Trong kinh tế thị trường Nhà nước với tư cách là người điều hành quản lý xã hội đồng thời là khách hàng lớn của các chủ thể kinh tế. Nhà nước thường đảm bảo các dịch vụ bưu điện, thông tin liên lạc, phát thanh truyền hình, giao thông vận tải. Nhà nước dùng pháp luật để điều hành, dùng các chính sách như: Chính sách đối nội, đối ngoại, chính sách kinh tế và những công cụ khác để tác động vạch ra kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hạn chế những tiêu cực do kinh tế thị trường gây ra.
Theo David Begg- Giáo sư kinh tế học trường tổng hợp Luân Đôn, Anh và hai giáo sư kinh tế học người Mỹ Stantry Fischer và Rudiger Dorubush thì nguyên cơ chung để Chính phủ can thiệp vào thị trường là những trục trặc của thị trường. Đôi khi thị trường không phân bố các nguồn lực một cách có hiệu quả và phải có sự can thiệp của Nhà nước để có thể cải thiện hoạt động kinh tế.
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2221 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vĩ đại của dân tộc. Nó đã cho phép Đảng và Nhà nước huy động ở mức cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến.
Tuy nhiên, càng về sau cơ chế này càng tỏ ra không phù hợp và xuất hiện nhiều tiêu cực làm hạn chế mầm mống của sự phát triển, làm tăng thêm, bộc lộ những mâu thuẫn vốn có trong xã hội. Làm cho lòng tin của nhân dân vào Đảng bị giảm sút.
Để đi sâu nghiên cứu cơ chế thị trường ta phải tìm hiểu kỹ cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp. Với các đặc trưng chủ yếu:
- Quản lý kinh tế băng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu điều đó thể hiện ở sự chi tiết hoá quá đầy các nhiệm vụ do Trung ương giao bằng mọi hệ thống chi tiêu pháp lệnh từ trên xuống.
- Các cơ quan hành chính - kinh tế can thiệp quá sâu vào các hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở nhưng lại không chịu trách nhiệm gì đối với các quyết định của mình.
- Coi thường quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hiệu quả kinh tế, quản lý nền kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu do đó hạch toán chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thể hiện dưới các hình thức bao cấp qua giá, chế độ cung cấp và cấp phát vốn của ngân sách Nhà nước mà không ràng buộc vật chất đối với người được cấp phát vốn.
Những đặc điểm trên dẫn đến không tránh khỏi bộ máy quản lý cồng kềnh nhiều cấp trung gian và kém năng động. Từ đó sinh ra một đội ngũ các cán bộ kém năng lực quản lý, không theo kịp nghiệp vụ kinh doanh nhưng phong cách quan liêu, cửa quyền.
Cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp đã tích góp những xu hướng tiêu cực, làm nảy sinh sự trì trệ, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển nền kinh tế xã hội. Vấn đề đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó theo hướng căn bản của sự đổi mới cơ chế quản lý đã được Đại hội VI của Đảng xác định và được Đại hội VII của Đảng khẳng định là “Xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành toàn bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”
ở mỗi nước điều kiện kinh tế, chính trị xã hội khác nhau do đó nền kinh tế thị trường cũng có những dạng cụ thể khác nhau. Vì vậy, không thể có nền kinh tế thị trường ở nước này là bản sao của nền kinh tế thị trường nước khác. Một tiêu thức cơ bản để phân biệt một nền kinh tế thị trường giữa các nước là mục đích chính trị xã hội mà các Chính phủ lựa chọn, làm định hướng cho sự lựa chọn của nền kinh tế thực chứng. Khi nền kinh tế được điều khiển đến các mục tiêu mong muốn như: Công bằng xã hội và đạt hiệu quả tăng trưởng bền vững, trong sạch môi trường và môi sinh, xã hội văn minh, xã hội chủ nghĩa v.v.. Tức là nền kinh tế ấy đã nhận thức trên bình diện chuẩn tắc thì lúc đó ý nghĩa chính trị xã hội của nó mới được bộc lộ ra. Đồng thời, lúc đó các quan hệ cung cầu, giá cả sẽ được vận dụng để đạt mục tiêu kinh tế xã hội.
