Thái độ của LX trong giai đoạn 1986 – 1991 là không muốn có liên hệ trong vấn đề tranh chấp giữa 2 nước XHCN, dù LX vẫn là anh-cả của các nước XHCN nhằm cải thiện quan hệ Xô – Trung và tác động lên quan hệ Trung – Mỹ. Vấn đề Campuchia là một trong 3 vấn đề được TQ đưa ra làm điều kiện để LX bình thường hóa quan hệ với TQ nên LX vì lợi ích của mình cùng nhất trí với TQ trong hành động dùng sức ép nước lớn can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm chủ quyền Campuchia; gây mâu thuẫn, nghi kị chia rẽ sự đoàn kết trong các nước thuộc khu vực Đông Nam Á. Khi Mikhail Gorbachev được bổ nhiệm làm Tổng Bí Thư của Đảng Cộng Sản, các chính sách phần lớn theo xu hướng thân Mỹ và không muốn gây hấn với TQ. Thậm chí LX bắt đầu cắt giảm viện trợ kinh tế cho Việt Nam và giữ thái độ im lặng ngay cả khi có sự giao tranh giữa Việt Nam và TQ trên đảo Trường Sa. LX cũng cắt giảm hoạt động quân sự và hải quân ở vịnh Cam Ranh.
15 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 8216 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vấn đề Campuchia trong chính sách đối ngoại của Việt Nam - ASEAN, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ắt về bốn chữ: “Trung lập thật sự”. Chính quyền các nước ASEAN cũng ngại ý đồ lâu dài của Việt Nam, ngại Việt Nam sẽ sử dụng lực lượng vũ trang, du kích hay dùng chiến thuật “đánh-đàm”. Về phía Việt Nam, ta cũng tuyên bố rõ ràng rằng sẽ không ủng hộ các Đảng Maoist.
Bước sang giai đoạn 1979 - 1986, vấn đề Campuchia xuất hiện, khiến cho những bất đồng, nghi ngại tồn tại trong quan hệ Việt Nam - ASEAN trước đó càng thể hiện rõ ràng hơn.
Việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia tạo ra rất nhiều ánh nhìn không thiện cảm từ phía quốc tế. Lúc này, ASEAN cũng chia làm hai chiều quan điểm. Indonesia và Malaysia không thể hiện sự phản đối gay gắt như Thái Lan và Singapore. Họ muốn có một Việt Nam vững mạnh và ổn định như là một đồng minh tiềm năng, hoặc ít nhất là một bộ đệm chống lại sự bành trướng của Trung Quốc. Tuy nhiên, từ năm 1980, sự khác biệt về quan điểm trong các nước ASEAN đã bị gạt sang một bên, khi quân đội Việt Nam vượt biên giới vào Thái Lan. Các ngoại trưởng ASEAN lên án đó là một “hành động xâm lược” và tái khẳng định sự ủng hộ của họ đối với nghị quyết của Liên Hợp Quốc về việc yêu cầu Việt Nam rút quân khỏi Campuchia.
Giai đoạn 1979-1986, mục tiêu của ASEAN là ngăn Việt Nam mở rộng ảnh hưởng sang khu vực; giữ Campuchia trung lập, cân bằng phe phái và lợi ích giữa các nước lớn; Việt Nam rút quân và đi vào giải pháp chính trị. Để thực hiện mục tiêu đó, các nước ASEAN áp dụng tất cả các biện pháp về ngoại giao, chính trị và kinh tế. Họ ủng hộ chính phủ ba phái. Thái Lan giúp đỡ Khome đỏ, viện trợ lương thực, đất Thánh. Từ tháng 3/1980, ASEAN áp dụng công thức Kuantan với nội dung là Đông Nam Á hòa bình, cần giải pháp chính trị, có tính tới lợi ích chiến lược của Việt Nam; Việt Nam độc lập với Liên Xô, Trung Quốc; Campuchia trung lập hóa; Trung Quốc, Liên Xô không can thiệp vào Đông Nam Á.
