Như chúng ta đó biết Việt Nam là một đất nước cú lịch sử văn húa lõu đời,ngay từ xa xưa ụng cha ta đó phải khẳng định rằng:phộp vua”thua”lệ làng”.Suy nghĩ này đó ăn sõu vào tiềm thức cua người dõn tạo nờn một cản trở khú khăn cho việc xõy dựng ý thức phỏp quyền ở Việt Nam.Như V.I>LeNin đã từng nói “ người ta có thể đập tan ngay một thiết chế nhưng không bao giờ đap tan ngay được một tập quán”.Bên cạnh nạn “sứ quân” trên nhiều lĩnh vực pháp chế và hành chính công quyền ở Việt Nam là một vấn nạn lớn cho nhu cầu trật tự pháp chế quốc gia. Khi mà thẩm quyền của quốc gia bị dừng lại ở cổng làng thì nạn thao túng và lạm dụng quyền lực ở cấp độ địa phương là hệ quả không thể tránh khỏi. Nạn sứ quân có nhiều hình thức.Tinh thần che chở bè quái, quen biết trên căn bản cá nhân và tổ chức là trọng tâm; tinh thần thượng tôn luật pháp là thứ yếu. Chúng ta có thể nói rằng những phạm vi luật pháp trầm trọng ở Việt Nam hiện nay ( ma tuý, buôn lậu, phá rừng, ô nhiễm môi trường, kinh doanh phi pháp) phần lớn đều được chủ động từ những phần tử ảnh hưởng đến chính quyền địa phương dưới nhiều hình thức. Chính quyền trung ương chỉ có thể càm thiệp vào khi mà vấn đề đã trở nên quá lớn và không thể còn che đậy được nữa. Hiện tượng bất mãn, đấu tranh của quần chúng nông thôn ở các vùng ở Vịêt Nam gần đây vì nhiều vấn đề ở nhiều địa phương khác nhau đang báo động đến vấn đề trật tự pháp chế lớn lao này. Nếu có một nguy cơ nào lớn nhất để làm tiêu huỷ biện minh cai trị của Đảng Cộng sản và tan vỡ cơ chế công quyền Việt Nam thì đó là sự bất lực của chính quyền trung ương đối với các vấn đề địa phương này.
27 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 2237 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vai trò của ý thức pháp quyền trong đời sống xã hội và ứng dụng trong quá trình xây dựng ý thức pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệt trong việc xây dựng ý thức pháp quyền của công dân
II-NHỮNG TIỀN ĐỀ XÂY DỰNG Ý THỨC PHÁP QUYỀN TRONG XÃ HỘI
1-Tiền đề kinh tế
Sự ra đời và vận hành của một nền mới tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong đời sông kinh tế-xã hội của đất nước.Trình độ mới của lực lượng sản xuất phát triển làm thay đổi và xuất hiện nhiều quan hệ kinh tế mới trong sản xuất,kinh doanh,cung ứng dịch vụ,phân phối,lưu thông hàng hóa tiền tệĐiều này tất yếu dẫn đến nhu cầu khách là nhà nước phải thực hiện các biện pháp mà trước hết là xây dựng hệ thống pháp quyền,tạo ra cơ chế đảm bảo quyền sản,kinh doanh,cạnh tranh trên thị trường.Hay nói khác đi,buộc nhà nước phải thay đổi phương thức quản lí kinh tế-xã hội bằng pháp luật,phải xây dựng một nền ý thức pháp quyền đủ ở mức tạo thành hành thang pháp lí kiện toàn cho mọi hoạt động kinh doanh,tạo cơ sở pháp lí cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế
Hơn nữa,việc chỉ ra một cách đúng đắn những hạn chế của cơ chế quản lí cũ giúp chúng ta tìm được cách khắc phục nó một cách hiệu quả.Việc xóa bỏ cơ chế cũ phải diễn ra đồng thời với việc xây dựng cơ chế quản lí mới,từ đó tạo ra động lực mạnh mẽ để giải phóng năng lực sản xuất từng bước hoàn thiện nền pháp quyền khi các điều kiện kinh tế,chính trị của đất nước phát triển đến một trình độ nhất định,tạo điều kiện vật chất và tinh thần cần thiết để các quyền cơ bản của công dân trên mọi lĩnh vực của xã hội được đảm bảo thực thi một cách đầy đủ và triệt để
2-Tiền đề chính trị xã hội
