Tiểu luận Vai trò quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước

MỤC LỤC

TRANG

Mục lục 1

Lời mở đầu 3

ChươngI: Cơ sở lý luận về quản lý ngoại hối 4

I.Khái niệm về quản lý ngoại hối. 4

II.Mục đích của việc quản lý ngoại hối. 5

1.Điều tiết tỷ giá thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. 5

2.Bảo tồn quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước. 5

3.Cải thiện cán cân thanh toán . 6

III.Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái. 6

1.Khái niệm tỷ giá. 6

2.Các loại chế độ tỷ giá hối đoái. 7

2.1 Chế độ tỷ giá cố định. 7

2.2 Chế độ tỷ giá thả nổi. 7

2.3 Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý. 8

3.Quá trình phát triển của hệ thốngtỷ giá hối đoái quốc tế. 9

Chương II: Thực trạng quản lý ngoại hối ở Việt Nam. 11

I.Các công cụ điều hành tỷ giá. 11

1.Mục đích và khả năng can thiệp của NHNN 12

2.Hệ thống các công cụ can thiệp trong quản lý ngoại hối. 12

II.Thực trạng quản lý ngoại hối ở Việt Nam. 15

1.Sự phát triển của hệ thống tỷ giá ở Việt Nam. 15

 

2.Thời kỳ thả nổi tỷ giá (1989 - 1992) 17

3.Chính sách điều hành tỷ giá hối đoái tự chủ theo cơ chế thị trường. 18

4.Cơ chế điều hành tỷ giá trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay. 19

III.Sự phá giá đồng VND nên hay không nên? 19

1.Phá giá tiền tệ và những tác động của nó. 19

2.Tỷ giá của đồng VND hiện nay. 20

3. Phá giá hay không phá giá VND? 22

Chương III: Giải pháp cho vấn đề quản lý ngoại hối ở Việt Nam. 23

I.Mục tiêu của chính sách tỷ giá ở Việt Nam. 23

1.Các mục tiêu của chính sách tỷ giá trong giai đoạn tới. 23

2.Định hướng xây dựng chính sách tỷ giá trong giai đoạn tới. 24

II.Giải pháp đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối. 25

III.Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá. 26

 

 