Về phía Việt Nam, chủ trương là thiết lập quan hệ láng giềng tốt với ASEAN, “sẵn sàng cùng ASEAN xây dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình, ổn định”(VKĐH V)
Nhìn chung, trong giai đoạn này, phía ASEAN còn chịu tác động mạnh của Mỹ, Trung Quốc và phía ta còn nặng về đấu tranh: đấu tranh bằng quân sự ở Campuchia, nặng về phê phán ASEAN. Ta kêu gọi đối thoại với ASEAN, thi hành chính sách tranh thủ và đấu tranh với ASEAN nhưng trên thực tế lại nặng về đấu tranh, phê phán, đối lập khối Đông Dương - Xã hội chủ nghĩa và ASEAN - Tư bản chủ nghĩa. Hai phía vẫn tiếp tục bất đồng về nguyên nhân căng thẳng ở Đông Nam Á. Riêng với Thái Lan, Việt Nam nặng về đấu tranh, gắn vấn đề rút quân với yêu cầu Thái Lan chấm dứt viện trợ, đất Thánh.
Như vậy, quan hệ Việt Nam - Đông Nam Á giai đoạn trước 1986 là căng thẳng. Vấn đề Campuchia càng làm cho cái nhìn của ASEAN và cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam không mấy tốt đẹp. Nhưng sau năm 1986, quan hệ đó dần phát triển theo chiều hướng tốt hơn.
II. Chính sách đối ngoại Việt Nam – ASEAN giai đoạn 1986 – 1991
1. Thái độ và sự can dự của các nước lớn trong vấn đề Campuchia trong giai đoạn 1986 - 1991
1.1. TRUNG QUỐC (TQ)
Hiếm có một nước nào có duyên nợ với Việt Nam nhiều như Trung Quốc. Trong vấn đề Campuchia, điều cốt yếu chính là tháo bỏ chiếc mặt nạ của Trung Quốc. Ẩn sâu trong một khuôn mặt hài hòa kiểu-Khổng-Tử lại chứa đựng những mưu mô, những tính toán chiến lược biến hóa khôn lường. Một trong vấn đề quan trọng nhất khi hoạch định chính sách với Trung Quốc là ta cần làm rõ bản chất của họ: Trung Quốc là một nước mang tính chất xã hội chủ nghĩa – đồng chí hay một nước theo chủ nghĩa bá quyền – kẻ thù? Thật khó có thể phân định rạch ròi. Bởi thực tế đã chỉ ra rằng, Trung Quốc là một phiên bản nâng cấp của cả 2 nhận định trên. Trung Quốc có thể là bạn, có thể là thù, tùy theo lợi ích quốc gia tối cao của họ.
Trong vấn đề Campuchia, lợi ích của TQ là gì mà họ lại tăng cường lấn ép quan hệ giữa ta và ASEAN đến vậy?
Giai đoạn 1986 – 1991 là giai đoạn đi vào hồi kết của chiến tranh Lạnh. Các đối thủ chính của TQ ở châu Á – Thái Bình Dương đều đang gặp khó khăn. Liên Xô đối mặt với sự sụp đổ. Mỹ đang giảm bớt sự có mặt về quân sự ở châu Á – Thái Bình Dương và tránh can thiệp vào các xung đột khu vực nếu lợi ích của Mỹ và đồng minh không bị đụng đến. TQ cho rằng tình hình lúc đó đang thuận lợi cho họ tranh thủ gấp rút thực hiện yêu cầu tăng thế và lực nhằm tạo cho mình một vị thế đỡ bất lợi so với Mỹ và các nước lớn khác, trong đó có ý đồ gấp rút biến biển Nam Trung Hoa thành vùng biển độc chiếm của TQ, từ đó khống chế toàn bộ vùng Đông Nam Á. TQ muốn lợi dụng Campuchia như là một trong những công cụ tay sai đắc lực để quấy rối an ninh của Đông Nam Á, tạo mâu thuẫn, gây khó khăn cho quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam - ASEAN. Nếu cho đây là một cuộc nội chiến trong ASEAN thì sẽ không nhìn thấy được mối đe dọa về an ninh của khu vực từ TQ.