Cùng với quá trình đổi mới kinh tế,những tác đọng về mặt chính trị-xã hội cũng tạo ra tiền đề quan trọng trong quấ trình hình thành tư duy,lí luận về ý thức pháp quyền.pháp luật là phương tiện triệt để củng cố,duy trì trật tự văn hóa xã hội.Giữa pháp luật và nhà nước phải có mối quan hệ hữu cơ với nhau.Để tạo nên sự ổn định của nhà nước,làm cho hệ thống bộ máy nhà
nước vận hành đúng quỹ đạo,phát huy được hiệu lực quản lý , điều hành thì phải xây dựng một hệ tư tưởng pháp luật đúng đắn
Trong hệ thống chính trị nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội là những bộ phận cấu thành cơ bản . Việc xây dựng ý thức pháp quyền phải được đặt trong bối cảnh đổi mới đồng bộ các thành tố cơ bản của hệ thống chính trị , trong mối quan hệ tác động qua lại giữa nhà nước và các tổ chức chính trị . Ngoài ra hệ thống chính trị xã hội cũng góp phần tạo ra tiền đề môi trường chính trị xã hội đặc biệt quan trọng trong việc nhận thức lý luận về xây dựng pháp luật nói riêng và ý thức pháp quyền nói riêng
III-VAI TRÒ CỦA Ý THỨC PHÁP QUYỀN TRONG ĐỜI SÔNG
XÃ HỘI
Ý thức pháp quyền có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội nói chung và đời sống pháp luật nói riêng . Pháp luật và hệ tư tưởng pháp quyền là tiền đề tư tưởng trực tiếp và tham gia vào tất cả các quá trình xây dựng pháp luật , thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật . Việc xác định vai trò của ý thức pháp quyền chính là xác định vai trò ý thức pháp luật của con người đối với xã hội hay cụ thể hơn là vai trò của con người trong ý thức về pháp luật , về tính hợp pháp và không hợp pháp trong hành vi của mình được quy định trong pháp luật . Về việc chấp hành và thực thi pháp luật . Từ đó tạo ra nhu cầu cần nắm vững pháp luật , tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân nắm pháp luật làm công cụ bảo vệ xã , bảo vệ chế độ và bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình . Pháp luật là một hiện tượng khách quan nhưng sự ra đời hình thành và phát triển của nó lại phải thông qua nhân tố chủ quan là con người , nói cách khác là thông qua ý thức pháp luật của con người . Xã hội càng phát triển thì pháp luật càng có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội , do đó ý thức pháp luật của con người cũng dần trở thành nguyên tắc và tiền đề của việc quản lý xã hội . Những thay đổi khách quan trong đời sống xã hội trước hết được phản ánh trong ý thức pháp luật rồi sau đó mới thể hiện các quy phạm pháp luật tương ứng . Pháp luật chính là sự thể hiện những nhận thức về các hiện tượng pháp lý tồn tại trong đời sống xã hội , từ đó đưa ra những cách xử sự chung cho các chủ thể
Ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng trực tiếp để con người dưới sự lãnh đạo của chính Đảng , thiết lập trật tự xã hội bằng các xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện của đất nước , cũng cố và phát huy hiệu lực của nhà nước và pháp luật trong việc quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội . Việc từng bước phát triển hệ thống , quan điểm , nguyên tắc cơ bản về xây dựng hệ tư tưởng pháp quyền tạo khuôn khổ pháp lý để nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực : kinh tế , xã hội , anh ninh quốc phòng . Điều đó có ý nghĩa quan trọng trên lĩnh vực xây dựng nhà nước và pháp luật
, làm cơ sở cho đổi mới hệ thống chính trị , đổi mới tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước phù hợp hơn với hoàn cảnh lịch sử