Hiện nay có rất nhiều cách hiểu về xã hội chủ nghĩa. Nhưng chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất như sau:
- Xã hội chủ nghĩa là định hướng chính trị - xã hội của một nền kinh tế xét từ góc độ kinh tế.
Từ đó ta thấy: Nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận động theo cơ chế hỗn hợp và được định hướng lý tưởng của chủ nghĩa xã hội.
Ta phải loại trừ thành kiến: “Thị trường là chủ nghĩa tư bản”: “Kế hoạch là chủ nghĩa xã hội” và các quan điểm cùng loại.
b. Thị trường:
Như trên ta đã biết: Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, ở đó sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? cho ai? được quyết định qua thị trường. Trong nền kinh tế thị trường các quan hệ kinh tế của các cá nhân các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá dịch vụ trên thị trường. Thái độ cư xử của từng thành viên tham gia thị trường là hướng vào tìm kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường hay “bàn tay vô hình” (Adam Smith).
Vậy thị trường là gì? Hiện nay có rất nhiều cách hiểu về thị trường. Ta có thể hiểu một cách cơ bản nhất thị trường là lĩnh vực trao đổi mà ở đó người mua và người bán gặp nhau, cạnh tranh với nhau để xác định giá cả hàng hoá. Nói đến thị trường là nói đến địa điểm nơi trao đổi hàng hoá. Vì vậy, thị trường có thể là những cái chợ, các cửa hàng, cửa hiệu sở giao dịch.... Nền kinh tế thị trường càng phát triển khái niệm thị trường ngày càng được mở rộng.
Nói đến thị trường là nói tới sự cạnh tranh của các chủ thể kinh tế để xác định giá cả hàng hoá. Không có sự cạnh tranh này thì không có thị trường. Vậy thị trường đồng nghĩa với tự do kinh tế, tự do trao đổi. Quan hệ giữa các chủ thể kinh tế là bình đẳng thuận mua vừa bán. Vì vậy có thể nói thị trường vừa là điều kiện vừa là môi trường cho kinh tế hàng hoá phát triển. Không có thị trường sản xuất và trao đổi hàng hoá không thể tiến hành được.
Căn cứ vào chủng loại hàng hoá đưa ra trao đổi có thể phân chia thành hai loại thị trường.
- Thị trường hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ, ở đó người ta mua bán những tư liệu sinh hoạt như: Lương thực, thực phẩm, quần áo, nhà cửa... Hay còn gọi là thị trường đầu ra.
- Thị trường là các yếu tố sản xuất. Trên thị trường này người ta mua bán các yếu tố: Máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, hầm mỏ, nhà máy, đất đai, sức lao động. Ngày này với sự phát triển mạnh mẽ của sự sản xuất hàng hoá đã xuất hiện thêm nhiều loại: Thị trường vốn, thị trường tài chính.... Những thị trường này bán các đầu vào của quá trình sản xuất .
2. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường.
a. Các qui luật của kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều các qui luật kinh tế hoạt động và phát huy tác dụng nhờ qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh và chu kỳ kinh doanh.
- Qui luật cung cầu:
Qui luật này được phát hiện đầu tiên vào năm 1776. Lý thuyết này được Marshall phát triển vào cuối thể kỷ 19 và được các nhà kinh tế hoàn thiện vào nửa đầu thế kỷ 20. Theo lý thuyết này giá cả của hàng hoá trên thị trường được xác định bởi giao điểm biểu đồ thị của sức cung và sức cầu không một ai có thể chi phối được giá cả (với giá định các nhà sản xuất tương đối nhỏ và sản xuất cùng một loại hàng hoá sức cạnh tranh hoàn hảo). Nếu người sản xuất tăng giá bán thì khách hàng sẽ bỏ họ và họ sẽ không bán được sản phẩm. Ngược lại nếu họ hạ thấp giá bán xuống dưới giá cả thị trường họ sẽ mất đi số lợi nhuận cung cầu miêu tả quá trình hình thành giá cả như sau: Số cung và số cầu của một loại hàng hoá được xem như hai lưỡi của cái kéo. Ta có thể nói rằng giá bán hàng hoá đó càng cao thì số lượng hàng của người tiêu dùng mua sẽ càng ít và ngược lại. Khi giá và số lượng hàng mà người sản xuất muốn cung ứng bằng số lượng hàng mà người tiêu dùng muốn mua và gọi đó là điểm cân bằng trên thị trường. Điểm này chỉ dừng lại tương đối.