Cũng trong giai đoạn này, TQ nhận thấy mình không còn đủ sức kiểm soát toàn bộ hoàn toàn tình hình ở Campuchia. Trong hòa hoãn 3 nước lớn, vai trò TQ lúc này vẫn lép nhất, hòa hoãn Xô – Mỹ phát triển mạnh nhất. Xô – Mỹ đã thỏa thuận giải quyết vấn đề Afghanistan là một vấn đề châu Á mà không có vai trò của TQ. TQ lo ngại với cái đà đó Xô – Mỹ rồi sẽ giải quyết các vấn đề châu Á khác như vấn đề Campuchia mà cũng không có vai trò của TQ. TQ muốn giữ vai trò của một trong 3 nước lớn giải quyết vấn đề Campuchia. Như thế sẽ lợi cho TQ hơn là để vấn đề Campuchia được giải quyết trong nội bộ Campuchia, giữa ASEAN – Đông Dương hay giữa TQ – VN. Vì vậy, TQ chống thỏa thuận VN – Indonesia năm 1987 ở thành phố Hồ Chí Minh, ra sức phá diễn đàn Hunxen – Sihanouk, đòi VN đàm phán với Sihanouk, hỗ trợ Thái Lan gây xung đột biên giới Thái – Lào.
Thông qua cuộc nói chuyện với Kayson ngày 7/10/1989 mà Đặng Tiểu Bình đã bộc lộ rõ phần nào những tính toán sâu xa của mình với VN: phân hóa Việt – Lào, Việt – Campuchia, Việt – Xô và phân hóa cả nội bộ VN.
Cuối những năm 1990, Trung Quốc mềm mỏng hơn trong thái độ đối với VN về vấn đề Campuchia do quan hệ của TQ với Mỹ và các nước phương Tây chậm khôi phục sau vụ Thiên An Môn. TQ không còn có khả năng “dựa hơi” vấn đề Campuchia tiếp tục phá quấy quan hệ của Việt Nam và ASEAN. Trong các cuộc họp 5 nước thường trực Hội Đồng Bảo An tháng 2 và tháng 3/1990. TQ ở thế bị cô lập đã buộc phải có nhân nhượng và phải chấp nhận vai trò của LHQ trong vấn đề đối xử với Khmer Đỏ. TQ đề nghị Liên Hợp Quốc đứng ra tổ chức một hội nghị quốc tế giải quyết vấn đề Campuchia và đàm phán với Mỹ, Pháp, ASEAN nhằm làm cho quá trình giải quyết dễ dàng hơn.
Tóm lại, TQ thể hiện rõ mưu đồ muốn lợi dụng vấn đề Campuchia để “dạy cho Việt Nam một bài học”, kéo dài quá trình bình thường hóa quan hệ của VN với các quốc gia khác, cũng như gây “sóng gió” cho mối quan hệ giữa VN – ASEAN, phân hóa sự đoàn kết của các nước thuộc khu vực Đông Nam Á nhằm mục đích dễ bề bành trướng quyền lực xuống phía Nam.
1.2. LIÊN XÔ (LX)
Thái độ của LX trong giai đoạn 1986 – 1991 là không muốn có liên hệ trong vấn đề tranh chấp giữa 2 nước XHCN, dù LX vẫn là anh-cả của các nước XHCN nhằm cải thiện quan hệ Xô – Trung và tác động lên quan hệ Trung – Mỹ. Vấn đề Campuchia là một trong 3 vấn đề được TQ đưa ra làm điều kiện để LX bình thường hóa quan hệ với TQ nên LX vì lợi ích của mình cùng nhất trí với TQ trong hành động dùng sức ép nước lớn can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm chủ quyền Campuchia; gây mâu thuẫn, nghi kị chia rẽ sự đoàn kết trong các nước thuộc khu vực Đông Nam Á. Khi Mikhail Gorbachev được bổ nhiệm làm Tổng Bí Thư của Đảng Cộng Sản, các chính sách phần lớn theo xu hướng thân Mỹ và không muốn gây hấn với TQ. Thậm chí LX bắt đầu cắt giảm viện trợ kinh tế cho Việt Nam và giữ thái độ im lặng ngay cả khi có sự giao tranh giữa Việt Nam và TQ trên đảo Trường Sa. LX cũng cắt giảm hoạt động quân sự và hải quân ở vịnh Cam Ranh.
