MỤC LỤC
Lời nói đầu 1
Chương I: Những vấn đề lý luận chung 3
I. Khái niệm phân loại và bản chất của nguồn vốn đầu tư 3
1. Khái niệm 3
1.1. Vốn đầu tư 3
1.2. Nguồn vốn đầu tư 3
2. Phân loại nguồn vốn đầu tư 3
2.1. Nguồn vốn trong nước 3
2.2. Nguồn vốn nước ngoài 4
3. Bản chất của nguồn vốn đầu tư 6
II. Vai trò của nguồn vốn đầu tư trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế 9
1. Khái niệm tăng trưởng và phát triển 9
2. Vai trò của vốn đầu tư tới tăng trưởng và phát triển kinh tế 9
2.1. Vai trò của vốn trong nước 9
2.2. Vai trò của vốn nước ngoài 10
III. Mối quan hệ giữa hai nguồn vốn 12
Chương II: Thực trạng vốn đầu tư trong nước, nước ngoài và mối quan hệ giữa chúng ở Việt Nam 14
I. Thực trạng về nguồn vốn trong nước 15
1.Vốn đầu tư từ khu vực nhà nước 15
1.1. Ngân sách nhà nước 15
1.2. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước 16
1.3. Vốn đầu tư từ khu vực tư nhân 17
2. Thị trường vốn 19
II. Thực trạng về vốn nước ngoài 20
1. Nguồn vốn tài trợ phát triển chính thức 20
2. Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài 20
3. Thực trạng về mối quan hệ giữa vốn đầu trong nước và nước ngoài 24
Chương III: Một số kiến nghị chủ yếu nhằm tăng cường mối quan hệ giữa hai nguồn vốn 27
I. Những nguyên nhân 27
1. Môi trường pháp lý 27
2. Môi trường kinh doanh 27
II. Một số kiến nghị chủ yếu 28
1. Vốn đầu tư trong nước 28
2. Vốn đầu tư nước ngoài 29
Kết luận 31
Tài liệu tham khảo 32
35 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2276 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, lấy thực tiễn Việt Nam để chứng minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hể thu hút FDI, chúng ta phải đứng trước yêu cầu cấp thiết cải tạo và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn. Có như thế chúng ta mới lọt vào tầm ngắm của các nhà đầu tư nước ngoài.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI NGUỒN VỐN
Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế của một nước đang phát triển do mức thu nhập thấp nên khả năng tiêu dùng và tích luỹ là rất khiêm tốn. Nhưng giai đoạn này lại cần một khoản vốn lớn để đầu tư nhằm hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng, xây dựng các công trình làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế lâu dài. Trong giai đoạn này thường tồn tại khoảng cách lớn giữa đầu tư với tiết kiệm, cần nguồn bù đắp. Hơn nữa trong giai đoạn này do nền công nghiệp của đất nước chưa phát triển nên hàng xuất khẩu nếu có chỉ đa phần là hàng sơ chế nông sản, nguyên liệu thô… có giá trị gia tăng thấp. Ngược lại về phía nhập khẩu do nhu cầu phát triển đòi hỏi phải nhập khẩu hàng cao cấp máy móc thiết bị kĩ thuật công nghệ… có giá trị gia tăng cao. Điều đó dẫn đến cán cân thương mại, cán cân thanh toán luôn nằm trong tình trạng thâm hụt. Để giải quyết khó khăn này, nhiều nước đã tìm đến nguồn vốn đầu tư nước ngoài nhằm tài trợ cho những thiếu hụt đó.