- Chu kỳ kinh tế:
Là một tập hợp các biến cố kinh tế lặp đi lặp lại một cách giống nhau sau từng giai đoạn nhất định. Theo Mác mỗi chu kỳ kinh tế đều gồm 4 giai đoạn: Khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi, hưng thịnh. Các nhà kinh tế học ngày nay gọi đó là chu kỳ suy thoái đáy, mở rộng đỉnh. Các nhà chu kỳ kinh tế vẫn đang nối tiếp nhau và có sự đổi chiều. Các chu kỳ kinh tế mới có mức độ và qui mô lớn hơn.
- Cạnh tranh:
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của cơ chế thị trường. Ngày nay hầu như tất cả các quốc gia đều thừa nhận cạnh tranh và coi đó là động lực thúc đẩy của sự phát triển và là yếu tố quan trọng trong việc làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Trong nền kinh tế thị trường nếu lợi nhuận thúc đẩy các cá nhân tiến hành sản xuất kinh doanh thì cạnh tranh lại bắt buộc thúc đẩy họ phải điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả nhất. Có thể hiểu cạnh tranh là sự ganh đua, sự kính định giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình.
Cạnh tranh có 3 loại:
+ Cạnh tranh hoàn hảo (thuần tuý): Là tình trạng giá cả của một loại hàng hoá là không đổi trong toàn bộ địa danh của thị trường. Trong thị trường này người mua và người bán có sự hiểu biết tường tận về các điều kiện của thị trường. Trong thị trường có sự tự do luân chuyển các yếu tố sản xuất từ ngành này sang ngành khác cần phải có các điều kiện sau:
- Tất cả các hãng kinh doanh trong ngành phải tương đối nhỏ
- Số lượng các hãng kinh doanh phải tương đối nhiều.
- Thông tin đầy đủ.
+ Cạnh tranh không hoàn hảo gồm độc quyền, nhóm cạnh tranh mang tính độc quyền.
+ Độc quyền: Tồn tại khi trong một ngành công nghiệp hoặc trên thị trường chỉ có một người sản xuất hoặc một người bán. Cho phép họ có thể kiểm soát trọn vẹn được giá cả các sản phẩm của mình, cho phép họ có thể nâng cao hoặc hạ giá sản phẩm để thu lợi nhuận độc quyền. Hầu hết các thị trường ngày này là thị trường cạnh tranh không hoàn hảo.
b. Trong nền kinh tế thị trường có hàng hoá sản phẩm hay thương mại hoá sản phẩm.
Quá trình chuyển sang sản xuất hàng hoá trước hết phải là sự mở rộng sản phẩm hàng hoá, hàng hoá sản xuất nhằm để bán, để trao đổi trên thị trường nhằm thu lợi nhuận chứ không phải để tự tiêu dùng.
c. Người sản xuất hàng hoá trong nền kinh tế thị trường là người tự chủ sản xuất kinh doanh, chủ động xây dựng phương án sản xuất tổ chức kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm.
d. Quá trình chuyển sang nền kinh tế hàng hoá (kinh tế thị trường) là quá trình chuyển sang tự do sản xuất lưu thông, xoá bỏ “ngăn sông cấm chợ”. Nền kinh tế hàng hoá phát triển dựa trên cơ sở tự do sản xuất kinh doanh, tự do lưu thông, tự do cạnh tranh.
e. Trong nền kinh tế thị trường thì cơ chế giá cả phải là giá cả thoả thuận, giá cả kinh doanh. Chưa có giá cả thoả thuận thì chưa có cơ chế thị trường. Đó là trình độ dân chủ của kinh tế hàng hoá.
3. Những ưu nhược điểm của nền kinh tế thị trường.
a. Ưu điểm:
- Nền kinh tế thị trường hoạt động theo cơ chế thị trường có khả năng tự động điều tiết nền sản xuất xã hội tức là tự động phân bổ các nguồn tài nguyên sản xuất vào các khu vực, các ngành kinh tế mà không cần bất cứ sự điều khiển từ trung tâm nào.