1.3. MỸ
Nước Mỹ không còn giữ vị trí độc tôn và buộc phải chấp nhận sự san sẻ quyền lực, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, kĩ thuật mà còn cả chính trị. Trên thế giới xuất hiện những khu vực đối trọng với Mỹ như Tây Âu, Nhật Bản hay Trung Quốc. Mỹ có nhiều chuyện để lo hơn là dồn tiền của vào những cuộc chiến tranh hao phí. Những bài học lịch sử chỉ ra nhiều điều còn hơn thế. Vì vậy, Mỹ không dồn trọng tâm vào theo đuổi những cuộc chiến khu vực. Giai đoạn 1986 – 1991, nhằm chống lại ảnh hưởng của Liên Xô lên Đông Nam Á mà Mỹ bắt tay với TQ chống lại VN trong vấn đề Campuchia. Nhưng rõ ràng rằng, Mỹ cũng không lấy làm mừng khi TQ dần bộc lộ mưu đồ bành trướng khu vực phía Nam. TQ là một đối tác quan trọng của Mỹ nhưng Mỹ cũng không thể làm ngơ hay khuyến khích TQ lợi dụng vấn đề Campuchia chia tách Đông Nam Á và có khả năng trở thành đối thủ số 1 mới của Mỹ, vì nó hoàn toàn trái mục tiêu chiến lược của Mỹ. Việc giải quyết êm thấm vấn đề Campuchia là cái chốt để mở ra câu trả lời cho bài toán chiến lược của Mỹ.
Vì thế, những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90, khi sự tan rã của LX là một điều tất yếu, Mỹ quay sang khuyến khích sự mở rộng của Đông Nam Á, thúc đẩy tiến trình bình thường hóa quan hệ của Việt Nam – ASEAN nhằm tạo ra một khối ASEAN đủ mạnh để chống lại TQ.
2. Hoạch định chính sách
Bước sang giai đoạn 1986 - 1991, tình hình đã có sự biến chuyển. Từ giữa thập niên 80, các nước lớn đã đi vào hòa hoãn, hợp tác và đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình, hợp tác giải quyết vấn đề khu vực trong đó có vấn đề Campuchia.
Các nước ASEAN lo ngại các nước lớn, nhất là Liên Xô, Trung Quốc bình thường hóa quan hệ với nhau sẽ giải quyết vấn đề Campuchia bất lợi cho khu vực nên đã từng bước điều chỉnh quan hệ với Việt Nam, hợp tác giải quyết vấn đề Campuchia có lợi cho hòa bình, ổn định khu vực, nâng cao vai trò của ASEAN.
Về phía Việt Nam, ta đã thấy rõ khoảng cách về kinh tế giữa ASEAN và Việt Nam. Chúng ta có thể bị tụt hậu hơn nữa nếu không mở rộng quan hệ. Đông Nam Á có vị trí quan trọng trực tiếp trong toàn bộ đường lối, chính sách hòa bình và phát triển của Việt Nam. ASEAN có thể giúp mở ra xu thế đối thoại, tìm kiếm giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia, tạo dựng một khu vực hòa bình, ổn định và môi trường tốt cho Việt Nam thực hiện nhiệm vụ hòa bình và phát triển.
Theo tình hình đó, chính sách của ta là chuyển từ đối đầu sang đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình với ASEAN.
Tại Đại hội VI của ĐCSVN (1986), Việt Nam đã có sự đổi mới tư duy về tất cả các mặt an ninh - phát triển, lợi ích quốc gia - nghĩa vụ quốc tế, hợp tác - đấu tranh. Đồng thời, Việt Nam cũng xác định những nhiệm vụ chiến lược: hòa bình và phát triển, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, thoát khỏi bao vây - cấm vận. Một đường lối đổi mới toàn diện đã được đưa ra, trong đó Việt Nam chủ trương chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ. Đại hội VI chủ trương:
“Chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hòa bình, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác.” (VKĐH VI- T.79)
“ Chủ trương chuyển từ đối đầu sang đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình, với các đối tác chính” (Nghị quyết 32)
“Thêm bạn bớt thù” (Nghị quyết 13)
“Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước” (Đại hội VII, VIII)
Rõ ràng, nếu trước đây Việt Nam chú trọng an ninh thì giờ mục tiêu phát triển kinh tế đã được đưa lên hàng đầu. (Nghị quyết 13 Bộ Chính trị).
Trước đây, Việt Nam coi nghĩa vụ quốc tế quan trọng, có ý nghĩa chiến lược thì nay, lợi ích quốc gia là trên hết. Làm nghĩa vụ quốc tế phải phục vụ lợi ích của Việt Nam, hợp khả năng của Việt Nam, hợp bối cảnh quốc tế và tuân thủ theo nguyên tắc: không xuất khẩu cách mạng, không làm thay.
