 tỷ Yên.
Nửa đầu năm tài khóa 2009 (kéo dài từ 1/4/2009 tới 31/3/2010), Nhật Bản sẽ cung cấp khoản tín dụng ưu đãi đợt một trị giá 65 tỷ Yên (704 triệu USD). Khoản tín dụng này sẽ hỗ trợ Việt Nam phát triển cơ sở hạ tầng và khắc phục hậu quả từ khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế tập trung vào 5 dự án:
+ Dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện Thái Bình và đường dây truyền tải điện trị giá 20,737 tỷ Yên;
+ Dự án phát triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ cho người nghèo 17,9 tỷ Yên
+ Dự án tài trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ giai đoạn ba 17,379 tỷ Yên
+ Dự án tăng cường năng lượng hiệu quả và tái tạo năng lượng 4,682 tỷ yên
+ Dự án xây dựng tuyến đường tránh thành phố Cần Thơ 4,141 tỷ yên
Hiện nay, với sự hỗ trợ ODA nói chung và ODA Nhật Bản nói riêng, hệ thống kết cấu hạ tầng của ta đã tương đối hiện đại đặc biệt là sự ra đời của các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao đã tạo ra môi trường hết sức thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, trong quá trình giải ngân nguồn vốn này, phía Việt Nam vẫn còn không ít những vấn đề hạn chế. Tiêu biểu là vụ việc tham nhũng năm 2008 về việc một số quan chức Nhật Bản hối lộ Ban quản lí dự án đại lộ Đông - Tây, thành phố Hồ Chí Minh của công ty PCI. Đây là điều mà chúng ta cần xem xét để sử dụng nguồn vốn ODA hiệu quả hơn, phát huy đúng vai trò của ODA đối với phát triển kinh tế Việt Nam.
Vụ PCI xảy ra sau khi Nhật Bản công bố ý định mở rộng ODA cho Việt Nam lên đến 65,3 tỷ Yên (700 triệu USD) đối với các dự án hạ tầng giao thông và thoát nước. Trước tình hình này, Nhật Bản buộc phải quyết định tạm ngừng toàn bộ tiến trình vốn vay cho các dự án của Việt Nam vừa công bố. Nhật đã đình chỉ quá trình cho vay ưu đãi đối với Việt Nam. Nhiều dự án, công trình có sử dụng vốn ODA bị chậm lại, dở dang, tiêu biểu là 2 trong số 3 dự án lớn mà Nhật Bản dự kiến sẽ cam kết cấp vốn nhưng đã bị tạm dừng là dự án thoát nước Hà Nội giai đoạn 2 và dự án tàu điện ngầm Hà Nội. Tiếp đó là 5 công trình trọng điểm chào mừng đại lễ 1000 năm Thăng Long (đường Láng - Hòa Lạc, cầu Vĩnh Tuy, dự án tăng cường năng lực giao thông Hà Nội…) gặp không ít khó khăn do thiếu vốn. Đặc biệt là đường Láng - Hòa Lạc trong trận lụt cuối năm 2008, đang thi công nhưng phía Nhật Bản lại ngưng cấp vốn khiến tiến độ bị chậm lại, đường bị ảnh hưởng nghiêm trọng do phải chịu úng lụt nhiều ngày.
c. Vai trò của ODA trong xóa đói giảm nghèo
Xóa đói giảm nghèo luôn là một trong những mục tiêu ưu tiên hàng đầu mà các chính phủ hướng tới, tất nhiên cũng không nằm ngoài sự thu hút của các dự án ODA. Hỗ trợ về phát triển nguồn nhân lực, đồng thời góp phần xóa đói giảm nghèo cũng là một trong những dự án hướng tới nhiều nhất của Nhật Bản dành cho Việt Nam. Điều này được thể hiện rõ nét thông qua các dự án phát triển nông nghiệp và nông thôn, kết hợp xóa đói giảm nghèo trong nguồn vốn vay để tạo ra các ngành nghề phụ, hỗ trợ phát triển công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, phát triển giao thông nông thôn, cung cấp nước sạch, phát triển lưới điện sinh hoạt, trạm y tế, trường học… Tiêu biểu như các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng từ rất nhiều dự án như xây dựng hệ thống đường sắt nội đô Hà Nội (Nam Thăng Long - Trần Hưng Đạo), dự án cải thiện môi trường thành phố Hải Phòng, hệ thống thoát nước lưu vực sông Tô Lịch… đều có ý nghĩa to lớn trong bối cảnh Việt Nam hiện nay vì đã giải quyết một số lượng việc làm lớn cho người lao động, góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo của Việt Nam.