- Cơ chế thị trường tự động kích thích sự phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế cả theo chiều rộng và chiều sâu tăng cường chuyên môn hoá sản xuất. Trong giai đoạn đầu của sự phát triển kinh tế thị trường đã phân hoá những người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo và chuyên môn hoá thành những người sản xuất và những người quản lý. Khi phát triển hơn nền kinh tế thị trường tiếp tục phân hoá và chuyên môn hoá các nhà kinh doanh và các ngành, các lĩnh vực kinh tế cụ thể mà ở đó họ có ưu thế nhất (bên cạnh những mặt tích cực nêu trên còn có nhiều hạn chế).
- Nền kinh tế thị trường kích thích việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và sản xuất nhằm tăng năng suất lao động, nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất. Động lực lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải giảm chi phí cá biệt để sản xuất hàng hoá, muốn vậy doanh nghiệp phải thường xuyên áp dụng kỹ thuật mới, hợp lý hoá sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động cá biệt và xã hội.
- Nền kinh tế thị trường rất năng động và có khả năng thích nghi nhanh chóng. ở đây tồn tại nguyên tắc ai đưa sản phẩm ra đầu tiên thu được lợi nhuận hơn. Mặt khác nếu nhận thức được sản phẩm của mình không có người mua họ sẽ không sản xuất nữa. Điều đó dẫn đến tiết kiệm hao phí lao động xã hội, vì thể nền kinh tế luôn diễn ra sự đổi mới.
- Nền kinh tế thị trường hầu như lúc nào cũng sẵn hàng hoá và dịch vụ và ngày càng có khả năng thoả mãn tốt hơn nhu cầu con người.
b. Khuyết điểm.
Bên cạnh những mặt tích cực nêu trên nền kinh tế thị trường còn rất nhiều hạn chế và mâu thuẫn.
- Cơ chế thị trường có thể gây ra những mắc ổn định và thường xuyên phá vỡ các mất cân đối trong nền sản xuất xã hội. Hậu quả tiêu cực của sự vận động và phát triển của nó thường đi liền với các vấn đề nan giải.
- Thực tế phát triển nền kinh tế thị trường trong mấy thập kỷ qua chỉ rõ vấn đền lạm phát, thất nghiệp và chu kỳ kinh doanh luôn là những căn bệnh kinh niên không thể nào khắc phục được nếu không có sự can thiệp của Nhà nước.
- Cơ chế thị trường hoạt động không có hiệu quả kể cả trong cạnh tranh tự do kể cả trong cạnh tranh có sự chi phối của các tổ chức độc quyền.
- Cơ chế thị trường có thể gây ra sự mất công bằng và nhiều vấn đề xã hội trái với văn minh đạo đức xã hội như nạn làm hàng giả, hàng kém phẩm chất, cạnh tranh không lành mạnh, sự phân hoá giàu nghèo rõ rẹt, lạm phát thất nghiệp có xu hướng gia tăng, sản xuất thiếu hàng hoá công cộng...
- Cơ chế thị trường có thể cho phép tổ chức sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao nhưng cũng có thể gây những bất bình đẳng lớn vì trong hệ thống tổ chức kinh tế xã hội này không có lý do gì buộc cơ chế thị trường phải phân phối sản xuất một cách hợp lý.
Qua trên ta thấy nền kinh tế thị trường có khả năng tập hợp tự động được hành động, tiềm lực, trí tuệ của hàng triệu con người và hưởng lợi ích chung của toàn xã hội đó là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng năng suất lao động và hiệu quả sản xuất. Nhưng nền kinh tế thị trường không phải là một hệ thống được tổ chức hài hoà mà từng hệ thống đó chứa đựng rất nhiều yếu tố phức tạp và nản giải. Vì vậy để khắc phục hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường cần có sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế. Đó là một dạng đặc biệt của loại hình kinh tế thị trường. Nếu như sự vận động của nền kinh tế thị trường truyền thống cổ điển, hoang dã tuân theo sự điều khiển của “bàn tay vô hình” cung cầu, giá cả thì sự vận động của nền kinh tế thị trường có sự quản lý điều tiết của Nhà nước là hình thức điều khiển song hành. Nghĩa là sự tác động đồng thời của hai yếu tố: Yếu tố tự vận động của quan hệ cung - cầu và yếu tố Nhà nước tức vai trò của Nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế. Theo bản chất của mình nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước không chỉ vận động theo cơ chế thị trường hoặc theo cơ chế chỉ huy mà chịu tác động đồng thời của cả hai yếu tố. Chính vì vậy người ta gọi đó là cơ chế hỗn hợp. Như vậy nền kinh tế hỗn hợp là nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
4. Vai trò - Chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Trong kinh tế thị trường Nhà nước với tư cách là người điều hành quản lý xã hội đồng thời là khách hàng lớn của các chủ thể kinh tế. Nhà nước thường đảm bảo các dịch vụ bưu điện, thông tin liên lạc, phát thanh truyền hình, giao thông vận tải... Nhà nước dùng pháp luật để điều hành, dùng các chính sách như: Chính sách đối nội, đối ngoại, chính sách kinh tế và những công cụ khác để tác động vạch ra kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hạn chế những tiêu cực do kinh tế thị trường gây ra.