Về hợp tác, đấu tranh: nếu trước đây Việt Nam hợp tác một chiều với xã hội chủ nghĩa và đấu tranh một chiều với đế quốc thì lúc này là đấu tranh tùy lúc, tùy vấn đề. Đấu tranh để hợp tác.
Thực hiện đường lối này, Việt Nam đã rút hết quân khỏi Campuchia, trở ngại lớn nhất trong quan hệ hai bên dần được dỡ bỏ, vấn đề Campuchia dần đi vào giải pháp hòa bình.
Từ năm 1988, ta bỏ chủ trương của 10 năm trước là: “Tăng cường liên minh với 3 nước Đông Dương làm đối trọng với các nước ASEAN và là nhân tố quyết định đối với hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á.”
Từ năm 1988, sự đối đầu giữa 2 nhóm nước không còn, ta không coi ASEAN là khối quân sự trá hình. Ngày 29/7/1988, xu hướng chuyển qua đối thoại thể hiện qua thông cáo Việt Nam - Indonesia, JIM1, JIM2.
Việt Nam cũng tăng cường quan hệ nhiều mặt với Indonesia, phá vỡ bế tắc trong quan hệ với Thái Lan; mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hóa với các nước trong khu vực, giải quyết vấn đề tồn tại với các nước trong khu vực bằng thương lượng, thúc đẩy việc xây dựng khu vực hòa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác.
Trong tình hình đó, các nước ASEAN bắt đầu phát triển quan hệ song phương với Việt Nam và hoan nghênh việc tham gia vào hợp tác khu vực. Về phần mình, Việt Nam cũng bày tỏ mong muốn phát triển quan hệ hữu nghị với các nước ASEAN.
Sự xích lại gần nhau giữa Việt Nam và ASEAN có thêm những nhân tố mới thúc đẩy sau khi Trung Quốc sử dụng vũ lực đánh chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam và thái độ của Việt Nam kiên trì chính sách đàm phán để giải quyết mọi tranh chấp về lãnh thổ, cùng với việc Việt Nam giữ đúng cam kết rút hết quân khỏi Campuchia trước thời hạn vào năm 1988, mặc dù lúc đó chưa đạt được giải pháp về vấn đề Campuchia.
Bước sang giai đoạn 1991-1996, rõ ràng tầm quan trọng của các nước láng giềng, khu vực liên quan trực tiếp đến chính sách đối ngoại của Việt Nam.
ASEAN là tổ chức khu vực thành công, uy tín cao và trọng lượng tiếng nói ngày càng tăng. Ngoài ra, AFTA (ASEAN Free Trade Area) cũng rất hấp dẫn và ARF (ASEAN Regional Forum) từng bước tiến tới đảm bảo an ninh khu vực. APEC (Asia-Pacific Economic Cooperation) có thực lực và tiềm lực kinh tế, thương mại lớn hơn hẳn các khối khác và là thị trường có sức cạnh tranh hàng đầu thế giới.
Về chính sách, Việt Nam luôn cần môi trường hòa bình, ổn định để phát triển. Tại Đại hội VII, Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ trương:
“Phát triển quan hệ hữu nghị với Đông Nam Á và Châu Á-Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đông Nam Á hòa bình, hữu nghị và hợp tác.”
Ngày 15/10/1993, Đồng chí Đỗ Mười nêu ra chính sách bốn điểm như sau:
Một là, chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa.
Hai là, phát triển quan hệ với từng nước và tổ chức ASEAN, sẵn sàng gia nhập ASEAN.
Ba là, sẵn sàng tham gia các diễn đàn đảm bảo hòa bình, an ninh, xây dựng khu vực Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, hợp tác, phát triển, không có căn cứ quân sự nước ngoài, không có vũ khí hạt nhân.
Bốn là, thông qua thương lượng giải quyết vấn đề tồn tại, kể cả tranh chấp ở Biển Đông.
Như vậy, khi vấn đề Campuchia được đi vào giải quyết, quan hệ Việt Nam -ASEAN đã có nhiều biến chuyển ngày càng tốt đẹp hơn. Sở dĩ như vậy là do cả hai phía đều có những thay đổi trong tính toán chiến lược của mình.