Những đóng góp ODA Nhật Bản về phát triển kinh tế đã góp phần cải thiện mức sống dân cư và giảm tỷ lệ nghèo đói tại VN. Nhìn vào biểu đồ, tỷ lệ nghèo chung và nghèo thực phẩm giảm đáng kể, từ 58,1% nghèo chung năm 1993, xuống còn 16% năm 2006. Tỷ lệ nghèo thực phẩm (đói) từ 24,9% năm 1993, xuống còn 4,9% năm 2006, tới hết 2009 tỉ lệ nghèo chung còn 11%. Kết quả này cho thấy Việt Nam đã đạt mục tiêu phát triển thiên niên kỉ (MDGs) mà nước ta cam kết với thế giới. Những kết quả này có sự góp phần quan trọng của ODA nói chung và ODA Nhật Bản nói riêng.
Tỷ lệ nghèo Việt Nam giai đoạn 1993-2006
Năm 2009, Nhật Bản đã cam kết viện trợ cho Việt Nam 65 tỷ Yên trong giai đoạn 1 cho 5 dự án, trong đó có dự án phát triển cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ cho người nghèo. Các dự án này cũng được phía Nhật Bản ủng hộ và hai bên đã thống nhất đề ra những biện pháp để quản lí và sử dụng hiệu quả hơn nữa nguồn vốn viện trợ này.
d. Vai trò của ODA đối với sự phát triển nguồn nhân lực
Đến tháng 6 năm 2006, Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam đã công bố chính sách ODA mới của Nhật Bản được áp dụng cho Việt Nam từ năm 2007 trở đi. Trong đó, lĩnh vực được ưu tiên hỗ trợ hàng đầu là cải thiện mức sống, trình độ dân cư và các lĩnh vực xã hội.
Nguồn vốn ODA đã đóng góp cho sự thành công của một số chương trình quốc gia có ý nghĩa sâu rộng như chương trình dân số và phát triển, tiêm chủng mở rộng, dinh dưỡng trẻ em... Nhờ đó mà chỉ số phát triển con người (HDI) cũng như chỉ số phát triển quốc gia của Việt Nam dần được cải thiện rõ rệt. HDI đã tăng từ 0,646 năm 1995 lên 0,691 năm 2003, đứng thứ 112 trong tổng số 177 nước được xếp hạng.
Trong thời kì 1990 - 1995 Việt Nam đứng hàng thứ 15 trong bảng xếp hạng các nước về tốc độ cải thiện chỉ số HDI và xếp thứ 37 theo tiêu thức này với mức tăng 6,7% trong giai đoạn 1995. Điều này phản ánh những thành tựu đạt được trong các lĩnh vực phát triển con người chủ chốt như mức sống, y tế và giáo dục mà có một phần đóng góp do ODA đem lại. Việt Nam tiếp tục được ca ngợi về những nỗ lực đảm bảo các phúc lợi xã hội trong Báo cáo phát triển con người của Chương trình Phát triển LHQ (UNDP) năm 2006 với chỉ số HDI đạt 0,709, xếp thứ 109 trên tổng số 177 quốc gia. Có thể nói, chỉ số này cho thấy Việt Nam đã đi lên một bước dài về chỉ số phát triển con người so với những năm cuối thế kỉ 20.