Ý thức pháp luật là biểu hiện khả năng nhận thức của con người trong lĩnh vực pháp luật . Nếu ý thức pháp luật tích cực nó trở thành điều kiện trực tiếp quan trọng để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật . Ngược lại nếu ý thức pháp luật còn ở trình độ thấp không đầy đủ thì việc xây dựng hệ thống pháp luật sẽ không phù hợp với yêu cầu khách quan của xã hội , từ đó kìm hãm sự phát triển của xã hội . Có thể nói trong quá trình xây dựng và phát triển của một đất nước việc xác định và phát huy hiệu lực điều chỉnh của vấn đề ý thức pháp quyền có một ý nghĩa hết sức quan trọng , không những góp phần cũng cố bảo vệ một cách có hiệu quả những thành tựu của cách mạng mà còn nhằm phát huy những thành tựu đó , tạo đà cho bước phát triển mới của xã hội trong bối cảnh chính trị thế giới đã và đang biến đổi sâu sắc
PHẦN II
QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG Ý THỨC PHÁP QUYỀN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I-BẢN CHẤT CỦA QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG Ý THỨC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM
Ý thức pháp quyền là một hệ thống các tư tưởng quan điểm của một giai cấp về bản chất, vai trò của pháp luật, quyền và nghĩa vụ của nhà nước, tổ chức cá nhân về tính hợp pháp và không hợp pháp của hành vi con người trong xã hội, nhận thức và tình cảm của con người trong việc thực thi luật pháp của nhà nước.Xây dựng ý thức pháp quyền cũng chính là xây dựng một
nền tảng pháp chế căn bản, thể hiện rõ được tất cả những vấn đề liên quan đến pháp luật, nhà nước và con người trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
Ở Việt Nam, quá trình xây dựng ý thức pháp quyền gắn liền với quá trình xây dựng nhà nước Pháp quyềnViệt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Chỉ khi có một nhà nước như vậy mới có thể phát huy được quyền dân chủ của nhân dân, đảm bảo quyền sống, quyền được làm việc, được lao động, được học hành, được đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội
Chính vì vậy, bản chất của quá trình xây dựng ý thức pháp quyền ở Việt Nam chính là quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân, vì dân.
Nghiên cứu về vấn đề ý thức nghĩa pháp quyền ở Việt Nam, ta đi vào nghiên cứu những đặc điểm, yêu cầu, bối cảnh thực trạng và giải pháp của việc xây dựng nhà nứơc pháp quyền ở Việt Nam trong thời kỳ hiện nay.
II-YÊU CẦU CỦA QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG Ý THỨC
PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Đối với Việt Nam, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền đang đựơc đặt ra như một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan
Tính tất yếu lịch sử của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam bắt nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta.Ngay từ khi thành lập và trong quá trình phát triển,Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã và luôn là một Nhà nứơc hợp tiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật.Các đạo luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ,Toà án nhân dân,Viện kiểm soát nhân dân và các đạo luật về chính quyền địa phương được xây dựng trên cơ sở các Hiên pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992.Những lần Hiến pháp được sửa đổi và thông qua là những bước củng cố cơ sở pháp luật cho tổ chức và hoạt động của bản thân các cơ quan Nhà nước.Vì vậy, có thể nói quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946.Quá trình này đã trải qua hơn nửa thế kỷ với nhiều giai đoạn phát triển đặc thù.Ngày nay, quá trình này đang được tiếp tục ở một tầng cao phát triển mới với nhiều đòi hỏi và nhu cầu cải cách mới.
Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa mà mục tiêu cơ bản là xây dựng một chế độ dân giàu, nứơc mạnh, xã hội công bằng dân chủ,văn minh.Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội có
mục tiêu như vậy, công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hoá.Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách Nhà nứơc,cải cách pháp luật,bảo đảm cho Nhà nước không ngừng vững mạnh,cơ hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, thực hành dân chủ, củng cố độc lập,tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.
2. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta là một nhà nước vừa phải thể hiện được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền đã được xác định trong lý luận và thực tiễn của một chế độ dân chủ hiện đại, vừa phải khẳng định được bản sắc, đặc điểm của riêng mình.
Sự khác nhau cơ bản giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, trong đó có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng ,đã được các đề tài của chương trình KX.04 khái quát trên những nét chính sau:
Thứ nhất:Cơ sở kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hộichủ nghĩa là nền kinhtế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường không phủ nhận các quy định khách quan của thị trường,mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường trong chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội.Do vậy, đặc tính của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tạo ra sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền tư sản Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đồng thời tạo ra nét đặc trưng của Nhà nứơc Pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Thứ hai:Cơ sở chính trị của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là chế độ dân chủ nhất nguyên, Chế độ dân chủ nhất nguyên là điều kiện cơ bản để tạo ra một đời sống dân chủ có tính thống nhất cao, một hệ thống chính trị thống nhất và một đòi hỏi có tính nội tại của chế độ Nhà nước luôn phải là thuộc tính của Nhà nước xã hội chủ nghĩa – Một Nhà nứơc đòi hỏi tính thống nhất và tính tổ chức cao trong tổ chức cũng như trong hoạt động của mọi cấu trúc Nhà nước để có thể đạt được các mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội.
Tính chất chuyên chính được thể hiện trong việc khẳng định vai trò lãnh đạo của một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam. Bản chất của một nền dân chủ không lệ thuộc vào chế độ đa đảng hay chế độ một đảng, mà lệ thuộc vào việc đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của ai, sử dụng quyền lực Nhà nước vào những mục đích gì trên thực tế. Vì vậy, điều kiện để xây dựng Nhà nước pháp quyền không thể là chế độ đa đảng hay chế độ một Đảng và không thể coi đó là căn cứ để đánh giá tính chất và trình độ của một nền dân chủ. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản - Đảng duy nhất cầm quyền đối với đời sống xã hội với đời sống Nhà nước không những khôgn trái với bản chất Nhà nước Pháp quyền nói chung mà còn là điều kiện có ý nghĩa tiến quyết đối với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân ở nước ta.
III.THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
A-THỰC TRẠNG
1. Vấn đề trật tự pháp chế
Với trường hợp Việt Nam, từ những vấn đề như mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo đến phân biệt địa phương đều có thể được cai chế bởi luật pháp trong công tác hành sử trật tự xã hội bằng sự kiện tạo định chế khách quan, tiêu chuẩn hành vi và quy tắc cưỡng chế cho công dân. Dĩ nhiên, luật pháp không chữa hết căn bệnh và giải toả hết mâu thuẫn xã hội, nhưng luật pháp có khả năng duy trì sự tính liên tục cho một cán cân quân bình cần thiết để xã hội được tiến hoá. Cái khó của một chế độ pháp trị là khả năng tự điều chỉnh cơ chế và giá trị biện minh pháp lý trong giai đoạn chuyển hướng toàn bộ của đại khối công dân Việt Nam hiện nay với ý thức mới trong năng động của hoàn cảnh và nhu cầu mới.