Mặt khác với các nước đang phát triển thường rơi vào vòng luẩn quẩn
Thu nhập bình quân thấp ® Tiết kiệm, Đầu tư thấp
¯
Năng suất thấp ¬ Tăng trưởng chậm
Để tạo ra sự “cất cánh” cho nền kinh tế phải tìm cách tạo ra mức sản lượng, mức thu nhập ngày càng gia tăng muốn vậy cần phải có vốn đầu tư và kĩ thuật tiên tiến. Và trong lúc nền kinh tế còn đang trong trạng thái tự đảm bảo một cách khó khăn sự sinh tồn của mình, không thể trông đợi hoàn toàn vào con đường “ thắt lưng buộc bụng ” tích luỹ nội bộ. Mà không phát triển nhanh thì nước đó luôn rơi vào tình trạng rượt đuổi do tụt hậu phát triển. Vốn đầu tư nước ngoài lúc này là cơ sở để tạo công ăn việc làm cho số lao động thường là dư thừa, thực hiện phân công lao động mới nhằm mục tiêu nâng cao năng suất lao động. Đây là tác động kép của vốn đầu tư nước ngoài vừa tạo công ăn việc làm đồng thời làm gia tăng thu nhập cho người lao động và đất nước. Vốn đầu tư nước ngoài khuyến khích nhập các công nghệ tiên tiến là cơ sở làm gia tăng năng suất lao động xã hội, gia tăng sản lượng làm nền kinh tế tăng trưởng. Trên cơ sở đó làm gia tăng tích luỹ nội bộ nền kinh tế: Ngân sách Nhà nước tăng do thu thêm thuế lệ phí từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, tích luỹ dân cư tăng do thu nhập tăng. Như vậy nếu sử dụng tốt thì vốn đầu tư nước ngoài về ngắn hạn là đáp ứng vốn đầu tư phát triển, về dài hạn góp phần gia tăng nguồn vốn tích luỹ trong nước.
Song không phải là lúc nào nguồn vốn nước ngoài cũng đem lại hiệu quả như mong muốn, mà nó cũng luôn tiềm ẩn nguy cơ làm gia tăng nợ nước ngoài và gia tăng sự phụ thuộc vào nền kinh tế nước ngoài. Vì vậy, vấn đề là làm thế nào để sử dụng hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài? Mà thông thường để vốn đầu tư nước ngoài phát huy tác dụng cần có một tỉ lệ vốn đối ứng trong nước thích hợp. Nghĩa là muốn tiếp nhận được vốn nước ngoài thì trong nước cũng phải chuẩn bị sẵn một số cơ sở nhất định toạ điều kiện cho vốn nước ngoài hoạt động hiệu quả. Theo kinh nghiệm của một số nước nhóm NICS thì giai đoạn đầu của quá trình phát triển tỉ lệ này thường thấp 1/1.5 nghĩa là một đồng vốn nước ngoài cần 1.5 đồng vốn trong nước. Ở giai đoạn sau khi các chương trình đầu tư nghiêng về ngành công gnhiệp chế biến có hàm lượng vốn và kĩ thuật cao thì tỉ lệ này tăng lên 1/2.5. Ngoài ra vốn đầu tư trong nước còn đóng vai trò định hướng cho dòng đầu tư nước ngoài chảy vào các ngành, các lĩnh vực cần thiết. Đầu tư trong nước trên cơ sở đầu tư ban đầu tạo ra những cơ sỡ hạ tầng căn bản, đầu ra, đầu vào…song lại thiếu máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại để tạo ra sản phẩm đạt chất lượng cao, mang tính cạnh tranh so với quốc tế để phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu.Với cơ sở hạ tầng sẵn có đó thì đầu tư nước ngoài trở nên an toàn và ít tính rủi ro hơn, bởi vì bản chất của dòng đầu tư nước ngoài là tìm kiếm nơi có tỉ suất lợi nhuận cao hơn, đem lại nhiều lợi nhuận hơn sẽ làm đầu tư nước ngoài tập trung nhiều hơn.
Như vậy vốn trong nước và vốn nước ngoài có mối quan hệ mật thiết với nhau. Như Đảng và Nhà nước ta đã xác định trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá vốn nước ngoài có thể đóng vai trò xung lực tạo sức đột phá cho bước nhảy vọt sản lượng, cũng như những cơ sở vững chắc cho việc đạt mục tiêu tăng trưởng nhanh lâu bền. Song về lâu dài nó không thể đóng vai trò quyết định so với nguồn lực riêng có của đất nước.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỐN ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC, NƯỚC NGOÀI VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÚNG Ở VIỆT NAM
Trong hơn một chục năm trở lại đây với việc chuyển sang hệ thống thị trường mở của nền kinh tế thị trường, nền kinh tế nước ta đã thu được nhiều thành tựu đáng khích lệ.Từ chỗ khủng hoảng thiếu trầm trọng, ngày nay đời sống nhân dân đã được nâng lên một bước ,được đánh giá là một quốc gia an toàn cho đầu tư với tốc độ tang trưởng cao trong một thời kì dài, nền chính trị ổn định. Đạt được kết quả đó là nhờ chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước ta trong việc khơi thông nguồn lực trong nước tận dụng nguồn lực nước ngoài.Vốn đầu tư trong nước và nước ngoài đã góp phần quan trọng tạo nên tốc độ tăng trưởng và sự phát triển kinh tế nước ta.Tìm hiêủ về thực trạng hai nguồn vốn trong thời gian qua sẽ cho chúng ta cách nhìn đúng đắn hơn về vai trò của hai nguồn vốn cũng như mối quan hệ giữa chúng.Từ đó ta có thể đưa ra các biện pháp về huy động và sử dụng hai nguồn lực này cho sự phát triển kinh tế nước ta trong thời gian tới.