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4704 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vai trò quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quyết định, nhưng khi nội tệ bị lên giá hay hạ giá quá mạnh thì Chính phủ sẽ can thiệp để nội tệ không bị hạ giá quá thấp hay lên giá quá cao. Đây thực chất là hình thức kết hợp của chế độ cố định và chế độ thả nổi hoàn toàn hoặc có thể gọi đây là một chế độ điều hành tỷ giá trung gian. Nó vẫn duy trì vai trò của NHNN trong điều hành tỷ giá nhưng chỉ ở một mức độ vừa phải chứ không qúa nhiều như trong chế độ cố định, NHNN chỉ thực hiện can thiệp vào tỷ giá khi mà nó cảm thấy cần thiết chứ nó không bị rằng buộc trách nhiệm neo giữ tỷ giá trong giới hạn biên độ như trong chế độ cố định. Cũng tương tự chế độ này không như chế độ thả nổi hoàn toàn mà vai trò của Nhà nước ở đây giúp cho tỷ giá không quá biến động tạo ra sự ổn định ở một mức độ nào đó trong quan hệ với việc không can thiệp quá nhiều vào vấn đề tỷ giá. Trong chế độ này thì NHNN can thiệp vào tỷ giá bằng cách tham gia thị trường như một nhân vật của thị trường, tuy nhiên cũng tuỳ mức độ của vấn đề tỷ giá mà NHNN có thể có những mệnh lệnh chính sách áp đặt để thực hiện các quyết định điều hành của mình. Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý đem lại khá nhiều lợi ích nó cho phép khắc phục các nhược điểm của hai chính sách trên tuy nhiên việc áp dụng chính sách này rất dễ dẫn đến việc thiên về chính sách tỷ giá cố định bởi vì các quyết định điều hành về tỷ giá thường xuyên bị áp lực từ các quyết định của các chính sách khác vì thế cho nên rất dễ xảy ra việc quá lạm dụng vai trò của Nhà nước trong khi thực hiện chính sách này. Cơ chế can thiệp của NHNN trong trường hợp cần thiết cũng giống như trong chế độ tỷ giá cố định tuy nhiên khi xảy ra khủng hoảng thì áp lực lên NHNN trong điều hành tỷ giá không lớn như trong chế độ tỷ giá cố định bởi vì khi đó tỷ giá sẽ được NHNN để cho các yếu tố thị trường tự điều chỉnh và tác hại trong việc này là rất nhỏ so với trường hợp neo tỷ giá cố định. Như vậy ta thấy trong chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý thì việc điều hành tỷ giá trở nên có hiệu quả hơn đồng thời nó vẫn đảm bảo được tính linh hoạt cũng như tính bám sát tín hiệu thị trường của tỷ giá ở một mức độ nhất định và có thể chấp nhận được. 3.Quá trình phát triển của hệ thống tỷ giá hối đoái quốc tế Tỷ giá hối đoái là một nhân tố ảnh hưởng tới ảnh hưởng lớn đến tài khoản vãng lai trên cán cân thanh toán quốc tế và những biến số kinh tế vĩ mô khác cho nên nó là một trong những loại giá quan trọng nhất trong một nền kinh tế mở cửa. Ngày nay các nước công nghiệp hoá đang hoạt động trong một cơ chế các tỷ giá hối đoái được thả nổi và được điều tiết. Tuy nhiên hoàn toàn không phải ngay từ đầu cơ chế điều hành tỷ giá này đã được xác định trong lịch sử cũng ghi lại những vết son khá đậm về sự thay đổi trong cơ chế điều hành tỷ giá. Từ sau chiến tranh thứ II đến năm 1973, nền kinh tế thế giới đã hoạt động trong một hệ thống tỷ giá hối đoái cố định theo USD. Hệ thống này cho phép hiệp định Bretton Woods lập nên đòi hỏi các nước thành viên phải cố định tỷ giá của đồng tiền nước mình so với đồng USD và một giá vàng tính bằng USD không biến đổi là 35 USD một ounce vàng. Các nước thành viên duy trì dự trữ quốc tế chính thức của họ một cách rộng rãi dưới dạng các tài sản bằng USD như tín phiếu kho bạc Mỹ và các khoản tiền gửi ngắn hạn bằng USD có trả lãi và có thể chuyển thành tiền mặt với chi phí tương đối thấp. Mặt khác phải nhấn mạnh rằng các nước đều có thể bán USD cho cục dự trữ liên bang Mỹ lấy vàng. Dưới chế độ này mọi NHTW đều cố định tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền nước mình (nội tệ) và