Trước hết, chúng ta phải bắt đầu với tiền đề rằng nhu cầu trật tự pháp chế là ưu tiên tối thượng và là nền tảng hiện hữu của quốc gia.Một quốc gia có thể có khuyết điểm nhiều nhưng không thế bất lực và vô trật tự nếu muốn tồn tại vì nếu không có một nền tảng trật tự tối thiếu, nó sẽ bị sụp đổ. Từ tiền đề ưu tiên trật tự đó,em xin đề cập tới hai vấn đề trật tự pháp chế của Việt Nam hiện nay vốn đang có mầm móng đe doạ sự ổn định toàn diện của xã hội.
a. Mâu thuẫn giữa trung ương và địa phương:
Như chúng ta đó biết Việt Nam là một đất nước cú lịch sử văn húa lõu đời,ngay từ xa xưa ụng cha ta đó phải khẳng định rằng:phộp vua”thua”lệ làng”.Suy nghĩ này đó ăn sõu vào tiềm thức cua người dõn tạo nờn một cản trở khú khăn cho việc xõy dựng ý thức phỏp quyền ở Việt Nam.Như V.I>LeNin đã từng nói “người ta có thể đập tan ngay một thiết chế nhưng không bao giờ đap tan ngay được một tập quán”.Bên cạnh nạn “sứ quân” trên nhiều lĩnh vực pháp chế và hành chính công quyền ở Việt Nam là một vấn nạn lớn cho nhu cầu trật tự pháp chế quốc gia. Khi mà thẩm quyền của quốc gia bị dừng lại ở cổng làng thì nạn thao túng và lạm dụng quyền lực ở cấp độ địa phương là hệ quả không thể tránh khỏi. Nạn sứ quân có nhiều hình thức.Tinh thần che chở bè quái, quen biết trên căn bản cá nhân và tổ chức là trọng tâm; tinh thần thượng tôn luật pháp là thứ yếu. Chúng ta có thể nói rằng những phạm vi luật pháp trầm trọng ở Việt Nam hiện nay ( ma tuý, buôn lậu, phá rừng, ô nhiễm môi trường, kinh doanh phi pháp) phần lớn đều được chủ động từ những phần tử ảnh hưởng đến chính quyền địa phương dưới nhiều hình thức. Chính quyền trung ương chỉ có thể càm thiệp vào khi mà vấn đề đã trở nên quá lớn và không thể còn che đậy được nữa. Hiện tượng bất mãn, đấu tranh của quần chúng nông thôn ở các vùng ở Vịêt Nam gần đây vì nhiều vấn đề ở nhiều địa phương khác nhau đang báo động đến vấn đề trật tự pháp chế lớn lao này. Nếu có một nguy cơ nào lớn nhất để làm tiêu huỷ biện minh cai trị của Đảng Cộng sản và tan vỡ cơ chế công quyền Việt Nam thì đó là sự bất lực của chính quyền trung ương đối với các vấn đề địa phương này.
B-GIẢI PHÁP
Thứ nhất: xây dựng một hệ thống cơ chế giám sát và thanh tra thường trực của trung ương đối với chính quyền địa phương. Với cơ chế này, chính quyền trung ương mới có đầy đủ thông tin, chức năng và khả năng chế tài liên tục và kịp thời đối với nạn sứ quận địa phương hiện nay.
Thứ hai:Điều chỉnh hiến pháp quốc gia nhằm cải tổ toàn bộ và sâu rộng cơ chế chính quyền và đảng bộ của cấp tỉnh, huyện và xã. Một trong những nguyên nhân chính cho những hiện tượng tiêu cực sâu rộng ở địa phương phát xuất từ sự tự thiếu hiệu năng của cơ chế công quyền cấp tỉnh và huyện đối với cán bộ của đảng và chính phủ. Cải tổ cấu trúc là căn bản, xong đến định chế chức năng, và kế tiếp là nhân sự.
b. Hố ngăn cách giữa pháp chế quốc gia và hành chánh công quyền:
Vấn đề của chính quyền Việt Nam hiện nay là chức năng và cơ chế hành chánh công quyền chưa đặt nền tảng thẩm quyền trên cơ sở luật pháp. Gần như là tất cả vai trò của chính phủ Việt Nam là sự kiến tạo trật tự hành chánh bằng quyền hạn lập quy (chính sách và chỉ thị) không có cơ sở pháp lý. Vì thế, nhà nước Việt Nam hiện nay chỉ đang ở mức độ và giai đoạn thực thi chính sách hành pháp chứ chưa thể hiện luật pháp quốc gia. Từ đó, hệ thống công quyền và quyền hạn cướng chế ván chưa phải là của một nhà nước pháp quyền. Đây là một mâu thuẫn vo lý cao độ giữa chính sách hành pháp và cơ sở pháp ký vốn đang làm suy giảm biện minh chính thống của thẩm quyền quốc gia cũng như soi mòn mọi cơ hội tiến đến một xã hội pháp trị.