3. Triển khai chính sách và kết quả
Với mục tiêu chiến lược: "giữ vững hòa bình, tập trung xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và triển khai các Nghị quyết, chủ trương đối ngoại, chủ động tháo gỡ những khó khăn, phức tạp trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước, từng bước rút quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia, cải thiện quan hệ với các nước ASEAN. Có thể nói giai đoạn 1986 - 1991 là giai đoạn đạt kết quả cao trong thực hiện chính sách đối ngoại. Cụ thể là trong giai đoạn này ta đã cơ bản giải quyết vấn đề Campuchia và gỡ bỏ hiểu lầm các nước ASEAN về Việt Nam.
Nhằm thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách Đại hội VI đề ra, Đảng và Nhà nước ta đã tích cực tìm giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia để bình thường hóa quan hệ với các nước ASEAN. Ngày 26/05/1988, Bộ Quốc phòng Việt Nam ra tuyên bố rút 5 vạn quân và rút bộ Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước. Quân tình nguyện Việt Nam còn lại ở nước này đặt dưới sự chỉ huy của Cộng hòa nhân dân Campuchia. Trong đợt rút quân này, Việt nam đã rút hết số quân đóng gần biên giới Campuchia - Thái Lan (30km). Việc làm này làm thay đổi thái độ của Thái Lan và các nước ASEAN.
Các hội nghị không chính thức về Campuchia: JIM-I (7/1988), JIM-2(2/1989) và cuộc gặp ko chính thức IMC (2/1990) được tiến hành tại Jacarta nhằm thảo luận một cách cởi mở và tìm ra một giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia.
Tại đại hội VI của ĐCSVN (1986), 1 đường lối đổi mới toàn diện đã được đưa ra, trong đó VN chủ trương chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ. Thực hiện đường lối này, VN đã rút hết quân khỏi Campuchia, trở ngại lớn nhất trong quan hệ 2 bên đang dần được dỡ bỏ, vấn đề Campuchia đi dần vào giải pháp hòa bình. Trong tình hình đó, các nước ASEAN bắt đầu phát triển quan hệ song phương với VN và hoan nghênh việc VN tham gia vào hợp tác khu vực. Tháng 12/1987, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 3 họp tại Manila, tổng thống Philipine Aquino tuyên bố không coi VN là mối đe dọa đối với Philipine. Tiếp đó, Tháng 2/1983, Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao Philipine tuyên bố “không chống việc VN gia nhập ASEAN”. Còn thủ tướng Thái Lan Chatichai khi lên cầm quyền tháng 8/1988 đã đưa ra chủ trương “biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường.” Chính sách trên của Thái Lan đã được Thủ Tướng Malaysia tuyên bố ủng hộ (6/1989). Về phần mình, VN cũng luôn bày tỏ mong muốn phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước ASEAN.
Quan hệ Việt Nam - ASEAN đã được đẩy mạnh trong năm 1989 và các năm tiếp theo. Sự kiện chính trị nổi bật và quan trọng nhất trong quan hệ hai bên đó là việc tổng thống Suharto, nguyên thủ một nước ASEAN đầu tiên, thăm VN. Tiếp đó là các chuyến viếng thăm của các thủ tướng Singapore và Thái lan. Các quan chức và các học giả ASEAN cũng bắt đầu thể hiện thiện chí và mong muốn có sự hội nhập của VN và các nước Đông Dương khác vào khu vực Đông Nam Á.
Tháng 1/1989, tại Hội nghị bàn tròn các nhà báo châu Á – Thái Bình Dương ở TP. HCM, Tổng Bí Thư ĐCS VN Nguyễn Văn Linh tuyên bố: “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẵn sàng phát triển quan hệ hữu nghị với các nước ASEAN và các nước khác trong khu vực.” Cũng tại hội nghị này, bộ trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố: “VN sẵn sàng gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á”. Tại JIM-2 (2/1989), VN và Lào tuyên bố sẵn sàng tham gia hiệp ước Bali (1976) của ASEAN.
Qua việc giải quyết vấn đề Campuchia và nêu cao vấn đề hợp tác khu vực, sự đoàn kết ASEAN và vai trò của tổ chức ASEAN ngày càng được củng cố và tăng cường ở khu vực và trên thế giới.