Các chính chính sách ODA mới về cải thiện mức sống và trình độ dân cư đã được ghi nhận và xem xét nghiêm túc trong cuộc họp giữa thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe tại Nhật ngày 19.10.2006.
e. Vai trò của ODA đối với sự phát triển khoa học kỹ thuật
Bước vào thiên niên kỷ thứ ba, khoa học và kỹ thuật đã trở thành yếu tố cốt yếu của sự phát triển, là lực lượng sản xuất trực tiếp trong nền kinh tế của một quốc gia. Riêng đối với Việt Nam, là một nước có nền kinh tế đang đi lên và phát triển thì một trong những yếu tố thúc đẩy sự đi lên của khoa học kỹ thuật chính là nhờ đến sự đóng góp không nhỏ của vốn vay ODA. Một hình thức khác ngoài việc viện trợ không hoàn lại, cũng nằm trong diện chương trình vốn ODA đó chính là hợp tác kỹ thuật. Cơ Quan Hợp Tác Quốc Tế Nhật Bản (JICA) đứng ra thực hiện điều hành quản lý hoạt động này. Hợp tác kỹ thuật bao gồm nhiều hoạt động, nhưng sau đây chúng ta sẽ chỉ điểm qua các hoạt động chính:
Hợp tác kỹ thuật kiểu dự án
Đây là một sự kết hợp của 3 dạng hợp tác trong 1 dự án. Đó là đào tạo đối tác Việt Nam, cử chuyên gia và cung cấp thiết bị máy móc. Trong đó dự án hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Một số dự án lớn đáng chú ý: Dự án Bệnh viện Chợ Rẫy, Dự án Trung tâm Nguồn nhân lực Việt – Nhật, Dự án Đào tạo Công nghệ Thông tin ở Việt Nam, Dự án Tăng cường năng lực quản lý hệ thống cảng biển ở Việt Nam, Dự án Nâng cao năng lực trường đại học Bách Khoa.
Nghiên cứu phát triển
Đây là một phần của hỗ trợ kỹ thuật để thức hiện các kế hoạch tổng thể, các nghiên cứu phát triển cho các dự án thuộc mọi lĩnh vực.Kết quả của các nghiên cứu này là cơ sở quan trọng cho các loại hình ODA kiểu vốn vay đồng yên. Đây là một bước vô cùng quan trọng khi đôi bên triển khai một dự án nào đó, và đánh giá nó có tính khả thi cao hay không. Tính đến năm 2001, có 47 dự án được tiến hành, trong đó nhiều nhất là về cơ sở hạ tầng với 26 dự án. Từ năm 2003, JICA chuyển hướng tập trung vào 3 lĩnh vực chính là khuyến khích tăng trưởng, cải thiện điều kiện sống xã hội và xây dựng cơ chế (thay vì 5 lĩnh vực như trước đây). Các nghiên cứu phát triển tiêu biểu trong những năm gần đây gồm có:
Năm 2007: Nghiên cứu phát triển trồng rừng theo “Cơ chế phát triển sạch”. Tổng diện tích rừng được tái tạo trong khuôn khổ dự án vào khoảng 310 ha. Mục tiêu cơ bản của dự án là tái trồng rừng ở vùng đất trống đồi trọc không thể sản xuất, nơi rừng đã bị chặt phá để canh tác từ trước những năm 1980.
Năm 2008: Nghiên cứu tổng quan sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Các hoạt động được thực hiện trong quá trình nghiên cứu gồm có việc làm rõ các vấn đề và hạn chế của Chương trình mục tiêu quốc gia, hình thành thiết kế lộ trình kế hoạch hành động, các khung cần thiết để thúc đẩy chương trình sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả từ 2006-2015, cuối cùng là trợ giúp hình thành nghiên cứu tổng quan.