USD thông qua việc mua bán đồng nội tệ lấy các tài sản bằng USD trên thị trường ngoại hối. Còn nước phát hành đồng tiền được các nước khác giữ làm dự trữ chiếm một vị trí đặc biệt vì nó không bao giờ phải can thiệp vào thị trường ngoại hối và không hề phải gánh vác việc tài trợ cho cán cân thanh toán của mình. Năm 1965, bắt đầu giai đoạn Mỹ tăng cưòng chiến tranh quân sự ở Việt Nam, đây cũng chính là điểm xoá tan sự bình yên của hệ thống tiền tệ thế giới, chính sách kinh tế vĩ mô của Mỹ giai đoạn này là sai lầm chính làm cho hệ thống tỷ giá cố định tan rã. Chi phí quân sự ngày càng tăng lên, sự thâm thủng trong ngân sách của Mỹ đã đưa cục dự trữ liên bang Mỹ đến chỗ phải chọn một chính sách tiền tệ mở rộng hơn nữa vào năm 1967 và 1968. Tình trạng lạm phát ở Mỹ đã đẩy nhanh hiện tượng đầu cơ trên thị trường, giá vàng giao động mạnh và ngày càng có xu hướng tăng lên, đây là nguyên nhân chính mà NHTW các nước đòi Mỹ đổi số Đôla tài sản họ đang nắm giữ thành vàng. Điều này đã khiến Mỹ lo âu và là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến quyết định phá giá đồng Đôla sau này. Mặt khác lạm phát ở Mỹ gia tăng thì hậu quả chính là sự tăng lên tự động trong tốc độ tăng tiền và lạm phát ở nước ngoài khi NHTW các nước mua đồng tiền dự trữ nhằm giữ vững tỷ giá hối đoái, đồng thời mở rộng mức cung tiền của họ trong quá trình này. Sự tăng trưởng tiền tệ của Mỹ càng cao thì càng kích thích lạm phát trong và ngoài nước, làm cho các Chính phủ nước ngoài ngày càng phải miễn cưỡng nhập khẩu lạm phát của Mỹ thông qua các tỷ giá hối đoái cố định. Các kiến trúc sư của hệ thống Bretton Woods từng hy vọng vào Mỹ, cho rằng thành viên hùng mạnh nhất của nó có thể có tầm nhìn rộng hơn, xa hơn mục tiêu cục bộ nước mình và chấp nhận những chính sách hướng về sự phồn thịnh chung của nền kinh tế thế giới. Song trên thực tế, mục tiêu tổng thể đó chưa hẳn được Mỹ quan tâm, từ nửa sau những năm 1960 Mỹ đã bắt đầu trút bỏ trách nhiệm được giao phó này, cũng bắt đầu từ đó hệ thống tỷ giá cố định bị rạn nứt. Một loạt các cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu vào mùa xuân năm 1971 đã từng bước dẫn đến việc từ bỏ các mối quan hệ giữa USD với vàng lẫn tỷ giá hối đoái đô la cố định. Đến năm 1973 hệ thống hối đoái cố định sụp đổ. Lạm phát toàn cầu và chế độ tỷ giá thả nổi chính thức được thiết lập. Từ 1973 đến 1980 là giai đoạn tỷ giá được thả nổi hoàn toàn. Trong giai đoạn này các tỷ giá thả nổi dường như hoạt động trôi chảy, cán cân thanh toán quốc tế giao động trở lại cân bằng một cách tự nhiên theo quan hệ cung cầu. Phải thừa nhận rằng sự thả nổi đã tạo cho các NHTW khả năng kiểm soát các mức cung tiền của họ và lựa chọn tỷ lệ lạm phát mà mình mong muốn. Tuy nhiên trên thực tế tỷ giá thả nổi chính thức không có khả năng cách ly hoàn toàn các nước khỏi những cú sốc do chính sách của nước ngoài dội vào và đồng tiền các nước dường như biến động thất thường theo sự lên xuống của đồng tiền trụ cột USD. Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi bị hoài nghi, NHTW các nước không thể thờ ơ trước giá trị đồng tiền của nước mình trên thị trường ngoại hối và họ đã liên tiếp can thiệp vào thị trường ngoại hối để thay đổi giá trị đồng tiền của mình, họ bắt đầu áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý của Nhà nước. Loại hình này tỷ giá này hiện đang được áp dụng ở hầu hết các nước tuy nhiên mức độ điều tiết của mỗi nước mỗi khác. Song sự can thiệp không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với tích cực mà nó có những mặt trái nhất định của nó. Kinh nghiệm của một số nước công nghiệp cho thấy rằng cố định quá mức hoặc thả lỏng quá mức đều mang lại những hậu quả nặng nề. Như vậy cần phải có sự can thiệp vừa phải đúng mức, để cái giá phải trả