Có nhiều lý do tính trạng thiếu hiệu năng của chính sách hành pháp: Thứ nhất, chính sách thiếu biện minh chính thống. Thứ hai là chính sách không có khuôn thước quy tắc và tính liên tục để giải quyết mâu thuẫn. Chính sách tự nó thiếu cơ sở lý luận và chi tiết, đồng thời mang tính bất thường, hay bị thay đổi, cho phép cơ quan và nhân viên công quyền một mức độ tuỳ quyền không rõ rệt. Chính sách cũng không bị cai chế bởi một cơ quan giám định độc lập nào nhằm có thể tuỷ theo đièu kiện thực thi để có thể thay đổi hay bổ sung. Hơn nữa, chính sách thường được ban hành theo nhu cầu, hình thành trong vội vã, thiếu cơ sở nghiên cứu và góp ý sâu rộng, không phản ánh được những nguyện vọng liên hệ cho nên có những hậu quả không lường trước. Trên lĩnh vự kinh tế, nhất là khi đi vào kinh tế thị trường, cai quản kinh tế bằng chính sách sẽ không tạo được một định chế khă tín cho thương trường.
Do đó, đối với Việt Nam nay, sự chuyển tiếp từ hành chách chính sách đến hành chách pháp chế là một điều kiện căn bản cho cơ đồ pháp chế hoá xã hội. Nói đến điều kiện này nói đến hiến pháp quốc gia vai trò lập pháp chế hoá xã hội. Nói đến điều kiện này là nói đến hiến pháp quốc gia và vai trò lập pháp của Quốc hội. Việt Nam cần phải tu chính hiến pháp quốc gia để được cập nhật hoá với thực tế của thời đại và nhu cầu quốc dân. Đồng thời, chức năng, vai trò và định chế của quốc hội cũng cần phải thay đổi sâu rộng. Đây là những việc lớn có tầm vóc lịch sử. Việt Nam có xứng đáng với lịch sử hay không là tuỳ vào tốc độ và bản chất chuyển hoá ở cấp độ pháp chế này
2. Vấn đề xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Có thể nói trong quá trình bảo vệ , xây dựng và phát triển đất nứơc, việc phát triển huy hiệu điều chỉnh của hệ thống pháp luật có ý nghĩa hết sức to lớn, không những góp phần củng cố, bảo vệ một cách có hiệu quả những thành quả của cách mạng mà nhằm phát huy những thành quả đó, tạo đà cho bước phát triển mới của đất nước trong bối cảnh chính trị thế giới đã và đnag có nhiều biến đổi sâu sắc. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO và đang trong giai đoạn đẩy mạnh quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa càng đòi hỏi chúng ta xây dựng và hoàn thiện một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, minh bạch. Hơn nữa, nhu cầu đổi mới tư duy pháp lý đã được đặt ra và quán triệt trong giai đoạn đấu tranh loại bỏ cơ chế pháp lý của nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung bao cấp. Xây dựng cơ chế pháp lý cho cơ chế kinh tế mới. Ngày nay một lần nữa nhu cầu đổi mới tư duy pháp lý lại được đặt ra với tính cấp thiết mạnh mẽ, kiênm quyết, vượt ra khỏi khuôn khổ có tính hệ thống lâu nay trong việc xây dựng pháp lý và thi hành pháp luật. Tư duy pháp lý mới có thể đựơc phác thảo trên những nét chính sau.