Năm 2009: Nghiên cứu phát triển giao thông thủ đô. Mục tiêu của dự án là đưa ra chiến lược, định hướng và các phương pháp để phát triển đô thị hài hòa với kế hoạch thiết lập vận tải đô thị khối lượng lớn tốc độ cao trong tuơng lai, nhằm hiện thực hóa kế hoạch “Phát triển đô thị với định hướng phát triển giao thông công cộng” ở Hà Nội. Trong dự án kéo dài 18 tháng này, JICA cùng các chuyên gia của Hà Nội và các đơn vị liên quan sẽ cùng xem xét cách thức phát triển khu vực phụ cận các nhà ga trong mối liên kết chặt chẽ với các phương thức giao thông khác cũng như phương cách hướng dẫn và kiểm soát sự phát triển của các vùng phụ cận này.
III. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ, SỬ DỤNG HIỆU QUẢ NGUỒN VỐN ODA NHẬT BẢN
1. Đánh giá việc quản lý, sử dụng vốn ODA Nhật Bản
a. Thành tựu
Từ năm 1992-2008, trải qua 16 năm xây dựng đất nước chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu và tiến bộ trong việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhờ vốn ODA. Trong thời gian này, tổng số tiền mà Nhật Bản đã dành cho Việt Nam theo hình thức ODA đạt 15,11 tỷ USD, chiếm khoảng 30% tổng lượng ODA mà Việt Nam nhận được. Nhờ có nguồn vốn này mà chúng ta đã xây dựng và hoàn thiện nhiều công trình hạng mục quan trọng có vai trò lớn trong đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội.
Các công trình cụ thể sử dụng nguồn vốn ODA như:
- Về cấp nước: Cấp nước Gia Lâm (1993-1997) - ODA Nhật Bản, Nhà máy nước Bắc Thăng Long - Vân Trì - vốn vay ODA của JBIC (Nhật Bản) đã đáp ứng việc mở rộng dịch vụ cấp nước và nhu cầu dùng nước sạch của Thủ đô.
- Về thoát nước: Dự án Thoát nước Hà nội giai đoạn I (1996-2005) - vốn vay ODA của JBIC (Nhật Bản) được triển khai thực hiện đã góp phần hạn chế tình trạng úng ngập từ mùa mưa năm 2000 (tuy nhiên vì tính với trận mưa có cường độ 172mm/2 ngày nên chỉ có thể giảm thiểu thời gian úng ngập). Các trang thiết bị nạo vét được cung cấp đã phát huy tác dụng đối với các cống ngầm, kênh mương; cụm đầu mối Yên Sở đã hình thành với các hồ điều hoà, kênh, đường dọc các sông và trạm bơm Yên Sở với công suất 45m3/s (giai đoạn I) đã chính thức đưa vào hoạt động đã tạo ra được sự chủ động trong công tác tiêu thoát nước.
- Về hạ tầng đô thị: Phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đô thị HN giai đoạn I (1999-2008) - vay tín dụng JBIC, tạo cơ sở hạ tầng cho phát triển giao thông công cộng, từng bước giải quyết ách tắc giao thông tại các nút giao thông trọng điểm của Thành phố (Ngã Tư Vọng, Ngã Tư Sở, …), tạo quỹ nhà, khu đô thị cho di dân giải phóng mặt bằng, cải thiện bộ mặt đô thị. Bên cạnh đó xây dựng cơ sở hạ tầng và khu kỹ thuật phía Bắc sông Hồng.
- Về môi trường đô thị: tình hình môi trường đô thị có nhiều tiến bộ. Hiện tượng rác thải sinh hoạt ùn tắc lưu cữu đã giảm đáng kể, diện mạo môi trường của thành phố ngày càng được cải thiện và ý thức của người dân trong công tác VSMT được nâng cao thông qua việc tiếp cận chương trình 3R (của JICA)….