thấp hơn so với mục tiêu đạt được. Điều này phụ thuộc vào sự khôn ngoan và tài năng của một NHTW. ************************************** CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGOẠI HỐI Ở VIỆT NAM I. CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ Như ta đã nghiên cứu về các chế độ tỷ giá thì thế giới hiện nay đang tồn tại nhiều loại chế độ tỷ giá biến tướng từ hai hình thức cơ bản là thả nổi và cố định. Tức là một một chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý nhưng sự nhấn mạnh vào 2 thái cực thả nổi và quản lý thì ở các mức độ rất khác nhau. Tuy nhiên điểm chung của các chế độ tỷ giá này là luôn có vai trò của NHNN trong can thiệp điều hành tỷ giá vì vậy trước khi nghiên cứu về các công cụ điều hành tỷ giá ở Việt Nam hiện nay chúng ta sẽ nghiên cứu về mục đích và khả năng can thiệp của NHNN vào thị trường ngoại tệ để điều hành tỷ giá hối đoái. 1. Mục đích và khả năng can thiệp của NHNN Mục đích can thiệp của NHNN là không hoàn toàn giống nhau điều này phụ thuộc vào tình hình ý đồ chiến lược mục tiêu phát triển của mỗi nước, ngay ở mỗi quốc gia mục đích can thiệp cũng tuỳ thuộc vào từng thời kỳ. Điều này cũng không có gì là khó hiểu bởi vì sự phát triển của mỗi quốc gia là khác nhau cũng như trong một quốc gia thì các thời kỳ khác nhau người ta thường đặt ra các mục tiêu rất khác nhau. Ở Việt Nam can thiệp vào tỷ giá thời gian gần đây NHNN của NHNN là nhằm vào mục đích “ điều hành tỷ giá theo hướng hình thành mức tỷ giá phản ánh sát hơn quan hệ cung cầu trên thị trường, khuyến khích xuất khẩu để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế giữ cho tỷ giá vận động theo tín hiệu của thị trường nhưng không để xảy ra những biến động lớn vượt quá tầm kiểm soát của chính sách điều hành tiền tệ quốc gia. Về khả năng can thiệp của NHNN, sự thành công trong can thiệp của NHNN phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng nổi bật lên là các yếu tố sau đây: · Phạm vi hoạt động mua và bán ngoại tệ · Mức độ tác động của các dự tính về sự biến động của tỷ giá trong tương lai. ·Bên cạnh mức độ can thiệp thì vấn đề có tính quyết định trong thành công là việc sử dụng công cụ nào của chính sách tiền tệ. 2.Hệ thống các công cụ can thiệp trong quản lý ngoại hối Phương án can thiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố (mục đích, thực trạng thị trường) song trước hết phụ thuộc phần lớn vào chế độ tỷ giá hiện hành đang được áp dụng. Mỗi chế độ quản lý ngoại hối đều có phương án can thiệp điều chỉnh thích hợp. Để thực hiện điều chỉnh tỷ giá hiện nay đã và đang tồn tại nhiều phương pháp khác nhau. Những phương pháp đó là: chính sách chiết khấu, các nghiệp vụ thị trường hối đoái, quỹ bình ổn hối đoái , giảm giá hay tăng giá sức mua đối nội hay sức mua đối ngoại của đồng tiền quốc gia. · Đối với công cụ lãi suất chiết khấu :Đây là phương pháp thường được sử dụng để điều chỉnh tỷ giá trên thị trường. Với phương pháp này, khi tỷ giá hối đoái trên thị trường đạt tới mức cần điều chỉnh thì NHNN nâng cao lãi suất chiết khấu, đều này làm cho lãi suất cho vay trên thị trường cũng tăng lên. Kết quả là vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ dồn vào để thu lãi cao hơn nhờ thế mà sự căng thẳng về nhu cầu ngoại tệ bớt đi làm tỷ giá không có cơ hội để tăng lên nữa. Mặc dù là công cụ được sử dụng thường xuyên ở các quốc gia trên thế giới thế nhưng chính sách lãi suất chiết khấu vẫn có những hạn chế nhất định bởi vì quan hệ giữa tỷ giá và lãi suất chỉ là quan hệ gián tiếp, tác động qua lại chứ không phải là tác động trực tiếp nhân quả. Đối với Việt Nam những dòng vốn vào ra nền kinh tế chủ yếu là vốn đầu tư nước ngoài, đầu tư gián tiếp và những dòng vốn ngắn hạn những năm qua chiếm tỷ trọng quá thấp , tình hình này