a, Xác định và quán triệt cơ sở lý thuyết cho mô hình luật pháp nước ta trong giai đoạn phát triển đến 2010 và các giai đoạn tiếp theo. Điều này có ý nghĩa là chúng ta không thể áp dụn một cách máy móc các mô hình lý thuyết hiện nayđang đựơc áp dụng ở các quốc gia trên thế giới. Nhưng chúng ta cũng không thể không tính đến sự ảnh hưởng và chi phối của các lý thuyết này đối với sự vận động của đời sống pháp luật hiện đại. Vì vậy, việc nghiên cứu xây dựng các cơ sở lý thuyết cho mô hình luật pháp nước ta cần đặt trong mối quan hệ giữa hai yếu tố: dân tộc và hiện đại.
Trong kịch sử, dân tộc ta rất thông minh và chủ động trong việc tiếp thu pháp luật nước ngoài để cách tân đất nước. Ngày nay, chúng ta cũng cần tiếp thu có chọn lọc các giá trị pháp luật nước ngoài một cách chủ quan và thông minh để tiếp tục củng cố và phát triển đất nước. Tuy nhiên, việc tiếp thu các giá trị và kinh nguyệm pháp luật nước ngoài cần tuân theo ba điều cơ bản. Thứ nhất, tư tưởng của pháp luật du nhập phải tương đồng với ý thức pháp lý đang thống trị ở nước tiếp nhận. Thứ hai, pháp luật du nhập phải tương đồng với cầu trúc, hình thái và phương thức tổ chức quyền lực Nhà nước tại quốc gia sở tại. Thứ ba, pháp luật du nhập phải phù hợp với phương thức sản xuất xã hội, phải được số đông thành viên trong xã hội chấp nhận và ủng hộ.
b, Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc dân trong bối cảnh toàn cầu hoá, bảo đảm sự tương thích của pháp luật quốc gia với các không gian pháơ lý có tính quốc tế đang đòi hỏi chúng ta đẩy mạnh việc đổi mới công tác lập pháp. Việc đổi mới công tác lập pháp công tác lập pháp có thể khái quát trên một số nét sau:
Một là, đổi mới công tác kế hoạch lập pháp. Kế hoạch làm luật nếu chỉ được tiến hành trên cơ sở đề suất của các cơ quan hữu quan để tập hợp, cân đối và thông qua sẽ không thể khắc phục được tình trạng không hoàn thành kế hoạch, vì không ít dự án luật được đăng ký theo kiểu “giữ chỗ” và trên thực tế, rất khó xây dựng do chưa xác định được đầy đủ tính chất mục tiêu, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh. Sự đăng ký văn bản theo kiểu “ghi danh” đã không ràng buộc một cách chặt chẽ trách nhiệm của cơ quan đề xuất dự luật. để khắc phục tình trạng này, nên chăng, thay vì xây dựng và thông qua kế hoạch làm luật hàng năm và 5 năm thường kệ, Quốc hội chỉ cần thông qua các sáng kiến pháp luật. Cá nhân, cơ quan (theo quy định cỉa pháp luật) nêu sáng kiến pháp luật có trách nhiệm lập luận các căn cứ cần thiết của mục tiêu, đối tượng cần điều chỉnh và tính khả thi của công tác xây dựng văn bản, trên cơ sở đó, Quốc hội thảo luận, thông qua và giao trách nhiệm xây dựng dự thảo cho các cơ quan, tổ chức cá nhân phù hợp.