Bảng 1: Cơ cấu các nguồn vốn đầu tư phát triển
Năm
Tỉ lệ VĐT/GDP %
Tổng số
%
Khu vực trong nước
Khu vực có VĐTNN
Tỉ lệ VĐT trong nước/ nước ngoài
Tổng số
KTNN
Ngoài QD
1995
27.1
100
69.6
42
27.6
30.4
2.29
1996
100
74
49.1
24.9
26
2.85
1997
28.3
100
72
49.4
22.6
28
2.57
1998
100
79.3
55.5
23.4
20.7
3.83
1999
19.7
100
82.7
58.7
24
17.3
4.78
2000
32.9
100
81.3
57.5
23.8
18.7
4.35
2001
34
100
81.6
58.1
23.5
18.4
4.43
2002
34.3
100
81.5
56.2
25.3
18.5
4.41
Ước 2003
35.9
100
83.5
56.5
26.7
16.5
5.06
Tổng hợp Thời báo kinh tế Việt Nam
I.THỰC TRẠNG VỀ NGUỒN VỐN TRONG NƯỚC
Để không lệ thuộc nước ngoài về kinh tế Đảng luôn xác định nhiệm vụ và giải pháp quan trọng phát triển kinh tế xã hội là “huy động tối đa nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội nhất là nội lực, nguồn lực trong dân và tăng sức thu hút đầu tư nước ngoài, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư đặc biệt là vốn đầu tư của nước ngoài, tăng cường quản lý sử dụng đất đai, đề cao kỉ luật tài chính, đẩy mạnh thi đua sản xuất, thực hành tiết kiệm, phấn đấu giảm bội chi”.Thực tế cho thấy tỉ lệ vốn đầu tư khu vực trong nước luôn chiếm khoảng trên 70% so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội và hiện nay có xu hướng ngày càng tăng.
1.Vốn đầu tư từ khu vực nhà nước
Với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì đầu tư từ khu vực nhà nước luôn chiếm tỉ lệ cao trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, tỉ lệ này đạt khoảng 50% và hiện nay có xu hướng ngày càng tăng. Giai đoạn 1996-2000 tỉ trọng vốn đầu tư phát triển khu vực kinh tế nhà nước chiếm 54.6% so với tổg vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Đến giai đoạn 2001-2003 là 56.87%, riêng vốn đầu tư thực hiện của khu vực nhà nước năm 2003 ước tính chiếm 56.52% tổng vốn đầu tư phát triển.Vốn đầu tư từ khu vực nhà nước bao gồm các thành phần: Ngân sách nhà nước,vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
1.1 Ngân sách nhà nước (NSNN)
NSNN có vai trò là công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều khiển kinh tế vĩ mô của nhà nước. Đầu tư từ NSNN là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ khối lượng đầu tư, nó tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi nhằm đẩy mạnh đầu tư của mọi thành phần kinh tế theo định hướng chung của kế hoạch, chính sách và pháp luật. Đồng thời NSNN cũng góp phần trực tiếp tạo ra năng lực sản xuất của một số lĩnh vực quan trọng nhất của nền kinh tế, đảm bảo theo đúng định hướng và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội. Hiện nay chi cho đầu tư phát triển luôn chiếm khoảng 30%. Năm 1994 chi của NSNN cho đầu tư là khoảng 1 tỷ USD trong khi GDP là 15.5 tỷ USD như vậy tỷ lệ đầu tư từ ngân sách đạt khoảng 6% GDP.Trong giai đoạn 1996-2000 đẻ phù hợp với sự phát triển kinh tế NSNN bước đầu được cơ cấu lại theo hướng tích cực và có hiệu quả hơn.Việc cải cách thuế giai đoạn 2, cùng với triển khai luật ngân sách đã góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng nguồn thu cho ngân sách. Tổng thu ngân sách tăng bình quân hàng năm trên 7% cao hơn mức bình quân tăng GDP của giai đoạn này. Chi cho đầu tư phát triển tăng lên bình quân khoảng 25% GDP trong tổng chi NSNN. Trong giai đoạn này tổng nguồn vốn đầu tư thuộc NSNN bình quân 5 năm chiếm 21.5% tổng vốn đầu tư xã hội, tức là khoảng 8 tỉ USD. Đến năm 2000 tỷ lệ chi NSNN là 24.7% so với GDP trong đó chi cho đầu tư phát triển là 6.7%.Tỷ Lệ chi đầu tư phát triển tăng dần qua các năm : Năm 2000 là 8.4% năm 2002 là 8.2% và năm 2003 ước đạt 7.7%.