chắc chắn sẽ còn kéo dài trong một thời gian tới và nó làm giảm tính cơ động, làm cho chính sách lãi suất chiết khấu chưa thể trở thành công cụ có sức mạnh trong việc thay đổi các dòng tiền tệ nói chung và ngoại tệ nói riêng sự tác động của lãi suất chiết khấu trong thời gian qua nếu có cũng chỉ là ở mức làm thay đổi những dòng tiền tệ trong thị trường nội địa từ nội tệ sang ngoại tệ và ngược lại mà thôi. · Đối với công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở được hiểu nghiệp vụ mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối của NHNN để điều chỉnh tỷ giá hối đoái, đây là một trong những biện pháp quan trọng của Nhà nước để giữ vững sự ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia. Đây cũng là một biện pháp trực tiếp tác động vào tỷ giá hối đoái. Thông qua nghiệp vụ này NHNN có thể can thiệp một cách rất linh hoạt, nhanh chóng và có hiệu qủa vào tỷ giá. Tuỳ theo điều kiện của mỗi nước mà việc tổ chức thực hiện các nghiệp vụ này có sự khác nhau về phạm vi qui mô cũng như trang thiết bị cơ sở vật chất. Ở những nước có nền kinh tế phát triển cao nghiệp vụ thị trường hối đoái được thực hiện trên trên qui mô rộng lớn, đôi khi mở ra trên phạm vi của cả một khu vực thậm chí cả thế giới. Việt Nam cũng đã rất chú trọng vào việc phát triển công cụ này điều này được thể hiện trong hàng loạt các qui định mới đây về việc đưa các nghiệp vụ thị trường mở chính thức được phép thực hiện giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cũng như trên thị trường tự do giữa các NHTM với dân chúng, không những thế công cụ nghiệp vụ thị trường mở ngày càng khẳng định sự cần thiết của nó trong việc điều hành tỷ giá hối đoái của NHNN Việt Nam trong việc thực hiện các mục tiêu của chính sách tỷ giá. · Đối với quỹ bình ổn hối đoái: Trong điều kiện giá cả thị trường luôn luôn không ổn định thậm chí hay xảy ra những biến động lớn, các nước thường sử dụng quỹ bình ổn hối đoái như là một trong những công cụ để điều chỉnh tỷ giá điều hành. Nguồn vốn để hình thành nên quỹ bình ổn hối đoái có thể là: + Phát hành trái khoán kho bạc bằng tiền quốc gia. + Sử dụng vàng để lập quỹ bình ổn hối đoái. · Đối với công cụ phá giá đồng tiền: Phá giá đồng tiền là việc nâng cao hay giảm thấp sức mua của đồng tiền đó so với các đồng tiền khác . Kết quả của phá giá đồng tiền sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng hay giảm của tỷ giá hối đoái. Phá giá đồng tiền là một biện pháp mạnh và cực đoan, nó chỉ được sử dụng ở các nền kinh tế dồi dào nhưng phải đối đầu với suy thoái kinh tế đi đôi với lạm phát ngày càng trầm trọng hoặc cán cân thanh toán bị mất cân đối nghiêm trọng. Tuy nhiên ngay cả trong những trường hợp như trên thì phá giá đồng tiền cũng chỉ được áp dụng khi mà các biệp pháp khác đã được áp dụng nhưng không đem lại hiệu quả. Ở Việt Nam chúng ta mới chỉ thực hiện phá giá tiền tệ ở một mức độ thấp chúng ta vẫn đang cố gắng sử dụng tất cả các biện pháp khác có thể để điều hành tỷ giá trước khi phải dùng đến công cụ phá giá. Thời gian gần đây đồng VND chịu nhiều sức ép phải giảm giá và nhiều nhà kinh tế đã có ý kiến sử dụng công cụ này ở nền kinh tế Việt Nam hiện nay. · Đối với công cụ dự trữ bắt buộc: Dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ là việc NHNN buộc các NHTM phải giữ lại một phần nhất định trên tổng số ngoại tệ mà các NHTM có được từ việc thu hút ngoại tệ trong nền kinh tế phần giữ lại này do NHNN quản lý và nó có ý nghĩa đảm bảo cho khả năng thanh toán của các NHTM, hơn thế nữa nó còn là công cụ đắc lực để NHNN mở rộng hoặc thu hẹp hoạt động kinh doanh ngoại hối của NHTM trên thị trường ngoại hối từ đó NHNN có thể có những tác động đến mức tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Đây là công cụ được sử dụng thưòng