Hai là, thay đổi quan niệm về quy mô các đạo luật được xây dựng và thông qua phần nhiều có dung lượng khá lớn các quy phạm và đối tượng điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh cũng khá lớn. Chính sự đầu tư “nhân, tài vật lực” cho các đạo luật có quy mô lớn đã làm cho công việc soạn thoả các dự thở căn bản bị kéo dài, tính chất đồng bộ và tính thống nhấy của dự thảo trong mối quan quan hệ với các đạo luật khác nhiếu khi không được bảo đảm. Đặc biệt, các đạo luật lớn vì phức tạp nên thường phải tranh luận, thảo luận, nhiều thời gian mới mong đạt được sự thống nhất các thảo luận, chỉnh lý và thông qua tại Quốc hội thường kéo dài. Khoảng cách giữa nhu cầu cấp bách phải điều chỉnh và khả năng điều chỉnh của đạo luật ngày càng xa đã dẫn đến tình trạng, đợi được luật ra đời, cuộc sống đã chuyển sang một mức độ phát triển khác. Để khắc phục tình trạng này, thay vì xây dựng và thông qua các đạo luật có quy mô lớn nên tập trung xây dựng và thông qua các đạo luật có quy mô điều chỉnh pháp luật, dễ dàng tương thích với các không gian pháp lý quốc tế. Tính hữu ích của một đạo luật ít điều khoản không chỉ thể hiện ở sự gọn nhẹ về nội dung, để xây dựng mà còn thể hiện ở việc dễ kiểm soat tính đồng bộ và thống nhất, dễ kiểm soát tính đồng bộ và thống nhất, để sửa đổi khi có nhu cầu và dễ áp dụng trên thực tế.
Ba là, đổi mới cách thức và quy trình thông qua luật: Phong cách lamg luật lâu nay của cơ quan lập pháp thể hiện ở các hoạt động thảo luận của các đại biểu Quốc hội, thẩm định của các uỷ ban của Quốc hội, giải trình tiếp thu của cơ quan soạn thảo, đã rất khó nâng cao được chất lượng và hiệu quả của đạo luật. Sự thảo luận chủ yếu ở dạng câu chữ đã chiếm khá nhiều thời gia, trong khi nội dung dự thảo lại ít được chú ý. Do vậy, ý kiến thảo luận của đại biểu Quốc hội đối với các dự thảo chất lượng cao. Để khắc phục tình trạng này, trước khi dự thảo được đửa ra thảo luận nghiên cứu, các trường đại học với nhiệm vụ đánh giá về mặt khoa học bởi các nhóm chuyên gia từ các viện nghiên cứu, các trường đại học với nhiệm vụ đánh giá về phương diện khoa học toàn bộ dự ánluật, từ hình thức biểu đạt, cấu trúc đến nội dung các điều luật, nhằmphát hiện ra các lỗi cả về kỹ thuật văn bản, lẫn nội dung văn bản. Sự thẩm định khoa học về dự thoả văn bản do các nhóm chuyên gia thực hiện một cách độc lập vừa là cơ sở để ban soạn thảo chỉnh lý văn bản, vừa là tài liệu tham khảo cho các đại biểu Quốc hội khi thảo luận dự thảo. Mặt khác, để nâng cao chất lượng các đạo luật, quy trình thông qua dự thảo cần được tiến hành thao hai bước: thảo luận, thông qua tại một uỷ ban tương ứng của Quốc hội và thảo luận, thông qua tại phiên họp toàn thể của Quốc hội. Như vậy, chỉ khi nào dự thảo được thông qua tại một uỷ ban của Quốc hội thì mới được xem xét, thảo luận, thông qua tại Quốc hội. Quy định như vậy không chỉ nêu cao vai trò làm luật của các uỷ ban của Quốc hội, mà còn tiết kiệm thời gian làm việc của Quốc hội., nâng cao đạo luật.
Bốn là, tăng cường lắng nghe ý kiến nhân dân đóng góp xây dựng các dự thảo luật: Các dự thửo luật một khi được xây dựng ngắn gọn, ít điều khoản sẽ rất dễ dàng cho nhân dân tiếp cận.Sự tham gia đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật của đông đảo các tầng lớp nhân dân là điều kiện quan trọng để pháp luật phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bảo đảm cho pháp luật thật sự là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cần quy định, việc lấy ý kiến của nhân dân (chứ không chỉ lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức hay của một số cán bộ) đối với các dự án luật l
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8969.doc