Theo David Begg- Giáo sư kinh tế học trường tổng hợp Luân Đôn, Anh và hai giáo sư kinh tế học người Mỹ Stantry Fischer và Rudiger Dorubush thì nguyên cơ chung để Chính phủ can thiệp vào thị trường là những trục trặc của thị trường. Đôi khi thị trường không phân bố các nguồn lực một cách có hiệu quả và phải có sự can thiệp của Nhà nước để có thể cải thiện hoạt động kinh tế.
Trong cuốn “kinh tế học” của mình ở chương 4-Phần I ba ông có nêu 6 trục trặc lớn của thị trường mà Chính phủ cần phải giải quyết.
- Chu kỳ kinh doanh: Các Chính phủ thông qua sự kiểm soát thuế khoá và chi tiêu của Chính phủ và thông qua năng lực kiểm soát số lưoựng tiền trong nền kinh tế, thường hay cố gắng làm dịu những giao động lên xuống trong chu kỳ kinh doanh.
-Hàng hoá công cộng: Là một loại hàng hoá thậm chí có một người dùng rồi thì người khác không tiêu dùng được nữa.
Ví dụ: Thực phẩm, quần áo....
Trong nền kinh tế thị trường lợi nhuận là động lực chủ yếu thúc đẩy các nhà sản xuất kinh doanh hoạt động. Vì hàng hoá công cộng là thứ hàng hoá không có hoặc rất ít lợi nhuận nên các nhà sản xuất sẽ không sản xuất hoặc sản xuất ít loại hàng này từ đó dẫn đến thiếu hụt hàng hoá công cộng mà hàng hoá công cộng lại rất cần thiết cho mỗi quốc gia. Vì vậy Chính phủ phải đảm nhiệm việc này. Chính phủ phải xác định được mỗi loại hàng hoá công công cần sản xuất là bao nhiêu.
- Các ngoại ứng: Là việc sản xuất hoặc tiêu dùng một hàng hoá trực tiếp ảnh hưởng đến các doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng không can dự vào việc mua bán mặt hàng đó, khi những ảnh hưởng tràn ra ngoài đó không được phản ánh đầy đủ tung giá thị trường.
Có hai loại ngoại ứng:
Tích cực: Trồng cây, quét vôi ve....
Tiêu cực: ống khói nhà máy, ô nhiễm môi trường...
Trong nền kinh tế thị trường thường tồn tại ngoại ứng tiêu cực là chủ yếu. Vì vậy, Chính phủ phải có biện pháp can thiệp như đánh thuế ô nhiễm hoặc chấp nhận một lượng nhất định về tổng ô nhiễm và khuyến khích các ngoại ứng tích cực nhằm đảm bảo sự công bằng trong xã hội và đảm bảo cho môi trường môi sinh được trong sạch.
- Các vấn đề có liên quan đến thông tin: Các hãng và người tiêu dùng có thể có những hành động đi ngược lại lợi ích mong muốn của mình nếu họ không có những thông tin đầy đủ về thị trường. Thị trường sẽ không hoạt động tốt nếu các quyết định đưa ra không dựa trên các cơ sở thông tin đầy đủ. Nền kinh tế hiện đại phức tạp đến mức ít cá nhân có thể tiêu hoá và đánh giá toàn bộ lượng thông tin cần thiết để lúc nào cũng có thể đưa ra các quyết định có căn cứ thông tin đầy đủ. Có thể có hiệu quả việc Chính phủ xử lý một số thông tin phức tạp để bảo vệ người tiêu dùng biết ít thông tin. Các Chính phủ đưa ra các bộ luật chống gian lậu, điều tiết các điều kiện làm việc, thanh tra xếp loại thực phẩm, điều tiết việc thiết kế và độ an toàn của các sản phẩm, tiêu dùng...