xuyên tại Việt Nam trong việc điều hành tỷ giá ví dụ như trong thời gian gần đây để đối phó với những bất lợi do tỷ giá mang lại cho đồng VND cũng như việc thực hiện chủ trưong đổi mới điều hành chính sách tỷ giá NHNN đã liên tục tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 8% lên 12% rồi lên đến 15% đồng thời thực hiện tự do hoá lãi suất ngoại tệ, điều này nhằm hạn chế sự mất giá gần đây của USD ổn định tỷ giá để tạo điều kiện cho cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế hiện nay. · Đối với các công cụ quản lý có tính chất hành chính: Việc đưa tỷ giá tới gần sự chi phối của các qui luật thị trường hơn, từng bước tiến tới một đồng tiền có khả năng chuyển đổi đồng nghĩa với việc quốc gia đó phải dỡ bỏ dần các biện pháp hành chính trong quản lý tỷ giá. Tuy nhiên việc dỡ bỏ tức thời các biện pháp hành chính không phải là một biện pháp đúng mà chỉ nên nới lỏng một cách từ từ tương ứng với việc gia tăng sức mạnh can thiệp của các công cụ mang tính kinh tế do đó tuỳ theo diễn biến của nền kinh tế mà nới lỏng hay thay thế các biện pháp hành chính được tiến hành nhanh hay chậm. ở Việt Nam chúng ta vẫn còn sử dụng khá nhiều các biện pháp hành chính trong điều hành quản lý tỷ giá tuy nhiên điều này là phù hợp với nền kinh tế còn kém phát triển trình độ quản lý chưa cao của chúng ta. Trong thời gian gần đây do yêu cầu của quá trình đổi mới hội nhập kinh tế thế giới chúng ta đã có những nới lỏng nhất định trong các qui định về quản lý ngoại hối, điều hành tỷ giá như quy định về việc giảm tỷ lệ kết hối từ 100% xuống còn 40%, thông tư 02/2000/TT-NHNN7 ngày 24/02/2000 của thống đốc NHNN Việt Nam về các chính sách đối với nguồn kiều hối. II. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGOẠI HỐI Ở VIỆT NAM 1.Sự phát triển của hệ thống tỷ giá ở Việt Nam Trong giai đoạn từ năm 1955-1989, mặc dù nhiều nước trên thế giới đang áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi và thả nổi có quản lý, nhưng các nước trong hệ thống XHCN, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, Nhà nước luôn can thiệp mạnh vào mọi mặt hoạt động kinh tế, thì quả thực cơ chế hối đoái thả nổi không thể tồn tại và phát huy tác dụng, thay vào đó là chế độ tỷ cố định. Việt Nam cũng không nằm ngoài khuôn khổ ấy. Tỷ giá chính thức của Việt Nam lần đầu tiên được công bố vào ngày 25/11/1955 là tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng nhân dân tệ Trung Quốc: 1VND =1470 NDT. Tỷ giá này được xác định bằng cách so sánh giá bán lẻ 34 mặt hàng tiêu dùng tại thủ đô và một số tỉnh biên giới giữa 2 nước nhằm giải quyết nhu cầu thanh toán giữa 2 nước trong những năm kháng chiến chống Pháp. Sau đó các tỷ giá giữa Việt Nam và các đồng tiền khác được thiết lập. Bên cạnh tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu dịch), Nhà nước còn đưa ra 2 loại tỷ giá khác là tỷ giá phi mậu dịch và tỷ giá kết toán nội bộ. Như vậy tỷ giá ở Việt Nam trong giai đoạn này là chế độ đa tỷ giá. Hệ thống tỷ giá này đã gây không ít khó khăn cho việc quản lý điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, kinh tế đối ngoại, đồng thời để lại hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Chính vì vậy, nhu cầu đổi mới cơ chế tỷ giá nói riêng, đổi mới lĩnh vực tài chính tiền tệ nói riêng trở thành vấn đề cấp bách. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nhà nước bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, từng bước xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung chuyển dần sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đây là thời kỳ có sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy quản lý và điều hành kinh tế của Nhà nước, nhất là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Tỷ giá hối đoái, khâu đột phá có vai trò cực kỳ quan trọng đối với quá trình cải cách được đặc biệt quan tâm. Tháng 3/1989 Nhà nước chính thức công bố xoá bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, xoá bỏ mọi chế độ trợ giá cho các hoạt động trợ giá cho các hoạt động ngoại thương. Tỷ giá chính thức được NHNN công bố căn cứ vào chỉ số lạm phát, lãi suất, cán cân thanh toán, tham khảo diễn biến tỷ giá trên thị trường tự do và giá vàng trên thị trường quốc tế và trong nước. Trên cở sở này các NHTM xây dựng một tỷ giá riêng cho mình trong giao dịch hàng ngày với biên độ giao động cho phép. Nhìn chung những giải pháp trên đã góp phần cải tạo tình hình thị trường ngoại hối, xoá bỏ tình trạng bất hợp lý trong mua bán, thanh toán, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. 2.Thời kỳ thả nổi tỷ giá (1989-1992) Trong giai đoạn 1989-1992 ,tỷ giá điều hành VND/USD biến động mạnh hiện nay theo xu hướng giá trị đồng USD tăng liên tục kèm theo các “cơn sốt”, các đột biến với biên độ rất lớn. Sự biến động mạnh mẽ của tỷ giá VND/USD từ cuối năm 1990 trở đi đỉnh cao của mức tăng giá trị USD là cuối năm 1991 ngày 4/12/1991, giá USD tại thị trường tư nhân tại Hà Nội và TP.HCM là 14450VND/USD và 14580 VND/USD mặc dù giai đoạn 1989-1992 chính sách quản lý ngoại tệ của Nhà nước đã có nhiều thay đổi như chuyển từ hình thức tỷ giá kế toán nội bộ bình quân cho tất cả các nhóm hàng sang tỷ giá theo hàng hoá và duy trì tương đối ổn định các tỷ giá này, hoặc nếu có thay đổi thì cũng ở mức độ nhỏ, nên tỷ giá công bố vẫn ở mức cách xa tỷ giá hình thành trên thị trường. Hơn nữa phần ngoại thương ngoài kế hoạch ngày càng lớn khiến cho thị trường ngoại tệ ngầm ngày càng phát triển và có xu hướng phản ánh tương quan giá trị thực giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Sự phát triển của thị trường ngầm làm cho mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của Chính phủ ít đem lại hiệu quả thậm chí những quyết định của Chính phủ về quản lý ngoại tệ dễ bị mất hiệu lực ngay khi vừa mới công bố. Như vậy trên danh nghĩa Nhà nước quản lý chặt chẽ đối với lưu thông ngoại tệ nói chung tỷ giá hối đoái nói riêng nhưng trên thực tế tỷ giá hối đoái đã bị thả nổi do cơ chế quản lý ngoại tệ chậm được đổi mới theo từng bước chuyển đổi của nền kinh tế theo hướng thị trường. Trước tình hình đó Chính phủ đã chọn con đường thay đổi cách quản lý ngoại tệ và đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái với những nội dung chính như sau: + Thay thế biện pháp hành chính, bắt buộc các đơn vị kinh tế quốc doanh có ngoại tệ phải bán cho ngân hàng theo tỷ giá ấn định bằng biện pháp kinh tế: mở trung tâm giao dịch ngoại tệ để các doanh nghiệp và ngân hàng trao đổi và mua bán ngoại tệ với nhau theo giá thoả thuận. + Bãi bỏ hình thức qui định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại thương giữa Ngân sách với các tổ chức kinh tế tham gia xuất nhập khẩu thay vào đó trên cở sở tỷ giá tại các phiên giao dịch ngoại tệ NHNN sẽ công bố tỷ giá chính thức. 3. Chính sách tỷ giá hối đoái tự chủ theo cơ chế thị trường (1992-1998) Vào thời điểm cuối năm 1992 do kết quả của sự can thiệp của NHNN vào thị trường ngoại tệ tỷ giá VND/USD dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ của các doanh nghiệp được giải toả khỏi các yếu tố đầu cơ, hưóng mạnh vào kinh doanh xuất nhập khẩu đồng thời với các chính sách về khuyến khích nguồn kiều hối chúng ta đã thu được một lượng ngoại tệ đáng kể cho tình hình cung cầu ngoại tệ cũng vì thế mà được cải thiện đáng kể thậm chí trong giai đoạn 1992-1993 tình trạng USD mất giá nhanh đã ảnh hưởng đến xuất khẩu và kích thích nhập khẩu qua mức cuối năm 1994 USD mất giá liên tục so với các đồng tiền chủ chốt mặc dù thế trên thị trường Việt Nam cả hai thời kỳ trên tỷ giá vẫn khá ổn định. Năm 1997 do khủng khoảng tiền tệ ở các nước Đông Nam Á đã làm cho các đồng tiền của các nước trong khu vực bị mất giá mạnh so với USD nhưng đồng VND đã thể hiện sự ổn định của nó và sự ổn định đó có được do chính sách về điều hành tỷ giá theo hướng tiếp cận sát với thị trường cộng với việc nền kinh tế chưa tham gia đầy đủ vào nền kinh tế thế giới nên những ảnh hưởng của khủng hoảng là không lớn. Trong giai đoạn này cơ chế điều hành tỷ giá còn có những thay đổi đáng kể như việc xác định biên độ dao động của tỷ giá xung quanh tỷ giá chính thức được công bố bởi NHNN (mức dao động là ±10%) các công cụ điều hành tỷ giá được mở rộng như việc ban hành “ qui chế hoạt động giao dịch hối đoái “ của quyết định số 17/QD-NHNN7 theo đó các giao dịch thuộc nghiệp vụ thị trường mở được mở rộng như việc đưa thêm vào các công cụ mới như giao dịch hối đoái có kỳ hạn (Forward) giao dịch hối đoái hoán đổi (Swap) điều này đã là tăng lên rất nhiều hiệu quả của việc điều hành tỷ giá của chúng ta trong giai đoạn vừa qua. 4. Cơ chế điều hành tỷ giá trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay Từ tháng 2/1999 bằng hai quyết định 64/1999/QĐ-NHNN7 và 65/1999/QĐ- NHNN7 ngày 25/2/1999 NHNN đã chính thức bãi bỏ việc công bố tỷ giá chính thức nói trên mà thay vào đó là công bố tỷ giá giao dịch ngoại tệ bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Các NHTM được phép xác định tỷ giá mua và tỷ giá bán đối với USD nhưng không vượt quá biên độ 0,1%với tỷ giá giao dịch thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN công bố hàng ngày. Có thể nói đây là một bước đổi mới rất quan trọng không những trong quan niệm tư duy mà cả trong thực tiễn quản lý, với cơ chế này làm cho tỷ giá trên thị trường vận động một cách khách quan phản ánh đúng các quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường đồng thời cũng phù hợp với cơ chế điều hành tỷ giá của nhiều nước trên thế giới. III. SỰ PHÁ GIÁ CỦA ĐỒNG VND NÊN HAY KHÔNG NÊN? Thời gian gần đây bắt đầu từ cuối tháng 5/2001 diễn biến tỷ giá USD/VND theo hướng USD liên tục tăng giá so với VND đây là một hiên tượng không bình thường vì nó lại không diễn ra trong bối cảnh lạm phát cao mà lại diễn ra trong bối cảnh giảm phát. Điều này đặt ra một yêu cầu phải nghiên cứu kỹ diễn biến này để chọn ra giải pháp hợp lý và chủ yếu để giải quyết cho những tâm lý ủng hộ việc phá giá đồngVND vào thời điểm hiện nay. 1. Phá giá tiền tệ và những tác động của nó Như ta đã biết phá giá tiền tệ là một trong những công cụ điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Phá giá tiền tệ là việc Nhà nước chính thức hạ thấp giá trị của đồng nội tệ so với ngoại tệ để thiết lập một mặt bằng tỷ giá mới giữa nội tệ và ngoại tệ vời kỳ vọng sẽ khôi phục được sức mua của đồng nội tệ . Khi đồng nội tệ bị đánh giá quá cao so với đồng ngoại tệ thì thường tạo ra các xu hướng sau: + Không khuyến khích xuất khẩu, giảm đầu tư cho sản xuất hàng xuất khẩu gây khó khăn cho việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất phục vụ xuất khẩu. + Nhập khẩu có cơ hội mở rộng, dễ gây ra nhập khẩu tràn lan, dễ gây tình trạng nhập siêu xu hướng sản xuất hướng vào thị trường nội địa được chú trọng hơn. + Các khoản vay nợ nước ngoài sẽ không được chú trọng sử dụng có hiệu quả do không tính đúng giá trị thực của các khoản vay(tính giảm giá trị cả các khoản vay). Khi đồng nội tệ bị đánh giá thấp so với đồng ngoại tệ thì thường tạo ra các xu hướng sau: + Hoạt động xuất khẩu sẽ phát triển thuận lợi hơn do sự rẻ đi tương đối của hàng hoá nước đó. + Hạn chế nhập khẩu do hoạt động này trở nên đắt đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVai trò quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước.doc
Tài liệu liên quan