Chi phí đầu tư phát triển của NSNN cho các ngàmh kinh tế thì tập trung chủ yếu ở lĩnh vực công nghiệp và giao thông vận tải, bưu chính viễn thông chiếm khoảng 35.3%, lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn khoảng 22.5%, cho các lĩnh vực còn lại bao gồm khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, y tế , văn hoá, thể dục thể thao chiếm khoảng 36.7%. Như vậy nhờ tăng đầu tư, số công trình được đưa vào sử dụng và năng lực của hầu hết các ngành đều tăng. Gía trị tài sản cố định đến cuối năm 2000 tăng khoảng 30% so với 1995.
Đầu tư cho các chương trình mục tiêu quốc gia được ngân sách cấp rất lớn: Đầu tư cho xoá đói giảm nghèo ,chương trình 135 đã tạo được niềm tin của đồng bào và dân tộc với Đảng và Nhà nước; dự án trồng 5 triệu ha rừng…
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra với vốn đầu tư phát triển có nguồn gốc từ NSNN là việc thực hiện vẫn trong tình trạng phân tán dàn trải, thiếu tập trung, số lượng các dự án ngày càng gia tăng.Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì năm 2003 các bộ và địa phương đã bố trí 10600 công trình tăng 2500 công trình so với năm 2000. Trong đó các công trình do địa phương bố trí tăng 47%, nhiều dự án là theo ý kiến chủ quan của ngành địa phương.Việc đầu tư dàn trải như thế lại diễn ra trong điều kiện nguồn ngân sách còn nhiều hạn hẹp khiến nhiều công trình xây dựng dở dang nằm chờ vốn gây lãng phí nguồn lực, tình hình nợ đọng vốn trong đầu tư xây dựng khá cao. Theo số liệu cho đến giữa năm 2003, được tổng hợp từ các bộ,ngành 53/61 tỉnh, thành phố thì số nợ này lên tới 11000 tỷ đồng. Giao thông vận tải, nông nghiệp và phát triển nông thôn là những bộ có khối lương nợ đọng lớn.
Nhưng đáng ngại nhất là vấn đề chất lượng các công trình xây dựng chưa thực sự được đảm bảo. Không ít công trình mới bàn giao, đưa vào sử dụng chưa được bao lâu đã nhanh chong xuống cấp và hư hỏng… Việc sai phạm dẫn đến những tổn thất về chất lượng không chỉ từ phía các đơn vị thi công mà ngay từ các đơn vị tư vấn thiết kế, các cơ quan thẩm tra thẩm định kinh tế…
Việc thất thoát và lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản là một vấn đề nhức nhối cần được tập trung giải quyết vì chất lượng các công trình tác động đến thời gian sử dụng tạo ra trình độ về cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế. Do đó, đòi hỏi phải có giải pháp thiết thực để sử dung có hiệu quả vốn đầu tư từ nguồn ngân sách này.
1.2. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước(DNNN)
Theo số liệu thống kê thì năm 2000 có khoảng 5700 DNNN, nhưng hầu hết nhỏ bé về quy mô: Vốn bình quân dưới 5 tỷ chiếm 66% trong đó DNNNcủa các tỉnh, thành phố có vốn 1 tỷ chiếm 30%, nhiều tỉnh là 60%. Đến năm 2001 số DNNN giảm còn 5355 và năm 2001 là 5364 doanh nghiệp. Đấy là do chủ trương cơ cấu lại hệ thống DNNN thực hiện chuyển đổi hình thức DNNN.Trước đây, vốn cho DNNN chủ yếu được cấp từ ngân sách thì nay thực hiện cổ phần hoá để đa dạng hoá các nguồn vốn.Trước đây, đa số các doanh nghiệp đều trong tình trạng làm ăn thua lỗ, khoảng hơn 20% gây nên gánh nặng ho NSNN.Trong ba năm 1997-1999 NSNN cấp gần 8000 tỷ đồng trực tiếp cho các DNNN, 1464.4 tỷ để bù lỗ nhằm làm giảm gánh nặng tài chính. Ngoài ra, từ năm 1996 chính phủ còn miễn, giảm thuế là 2288 tỷ đồng, xoá nợ 1088.5 tỷ, khoanh nợ 3392 tỷ, dãn nợ 540 tỷ và tiếp tục cung cấp 8685 tỷ tín dụng ưu đãi cho DNNN.Theo chủ trương mới, thực hiện cổ phần hoá các DNNN còn khả năng sản xuất, giải thể những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ keo dài.Tính đến hết 11-2000 đã cổ phần hoá và chuyển đổi sở hữu cho 520 doanh nghiệp, với tổng vốn là 2000 tỷ chiếm 1.6% tổng số vốn đầu tư của Nhà nước vào khu vực DNNN.Sau khi cổ phần hoá thì các doanh nghiệp này đều làm ăn có lãi với doanh thu tăng gấp 2 lần, nộp NSNN tăng 2.5 lần, tốc độ tăng trưởng vốn là 2.5 lần. Với 300 DNNN cỡ lớn (trong đó có 90 doanh nghiệp thuộc các tổng công ty 90-91 đóng góp trên 80% tổng thu NSNN của khu vực DNNN. Vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước có được từ hai nguồn là ngân sách cấp và lợi nhuận để lại. Hiện nay còn thêm huy động từ nguồn cổ phần hoá. Tính đến thời diểm 31/12/2002 tổng số vốn doanh nghiệp Nhà nước là 895,2 nghìn tỉ đồng chiếm 62.1% so với tổng vốn của các doanh nghiệp tăng 9,5% một năm. Đóng góp của doanh nghiệp Nhà nước vào GDP tăng lên năm1995 là 30,4% thì đến 2001 là 30,6%. Song ở khu vực này vẫn còn nhiều tồn tại, doanh nghiệp Nhà nước với vai trò ngày càng lớn- chỉ là sức người cản trở thay vì là sức kéo đối với tăng trưởng. Chính phủ đổ rất nhiều vốn đầu tư vào khu vực này nhằm vực dậy, đưa khu vực này thực hiện được vai trò là đầu tàu tăng trưởng là nơi nắm giữ vốn lớn, khoa học công nghệ tiến bộ song số doanh nghiệp bị thua lỗ vẫn chiếm 17,5% năm 2000 và 16,7% năm 2001, 14,7% năm 2002 mức lỗ bình quân ủa một doanh nghiẹp là 4 tỉ dẫn đến thất thoát nguồn lực hoặc một số doanh nghiệp có lãi song bấp bênh, lãi có được là do được bảo hộ và đối xử ưu đãi: Như cácnhà máy đường, xi măng… mặt khác trong khi Nhà nước với những nỗ lực nhằm cải cách những doanh nghiệp hiện có và làm cho nó hiệu quả hơn thì những doanh nghiệp Nhà nước mới thành lập lại chỉ vì lí do có những dự án về cơ sở hạ tầng và thay thế nhập khẩu. Một số cơ quan thành lập ra doanh nghiệp nhà nước với tư cách là chủ sở hữu, không tiến hành bất cứ nghiên cứu thị trường nào cho sản phẩm của mình. Do đó nhiều doanh nghiệp Nhà nước vừa thành lập đẫ bị mắc nợ, sản phẩm không bán được và dư thừa công suất. Ngoài ra nhiều doanh nghiệp Nhà nước nằm trong diện bị chuyển thể tìm cách ôm đồm thêm chức năng công ích để được giữ lại trong tay Nhà nước. Với những bất cập trên khu vực này cần phải có những cải cách mạnh mẽ và tích cực hơn.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân
Khu vực tư nhân Việt nam, cả bộ phận doanh nghiệp có đăng ký và bộ phận hộ gia đình phi chính thức chiếm 40% GDP và 90% số việc làm năm 1998 khu vực này có vốn đầu tư phát triển khá và có xu hướng ngày càng gia tăng. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua và trong thời gian tới là tiếp tục huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế đặc biệt là nguồn vốn trong dân. Nhà nước đã ban hành luật doanh nghiệp và đến nay sau 4 năm thực hiện ta đã huy động được trên 10 tỉ USD. Theo đánh giá sơ bộ khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được huy động triệt để nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư và phần tích luỹ của cách doanh nghiệp dân doanh.