- Về giao thông vận tải: Có thể nói giao thông vận tải là một trong những lĩnh vực sử dụng nhiều vốn ODA nhất của chúng ta từ trước tới nay. Từ năm 1994 tới 2009, tính cả các dự án đã hoàn thành thì chúng ta đã có tới 99 dự án ODA trong lĩnh vực giao thông vận tải được kí kết với tổng mức đầu tư là 11,8 tỷ USD trong đó các dự án sử dụng vốn ODA của Nhật chiếm khoảng 55%. Qua đó chúng ta đã xây dựng được một hệ thống giao thông vận tải hiện đại đã ra đời: Quốc lộ 5, 10, 18 cầu Bãi Cháy, cảng Hải Phòng, cảng Tiên Sa, cảng Cái Lân, sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, các cầu lớn trên Quốc lộ 1A, cầu Bính, cầu Thanh Trì, hầm Hải Vân, đại lộ Đông Tây…
b. Hạn chế
Thứ nhất là ta chưa có chiến lược vận động và sử dụng ODA một cách rõ ràng và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Thủ tướng Chính phủ cũng đã giao trách nhiệm hoạch định chiến lược nợ dài hạn, soạn thảo danh mục các chương trình, dự án được đầu tư từ nguồn vốn vay nước ngoài hàng năm của quốc gia. Song như thế là chưa đủ vì cách thức huy động và đầu tư bằng vốn ODA có những điểm đặc thù rất khác biệt.
Về quy hoạch và phân bổ sử dụng vốn ODA: các chương trình/dự án ODA có xu hướng dàn trải, còn coi trọng về mặt số lượng chưa phù hợp với năng lực quản lý. Việc quy hoạch mới chỉ đặt ra các định hướng mang tính ngành, lĩnh vực mà chưa thể hiện định hướng đầu tư theo các vùng, lãnh thổ, chưa có phân định rõ ràng về tỷ lệ đầu tư theo khu vực. Đối với các địa phương, vấn đề hoạch định chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng ODA là hết sức nan giải do có rất ít sự chủ động của địa phương trong vấn đề này, và năng lực đội ngũ quản lý ODA ở địa phương là yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu.
Cơ chế, chính sách quản lý và sử dụng vốn còn nhiều điểm chưa hợp lý, thiếu sót gây khó khăn hoặc tạo kẽ hở cho các cá nhân trục lợi trong quá trình tiến hành dự án như: các thủ tục, quy trình hướng dẫn giải ngân vốn còn rườm rà cản trở tiến độ dự án, thu thuế từ dự án cũng gặp phải nhiều khó khăn và vấn đề thiếu vốn đối ứng khiến cho các dự án bị ngưng trệ hoặc phát sinh chi phí do kéo dài thời gian tiến hành.
Ngoài ra là vấn đề phân cấp quản lý vốn ODA giữa trung ương và địa phương. Hiện nay, chúng ta chưa có hệ thống tiêu chí phân cấp rõ ràng, chỉ mới dựa vào qui mô của dự án để quyết định phân cấp: Chính phủ trực tiếp quản lý các DA lớn, còn chính quyền địa phương được phân cấp quản lý một số DA qui mô nhỏ. Sự không rõ ràng trong phân cấp quản lý vốn ODA là một trong những nguyên nhân gây nên sự chậm trễ và đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau giữa các cấp.
Cơ chế vận động và sử dụng nguồn ODA quá phức tạp liên quan đến nhiều cấp bộ ngành, địa phương. Hơn nữa, điều này còn phụ thuộc vào cách thức của từng nhà tài trợ. Do vậy, một dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA không thành công, chúng ta gặp khó khăn khi muốn xác định nguyên nhân đích thực để có biện pháp tháo gỡ kịp thời. Theo bộ tài chính, chỉ có 4% lượng vốn ODA áp dụng các quy định về đấu thầu và 3% sử dụng hệ thống quản lý tài chính công của Việt Nam, còn lại hầu hết là theo cách thức của các nhà tài trợ.