- Độc quyền và quyền lực đối với thị trường: Như ta đã biết nhà độc quyền là người có quyền lực đối với thị trường họ có thể sản xuất ở mức sản lượng thấp và ấn định ở giá cao gây thiệt hại cho người tiêu dùng và gây lãng phí cho xã hội, làm rối loạn, lũng đoạn thị trường gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Vì vậy, Chính phủ cần có biện pháp ngăn ngừa giới hạn quyền lực của các nhà độc quyền nhằm ổn định nền kinh tế tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh để phát triển.
- Tái phân phối thu nhập và hàng khuyến dụng.
Chính phủ tham gia vào việc tái phân phối thu nhập ở qui mô lớn nhằm ổn định nền kinh tế - xã hội và đảm bảo công bằng xã hội như các chương trình trợ cấp thất nghiệp, phúc lợi xã hội, thanh toán chuyển nhượng, chi tiêu Chính phủ. Mặt khác, Chính phủ còn quan tâm đến việc khuyến khích tiêu dùng những mặt hàng hoá, dịch vụ nhất định gọi là hàng khuyến dụng. Đó là những hàng hoá mà xã hội nghĩ rằng người dân nên tiêu dùng hoặc tiếp nhận cho dù thu nhập ở mức nào đi nữa. Hàng khuyến dụng như: Ytế, giáo dục, nhà ở, thực phẩm.
Qua trên ta thấy sự can thiệp của Nhà nước nhằm định hướng thị trường phục vụ tốt các mục tiêu kinh tế xã hội trong từng thời kỳ. Mặt khác, nhằm sửa chữa khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường tạo ra những công cụ quan trọng điều tiết thị trường ở tầm vĩ mô mà không vi phạm cơ chế tự điêù chỉnh ở tầm vi mô. Bằng cách đó Nhà nước kìm chế sức mạnh nguy hiểm của tính tự phát chứa đựng trong lòng thị trường, đồng thời phát huy được những ưu thế vốn có của kinh tế thị trường.
Chương III
Vai trò của Nhà nước Việt Nam
trong nền kinh tế thị trường hiện nay
I- Yêu cầu khách quan của việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nước ta, ý nghĩa và thực tiễn.
- Sau kháng chiến thắng lợi dựa vào kinh nghiệm của các nước XHCN đất nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Mô hình kinh tế này lúc đầu tỏ ra phù hợp và phát huy tác dụng tốt (như đã nói ở mục II - 1- chương II). Nhưng sau khi đất nước thống nhất (1975) bức tranh mới về hiện trạng kinh tế - xã hội đã thay đổi. Trong nền kinh tế cùng lúc tồn tại ba loại hình kinh tế; tự cấp tự túc, kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá. Việc tồn tại mô hình kinh tế xuất hiện nhiều tiêu cực: Các nguồn tài nguyên bị lãng phí nghiêm trọng, tài nguyên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, Nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự vịêc này gây nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiểm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có. Vốn đầu tư chủ yếu là vay và viện trợ nước ngoài.
- Nguyên nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế nước ta là do ta đã dập khuôn máy móc mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả. Những sai lầm cơ bản là:
+ Thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất nên qui mô lúc trong điều kiện cho phép. Điều này đã dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ và đã không sử dụng có hiệu quả nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong khi dân số ngày càng gia tăng.
+ Thực hiện việc phân phối theo lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép. Khi tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức phân phối bình quân vừa phân phối lại một cách gián tiếp là mất động lực của sự phát triển.
+ Việc quản lý kinh tế của Nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính, mệnh lệnh theo kiểu thời chiến không thích hợp với yêu cầu tự do lựa chọn của người sản xuất và người tiêu dùng đã không kích thích sự sáng tạo của hàng triệu người lao động.