Quan hệ Việt Nam – ASEAN bắt đầu có những chuyển biến tích cực, và việc Hiệp định Paris về Campuchia được kí kết tháng 10/1991 đã đánh dấu sự chấm dứt của “thời kì Campuchia” trong quan hệ Việt Nam - ASEAN, mở ra một thời kì mới, thời kì của hợp tác 2 bên.
Ngày 06/01/1989 nhân dịp sang thăm và dự lễ kỉ niệm ngày chiến thắng mùng 7 tháng 1 của Campuchia tại Phnôm Pênh, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh tuyên bố Việt Nam sẽ rút hết quân tình nguyện về nước trong tháng 9/1989 nếu có một giải pháp chính trị về vấn đề Campuchia. Với những chuyển biến nhanh chóng trong quan hệ quốc tế và quan hệ phát triển tốt đẹp trong quan hệ hai nước, ngày 05/04/1989, Việt Nam tuyên bố sẽ rút hết quân trong năm 1989 dù có giải pháp hay không. Tuyên bố này đã thể hiện rõ thiện chí của Việt Nam trong vấn đề Campuchia. Để thực hiện theo đúng đường lối chủ trương Chính sách của Đảng, nước ta chủ động rút quân cho dù có giải pháp chính trị hay không. Tháng 9 năm 1989, Việt Nam hoàn thành việc rút hết quân tình nguyện ở Campuchia về nước.
Thành công lớn nhất trong giai đoạn 1986-1991 đó là, nước ta đã rút toàn bộ quân tình nguyện khỏi Campuchia và bình thường hóa quan hệ với các nước trong khu vực. Nước ta đã ký với các nước ASEAN một số Hiệp định hợp tác trong các lĩnh vực: kinh tế, chính trị tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của các nước vào đầu tư kinh doanh ở nước ta. Sau khi giải quyết xong vấn đề Campuchia, nước ta đã thoát khỏi cấm vận kinh tế, có điều kiện hợp tác phát triển kinh tế với các nước trong khu vực. Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam - ASEAN tăng 26,8% năm, nay chiếm 32,4% tổng kim ngạch. Quan hệ Việt Nam - ASEAN ngày càng cải thiện, năm 1995 nước ta chính thức gia nhập tổ chức này. ASEAN ủng hộ Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Mỹ, ký hiệp định khung hợp tác với liên minh Châu Âu. Những năm sau 1991, ASEAN ủng hộ Việt Nam tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vục lớn hơn: APEC, WTO… Như vậy, sau năm 1991 quan hệ Việt Nam- ASEAN ngày càng trở nên tốt đẹp.
4. Đánh giá
4.1. Vì sao Việt Nam lại để quân ở Campuchia lâu như thế?
Vào tháng 12 năm 1989, người lính cuối cùng của quân đội nhân dân Việt Nam đã rời khỏi Campuchia để trở về quê hương. Như vậy nghĩa là từ khi bắt đầu tiến vào đất nước láng giềng này để tiêu diệt lực lượng Khơme Đỏ vào tháng 12 năm 1978, xương máu của người Việt Nam đã đổ trên đất nước Campuchia hơn 10 năm và trong ngần ấy năm, ngoài những tổn thất lớn lao về người và của, chúng ta còn phải chịu rất nhiều sức ép về chính trị: sự bao vây cấm vận của Mỹ, sự thù địch của Trung Quốc và sự đối đầu với Asean. Thế nhưng chúng ta đã không còn một sự lựa chọn nào khác bởi vì điều đó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh của đất nước mà còn để phục vụ cho những toan tính chính trị.
Trước hết chúng ta cần phải hiểu rằng Khơme đỏ là kẻ thù nguy hiểm của Việt Nam: ngay khi vừa giành được chính quyền ở Campuchia thì chúng đã lên kế hoạch và thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược lãnh thổ nước ta. Khi quân ta chiếm được Phnom Penh vào đầu năm 1979, chính quyền Pol Pot về cơ bản đã bị đánh bại. Tuy nhiên tàn quân Khơme đỏ, theo ước tính là khoảng 30000, đã rút về vùng biên giới Thái Lan và đã thiết lập một vùng căn cứ với sự cho phép của chính quyền Bangkok để từ đó tiếp tục các hoạt động quân sự chống lại quân Việt Nam và chính quyền mới của nước Cộng hòa nhân dân Campuchia. Chính quyền mới của Phnom Penh không thể ngay lập tức đủ sức để tự đảm bảo an ninh cho mình chứ chưa nói đến việc truy quét tàn quân Khơme đỏ, nên trong suốt những năm sau đó, Việt Nam phải duy trì một lực lượng quân sự lớn, bất chấp việc đang xảy ra những xung đột với Trung Quốc tại biên giới phía bắc, để làm nhiệm vụ “bình định”. “Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc,” đó là chân lí đúng đắn từ đời xưa truyền lại. Nếu như để một lực lượng tàn bạo mà lòng căm thù đối với Việt Nam đã được ăn sâu vào tiềm thức như thế tồn tại thì điều đó không những đe dọa đến sự tồn tại của đất nước Campuchia mới mà bao công sức và xương máu mà chúng ta đã phải bỏ ra trong cuộc chiến rất có thể sẽ trở thành vô nghĩa.