2.1 Tiết kiệm của khu vực dân cư
Cùng với sự phát triển của kinh tế đất nước một bộ phận không nhỏ trong dan cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hoặc do tích luỹ truyền thống. Nhìn tổng quan nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ tồn tại dưới dạng vàng ngoại tệ tiền mặt. Nguông vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Điều này đã được thể hiện bằng thực tế, nguồn vốn huy động từ tiết kiệm của dân cư chiếm 80% tổng nguồn vốn huy độgn của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Qua một số đợt phát hành công trái đã huy động một lượng vốn rất lớn từ dân cư, chỉ một thời gian ngắn nhưng số tiền huy động đã lên đến hàng ngàn tỉ đồng. Với khoảng 15 triệu hộ gia đình đống góp khoảng 1/3 GDP, giai đoạn 1996 – 2000 tiết kiệm của khu vực dân cư chiếm 15% GDP và xu hướng ngày càng tăng
Bảng2 : Tỉ lệ tiết kiệm dân cư / GDP (%)
1999
2000
2001
2002
2003
Tiếtkiệm/GDP
22%
29,6%
31,2%
32,1%
Tỉ lệ tăngGDP
4,8%
6,79%
6,89%
7,04%
7,24%
Thời báo kinh tế Việt Nam
Khu vực này còn đóng góp một nguồn thu ngoại tệ khá từ lượng kiều hối chuyển về của người đi xuất khẩu lao động và thân nhân ở nước ngoài. Trong 9 tháng đầu năm 1999 lượng kiều hối chuyển vào Việt Nam đạt 585 triệu USD cả năm 1999 đạt khoảng 1,2 tỉ USD. Nguồn vốn tiết kiệm của dân cư góp phần quan trọng vào vốn đầu tư phát triển chiếm khoảng 25% ngày càng quan trọng nhất là trong giai đoạn hiện nay khi xu hướng đầu tư nước ngoài đang giảm sút thì đây là nguồn bù đắp quan trọng. Tuy nhiên do hệ thống ngân hàng Việt Nam còn hoạt động chưa hiệu quả nên mặc dù thu hút được tiết kiệm dân cư song chưa đầy đủ, hai là việc sử dụng vốn tiết kiệm này chưa đạt hiệu quả các ngân hàng hiện nay còn dư nợ cho vay trong khi khu vực tư nhân cần vốn lại không được vay. Đây là bất cập cần giải quyết để khai thông nguồn lực từ sức dân.
2.2 Đầu tư của khu vực dân doanh
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua và trong thời gian tới là tiếp tục huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế đặc biệt là nguồn vốn trong dân. Năm 1999 Nhà nước ban hành luật doanh nghiệp và đến nay sau 4 năm thực hiện ta đã huy động được trên 10 tỉ USD bình quân mỗi năm là 2,5 tỉ USD. Năm 2003 đầu tư của tư nhân và dân cư là 58000 tỉ đồng tăng 24,9 % so với năm 2002. Theo thời báo kinh tế Việt Nam thì số lượng các doanh nghiệp tư nhân tăng lên qua từng năm, năm 2000 số lượng doah nghiệp tư nhân là 35004 thì 2001 là 44314 và năm 2002 là 55236, tỉ lệ tăng số doanh nghiệp tư nhân là 25,6% một năm (trong đó tăng nhanh nhất là công ty cổ phần chiếm 93,3%, công ty TNHH 49,9%)ở khu vực này số doanh nghiệp có lãi tăng từ 27916 lên 32593 doanh nghiệp và 2002 là 41743 doanh nghiệp tổng mức lãi tăng dần từ 3168 tỉ đồng lên 4753 tỉ và 7024 tỉ, lãi bình quân của một doanh nghiệp tăng lên từ 0,11 tỉ đến 0,15 tỉ và 0,17 tỉ. Và khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh năm 1995 góp 54,7% GDP và năm 2001 góp 46,8% GDP. Điều này khẳng định tiềm năng phát triển to lớn của khu vực này. Khu vực tư nhân năng động có thể tăng trưởng nhanh và tạo việc làm mà không cần có sự hỗ trợ nào từ ngân sách hay gần giống ngân sách. Nếu tạo điều kiện thông thoáng và tính hiệu rõ ràng từ phía chính phủ. Tốc độ tăng vốn đầu tư phát triển vủa khu vực ngoài quốc doanh hiện nay là cao nhất năm 2002 tăng 18,3 so với năm trước và năm 2003 tăng 25% so với năm trước mặc dù có nhiều tiến bộ về tăng trưởng chuyển dịch cơ cấu song cũng còn tồn tại nhiều yếu kém và bất cập. Phần lớn các doanh nghiệp đều có qui mô nhỏ phân tán với công nghiệp lạc hậu, việc phát triển doanh nghiệp còn mang tính tự phát, năng lực cạnh tranh còn yếu kém.