Trước sự suy thoái nghiêm trọng, viện trợ nước ngoài lại giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta bức bách phải đổi mới. Xem xét dưới góc độ khoa học ta thấy việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường là đúng đắn. Nó phù hợp với điều kiện thực tế, phù hợp với các qui luật kinh tế và xu thế thời đại.
+ Nếu cứ giữ mặc cơ chế cũ không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất.
+ Đặc trưng của nền kinh tế tập trung rất cứng nhắc do đó nó chỉ phát huy tác dụng trong thời gian ngắn và theo chiều rộng. Mà nền kinh tế tập trung tồn tại ở nước ta đã quá dài gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng suất, chất lượng hiệu quả sản xuất.
+ Xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố về cơ chế thị trường. Nhiều ý kiến cho rằng nền kinh tế nước ta còn non yếu sơ khai. Thực tế nền kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển ở hầu hết các đô thị và các vùng đồng bằng. Thị trường trong nước đã thông suốt và vươn tới cả những vùng hẻo lánh và đang được mở rộng với thị trường quốc tế. Tuy nhiên nó phát triển chưa đồng bộ và thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất. Mức độ can thiệp của Nhà nước còn rất thấp.
+ Nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu hàng hoá dịch vụ, đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi với nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả của các loại hàng hoá gần gũi hơn tới tương quan giá cả hàng hoá quốc tế.
+ Xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế. Mục đích của chính sách quốc gia là tạo ra nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình, tạo tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp.
Tiềm lực kinh tế trở thành thước đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh mỗi dân tộc là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của Đảng cầm quyền.
II- Vai trò Nhà nước Việt Nam trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý.
Nhà nước Việt Nam quản lý vĩ mô nền kinh tế tức là lựa chọn phương án phát triển kinh tế - xã hội, can thiệp điều khiển mỗi khi nền kinh tế đi chệch ngoài phương án lớn các chấn động kinh tế - chính trị - xã hội bên trong và bên ngoài. Trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế Nhà nước ta phải vừa quản lý kinh tế vĩ mô vừa phải tăng cường chức năng làm kinh tế cụ thể đối với các doanh nghiệp Nhà nước.
- Quản lý nền kinh tế quốc dân là sử dụng hàng loạt các công cụ chính sách kinh tế, phát chế kinh tế, nhằm can thiệp, điều tiết các quá trình kinh tế để đạt được mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế. Vì vậy vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước ta trong nền kinh tế mới thể hiện như sau:
1. Nhà nước phải xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nước ta theo các mục tiêu mong muốn.
Bằng việc định hướng sự phát triển của nền kinh tế đất nước Nhà nước quản lý và can thiệp vào các doanh nghiệp với mục tiêu làm giàu cho đất nước. Thực chất của việc này là thống nhất các lợi ích khác nhau, qui tụ các lợi ích khác nhau sao cho khi mỗi người theo đuổi lợi ích cá nhân của mình đồng thời góp phần vào việc theo đuổi lợi ích của dân tộc.
2. Nhà nước phải hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn. Vai trò định hướng nền kinh tế của Nhà nước thể hiện ở chỗ chính Nhà nước là người hoạch định các chương trình phát triển kinh tế xã hội. Nhà nước chỉ cho các doanh nghiệp đầu tư đúng hướng. Thực hiện được ý đồ chuyển dịch cơ cấu theo ngành, theo vùng lãnh thổ, khai thác sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đưa thị trường trong nước hoà nhập thị trường thế giới làm cho nền kinh tế phát triển tăng trưởng ổn định, vững chắc, công bằng, hiệu quả.
3. Phân phối thu nhập quốc dân công bằng - hiệu quả tạo ra động lực sản xuất.
Trong nền kinh tế thị trường càng ngày sự phân hoá thu nhập càng sâu sắc giữa các tầng lớp dân cư khác nhau trong quan hệ của họ đối với quyền lực kinh tế và chính trị. Tình trạng bất bình đẳng khi vượt quá khuôn khổ cho phép sẽ dẫn đến mâu thuẫn sâu sắc và các phản ứng trong lĩnh vực chính trị xã hội gây ảnh hưở
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vai trò kinh tế của Nhà nớc trong nền kinh tế thị trường.DOC