Bên cạnh lí do an ninh ở trên thì còn có những lí do về mặt chính trị. Giống như Lào, Campuchia là một quốc gia có một đường biên giới dài với Việt Nam nên một chính phủ thân Việt Nam là một điều quan trọng đối với Hà Nội. Ngoài việc đưa những người có tư tưởng thân Việt Nam như Heng Samri và Hun Xen lên nắm quyền thì sự hiện diện của quân đội Việt Nam ở đây cũng là để tạo và duy trì một “áp lực cần thiết”, có ích cho ảnh hưởng của Việt Nam.
Việc quân đội Việt Nam có mặt trên lãnh thổ Campuchia cũng là một công cụ quan trọng trên bàn đàm phán với Trung Quốc về vấn đề bình thường hóa quan hệ sau này. Mưu đồ của Bắc Kinh là muốn duy trì Khơme đỏ như một lực lượng chính trị nhưng chúng ta kiên quyết loại bỏ hoàn toàn kẻ thù này. Sau nhiều năm đàm phán, cuối cùng thì chúng ta cũng đã thành công trong việc vô hiệu hóa hoàn toàn Khơme đỏ, làm cho chúng không còn có thể là một mối đe dọa đối với ta và chính quyền Hun Xen nữa. Đó là lúc thích hợp cho việc rút quân hoàn toàn để mở ra các cánh cửa mới trên bàn đàm phán.
4.2. Đánh giá triển khai chính sách với ASEAN trong giai đoạn 1986 – 1991?
Giai đoạn 1986-1991 là giai đoạn ta tiếp tục thực hiện và hoàn thành cam kết rút quân khỏi Campuchia. Nước ta đã đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu, tập trung giải quyết vấn đề Campuchia để bình thường hóa quan hệ với các nước ASEAN. Việc Chính phủ Việt Nam rút hết quân sớm hơn dự kiến đã tạo ra đà thúc đẩy nhanh xu thế đối thoại, tăng cường sức ép đối phương đi vào giải pháp, vô hiệu hóa con bài "đòi rút quân Việt Nam" được dùng để chống phá nước ta. Nước ta rút quân tạo điều kiện mở rộng mối quan hệ với các nước khu vực ASEAN, tập trung phát triển kinh tế, phát huy ảnh hưởng với các nước trong khu vực và khiến các nước phải có sự thay đổi thái độ với nước ta. Có thể nói, Việt Nam rút hết quân khỏi Campuchia là sự thay đổi chính sách có tính chất bước ngoặt của ta.
Cùng với tư duy đổi mới, Đảng đã đánh giá đúng những đặc điểm, những chuyển biến quan trọng của tình hình quốc tế, những yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đề ra đường lối đối ngoại phù hợp, hướng tới các nước láng giềng khu vực, đáp ứng lợi ích của dân tộc trong giai đoạn cách mạng hiện tại. Đường lối đối ngoại đúng đắn rõ ràng đã tạo thế và thời cơ thuận lợi cho việc triển khai có hiệu quả. Những kết quả đạt được giai đoạn 1986- 1991 là sự kết hợp của ba yếu tố: đề ra chính sách đúng đắn, triển khai chính sách phù hợp với đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước; và sự thức thời của nhà lãnh đạo.
IV. Bài học và kiến nghị
1. Bài học
Từ thực tiễn triển khai chính sách đối ngoại Vi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vấn đề CPC trong chính sách đối ngoại VN-ASEAN giai đoạn 1986 - 1991-nhom Doan DieuThom CT36D.doc