Việc đánh giá theo dõi tình hình đầu tư ODA còn nhiều hạn chế và thiếu sót. Công tác theo dõi, thống kê, kiểm tra và đánh giá hiệu quả của công trình sau đầu tư còn bị bỏ ngỏ. Kết quả quản lý thường chỉ được đánh giá bằng công trình (mức độ hoàn thành, tiến độ công trình) mà chưa xem xét tới hiệu quả thực sự của công trình đối với kinh tế xã hội khi đưa vào vận hành khai thác. Điều này góp phần gây nên sự lãng phí và né tránh trách nhiệm của các bộ phận liên quan. Công tác quản lý, thanh tra kiểm tra của chúng ta vẫn chưa chặt chẽ, việc quản lý và sử dụng còn nhiều sai sót khiến cho một số cá nhân vẫn có cơ hội trục lợi, gây thiệt hại nghiêm trọng và mất uy tín với các nước và tổ chức tài trợ, tiêu biểu là vụ PMU 18, và vụ đại lộ Đông Tây.
Khâu lựa chọn nhà thầu xây lắp, mua sắm và dịch vụ tư vấn thực hiện chương trình, dự án đầu tư còn bị động, lỏng lẻo tạo nên lãng phí về vốn cũng như làm giảm hiệu quả đầu tư. Việc tổ chức đấu thầu để lựa chọn các nhà thầu phức tạp, kéo dài và chất lượng chưa cao, đặc biệt đối với các hạng xây lắp và mua sắm trang thiết bị thường phải mất từ 2-3 năm, trên 35% số dự án có thời gian đấu thầu chậm hơn nhiều so với thời gian đã quy định trong báo cáo nghiên cứu khả thi. Hiện nay còn tồn tại hạn chế trong công tác giải phóng mặt bằng gây ảnh hưởng không nhỏ tới thời gian ân hạn, đây là nguyên nhân trực tiếp từ việc thiếu Ban quản lý dự án chuyên nghiệp và sự phân cấp quản lý cụ thể cho địa phương.
2. Bài học kinh nghiệm
a. Bài học kinh nghiệm của nước ngoài trong sử dụng vốn ODA
Trung quốc: tóm tắt nguyên nhân thành công của việc sử dụng ODA ở Trung Quốc có mấy điểm: chiến lược hợp tác tốt, xây dựng tốt các dự án, cơ chế điều phối và thực hiện tốt, cơ chế theo dõi và giám sát chặt chẽ. Trung Quốc đặc biệt đề cao vai trò của việc quản lý và giám sát. Việc trả vốn ODA ở Trung Quốc theo cách “ai hưởng lợi, người đó trả nợ”. Quy định này buộc người sử dụng phải tìm giải pháp sản sinh lợi nhuận và lo bảo vệ nguồn vốn.
Ba Lan: các nguồn hỗ trợ trong đó có ODA được coi là “quỹ tài chính công”, việc mua sắm tài sản công phải tuân theo Luật mua sắm công và theo những quy tắc kế toán chặt chẽ. Quá trình giải ngân khá phức tạp nhằm kiểm soát đồng tiền được sử dụng đúng mục đích. Trong đó, nhà tài trợ có thể yêu cầu nước nhận viện trợ thiết lập hoặc sửa đổi hệ thống thể chế và hệ thống luật pháp. Ba Lan đặc biệt chú trọng công tác kiểm soát và kiểm toán. Công tác kiểm toán tập trung vào kiểm toán các hệ thống quản lý. Chính phủ Ba Lan cho rằng, kiểm tra và kiểm toán thường xuyên không phải để cản trở mà là để thúc đẩy quá trình dự án.
Malaysia: đánh giá cao hỗ trợ kỹ thuật từ các nhà tài trợ. Mục đích lớn nhất của Malaysia là nhận hỗ trợ kỹ thuật để tăng cường năng lực con người thông qua các lớp đào tạo. Malaysia công nhận rằng họ chưa có phương pháp giám sát chuẩn mực. Song chính vì vậy mà Chính phủ rất chú trọng vào công tác theo dõi đánh giá. Cũng tương tự như Ba Lan, Malaysia đặc biệt chú trọng đơn vị
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vai trò của vốn ODA Nhật Bản đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam.doc