2. Thị trường vốn
Thị trường vốn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phảt triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khoán là trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm của từng hộ dân cư, vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, tổ chức tài chính. Hoạt động của thị trường chứng khoán mặc dù chưa phảt triển như mong muốn song bước đầu đã được triển khai khá suôn sẻ không gây ra những biến động lớn hoặc tác động tiêu cực tới đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Cho đến gày 20/12/2003 thị trường giao dịch chứng khoán đã tổ chức được 692 phiên giao dịch với tổng lượng giao dịch đạt 5189 tỉ đồng. Riêng tổng năm 2003 tổ chức được 239 phiên giao dịch đạt 2991 tỉ đồng bình quân 12,5 tỉ/ 1 phiên giao dịch. Doanh số giao dịch tăng 2,76 lần so với doanh số giao dịch năm 2002. Thông qua bảo lãnh phát hành và đấu thầu lớn hơn 100 loại trái phiếu chính phủ và niêm yết trên thị trường giao dịch chứng khoán với khối lượng trên 11000 tỉ. Tổng giá trị chứng khoán niêm yết ( cổ phiếu, trái phiếu) tính theo mệnh giá là 12397 tỉ đồng chiếm 2,32% GDP năm 2002. Công chúng đã dần quen với một phương thức đầu tư mới với khoảng trên 16000 tài khoản giao dịch trong đó có 152 nhà đầu tư có tổ chức và 85 nhà đầu tư nước ngoài. Sự tham gia của các nhà đầu tư đã góp phần quan trọng cho sự phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đặc biệt là trong giai đoạn gần đây. Số lượng tài khoản và giao dịch thường xuyên của các nhà đầu tư nước ngoài tăng lên đã góp phần kích thích nhà đầu tư quay lại với thị trường chứng khoán. Song hoạt động của thị trường này còn nhiều bất cập như qui mô thị trường nhỏ bé, chưa tổ chức tốt thị trường thứ cấp hiệu quả với trái phiếu đặc biệt là trái phiếu chính phủ. Kiến thức và hiểu biết của công chúng còn hạn chế, các công cụ chính sách của Nhà nước còn thiếu đồng bộ, thị trường bị chia cắt: Thị trường tiền tệ do ngân hàng nhà nước quản lý, thị trường bảo hiểp do bộ tài chính, thị trường chứng khoán do uỷ ban chứng khoán Nhà nước quản lý giám sát. Nhà nước chưa đưa ra được chiến lược phát triển thống nhất chung chính vì vậy thị trường vốn chưa thể hiện được vai trò của mình là cái van điều tiết các nguồn vốn và tăng hiệu quả sử dụng vốn.
II.THỰC TRẠNG VỀ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
Sau khi thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa chuyển sang nền kinh tế thị trường thì Việt Nam đã mở ra một kênh mới rất có triển vọng trong việc thu hút nguồ lực từ bên ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đặc biệt là từ khi chính phủ ban bố luật đầu tư nước ngoài khối lượng FDI gia tăng nhanh dần qua các năm. Và FDI đã góp phần tạo đà tăng trưởng nhanh cho kinh tế nước ta. Cuối năm 1993 là thời điểm đánh dấu bước chuyển của động thái dùng vốn nước ngoài, khi mà các thành tựu cải cách đã đủ sức chứng tỏ triển vọng phát triển nhanh và lâu bền của nền kinh tế Việt Nam.Tháng 10/1993 diễn ra Hội nghị lần 1 các nhà tài trợ cho Việt nam tại Pari - ở hội nghị này các chính phủ và tổ chức quốc tế cam kết tài trợ cho Việt nam 1.860 tỉ USD. Ngay sau đó cùng với sự giúp đỡ của các nhà tài trợ quốc tế ta đã giải quyết nợ quá hạn với IMF. IMF cũng tuyên bố cho Việt Nam vay theo thể thức dự phòng 230 triệu USD. Đến năm 1994 Mỹ tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam, năm 1995 Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN. Những điều đó đã làm dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được thuận lợi hơn.
1. Nguồn vốn tài trợ phát triển chính thức
Nếu như FDI làm thúc đẩy chuyển địch cơ câú thì ODA lại là nguồn tài trợ quan trọng cho xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triểnvăn hoá giáo dục y tế, là động lực cho phát triển bền vững nếu biết sử dụng đúng. ODA với đặc điểm vay ưu đãi thời hạn dài là phần thiết yếu để thực hiện tái thiết đất nước, nhưng hiện nay nguồn vốn này càng khó khăn hơn do có sự cạnh tranh giữa các nước nghèo trong khi ngân khố ODA của các nước giàu ngày một giảm.Vốn ODA được đầu tư chủ yếu theo các chương trình dự án giúp phát triển khu vực kém phát triển, vùng núi,vùng sâu vùng xa đặc biệt là các chương trình xoá đói giảm nghèo, định canh định cư …
Bảng 3: Cam kết giải ngân vốn ODA 1995-2002(tỷ USD )
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Cam kết(1)
2.26
2.43
2.4
2.2
2.1
2.4
2.4
2.5
Giải ngân(2)
0.74
0.9
1
1.24
1.35
1.65
1.5
1.53
Tỷ lệ (2)/(1)
0.327
0.37
0.417
0.564
0.643
0.688
0.625
0.612
(Bộ Kế hoạch và Đầu tư )
Qua 10 lần tổ chức hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam số vốn cam kết đều tăng dần qua các năm. Song số vốn được hợp thức hoá bắng ký kết các hiệp định thì lại không tăng tương xứng. Như năm 2002số vốn này đạt 2.574 tỷ USD giảm 26%so với kết quả của năm 2000. Trong đó vốn vay là gần 1.3347tỷ USD và viện trợ không hoàn lại khoảng 239.4triệu USD. Như vậy kể từ năm 1993 tống số vốn ODA được các nhà cam kết tài trợ dành cho Việt nam lên đến 22.43 tỷ USD chưa kể đến phần tài trợ riêng để thực hiện cải cách kinh tế. Trong đó tính đến hết 2002 tổng số vốn được hợp thức hoá bằng hiệp định đạt khoảng 16.5 tỷ USD và số vốn giải ngân đạt khoảng 11.04 tỷ USD. Rõ ràng là vốn giải ngân đạt tỷ lệ chưa cao, so với vốn cam kết thì còn thấp chỉ đạt 49.2%. Có thể thấy rằng nhu cầu vốn ODA ở nước ta là rất lớn.Theo “chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo” thì thời kỳ 2001-2005 Việt Nam cần thực hiện số vốn ODA khoảng 9 tỷ - nghĩa là mỗi năm cần thực hiện 1.8tỷ USD. Như vậy kết quả giải ngân chưa đảm bảo được yêucầu đề ra. Điều đó cũng cho thấy rằng vấn đề quản lý sử dụng vốn ODA ở nước ta chưa đạt hiệu quả, chưa khai thác tốt được tác động tích cực của nguồn vốn này. Cứ với tình hình sử dụng vốn ODA như vậy thì việc vay vốn ODA không những không làm phát triển kinh tế mà còn gia tăng nợ quốc gia. Nhất là 5năm tới khi thời hạn trả nợ của một số khoản ODA đã đến mà các chương trình dự án không hiệu quả không có khả năng thu hồi vốn trả nợ. Song cũng không thể phủ nhận những thành tựu mà ODA đem lại cho sự phát triển của nước ta. Nhờ ODA
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TLTV1062.doc