MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn 01
Mục lục 02
PHẦN MỞ ĐẦU 03
CHƯƠNG 1 – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI 07
1.1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI NGOÀI TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN 07
1.2. QUAN NIỆM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI 08
1.2.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã hội 08
1.2.2. Con người là chủ thể của lịch sử, mục tiêu của sự phát triển xã hội 09
1.2.3. Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội 12
1.3. CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (CNXH) LÀ SỰ PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN CỦA CON NGƯỜI 13
CHƯƠNG 2 – PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA (CNH – HĐH) ĐẤT NƯỚC 15
2.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ NHÂN TỐ CON NGƯỜI 15
2.2. PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC 15
2.2.1. Trên phương diện con người là động lực của sự phát triển xã hội 15
2.2.2. Trên phương diện con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội 16
2.2.3. Vai trò của con người trong quá trình CNH – HĐH đất nước 18
2.3. NHỮNG NHIỆM VỤ CƠ BẢN XÂY DỰNG CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC 19
2.3.1. Xây dựng tư tưởng đạo đức và lối sống 20
2.3.2. Phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo 21
2.3.3. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc 23
2.3.4. Xây dựng môi trường văn hóa 26
PHẦN KẾT LUẬN 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO 32
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 38698 | Lượt tải: 7
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vấn đề con người trong triết học Mác – Lênin và phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động, biến đổi cũng không phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là “tổng hoà các quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khắp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người
Con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội
Từ khi xuất hiện đến nay, loài người luôn cháy bỏng hoài bão được sống tự do, hạnh phúc và không ngừng đấu tranh để hoài bão đó được trở thành hiện thực. Trong các chế độ xã hội dựa trên quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất (chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản). Các giai cấp thống trị luôn dùng mọi thủ đoạn để tước đoạt hoặc hạn chế quyền tự do và hạnh phúc của số đông quần chúng lao động. Cho nên loài người không ngừng đấu tranh chống lại sự áp bức bất công đó.
Xã hội ngày càng văn minh, đó là xu hướng chủ yếu của xã hội. Nhưng cho đến nay, bước tiến của nền văn minh vẫn chứa đựng những yếu tố, những khuynh hướng đi ngược lại lợi ích chung của loài người, nhiều thành tựu của khoa học – kỹ thuật được sử dụng để huỷ diệt con người. Công nghiệp hoá học tạo ra năng suất, chất lượng lao động cao, nhưng lại gây ô nhiễm môi trường, máy móc thay thế sức người nhưng lại đẩy hàng chục triệu người vào thất nghiệp, xu thế hội nhập mở cửa tạo ra cơ hội phát triển cho mỗi người, cho các quốc gia nhưng lại nảy sinh những biểu hiện tiêu cực về lối sống làm mất bản sắc văn hoá dân tộc... Ông Nobel đã phát minh ra thuốc nổ và nhờ thuốc nổ trở thành giàu có. Nhưng bản thân ông lại không ngờ thuốc nổ lại sử dụng rộng rãi trong chiến tranh, tàn sát hàng chục triệu người vô tội. Ân hận về điều đó, ông đã để lại di chúc, đề nghị sử dụng gia tài mà ông có được do phát minh thuốc nổ, làm giải thưởng cho những ai có công trình khoa học đem lại hạnh phúc cho con người. Như vậy, Nobel đã đề xuất một tư tưởng: Văn minh phải hướng tới nhân đạo.
Thế kỷ XXI chắc chắn sẽ có nhiều biến đổi to lớn, khoa học và công nghệ sẽ có những bước tiến bất ngờ. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra cho mỗi người, mỗi quốc gia là phải làm chủ được các thành tựu của văn minh. Vậy con người là chủ thể của lịch sử nên chính con người chứ không phải đối tượng nào khác, phải loại trừ những yếu tố ngăn cản tự do, hạnh phúc của con người, đồng thời thúc đẩy làm biến đổi xã hội theo chiều hướng ngày càng tốt đẹp hơn. Thế giới hiện nay còn chứa đựng những yếu tố khác đe doạ tự do và hạnh phúc của con người như đói nghèo, dịch bệnh, thất học, ô nhiễm môi trường, bất bình đẳng xã hội, nguy cơ khủng bố, chiến tranh…. Do đó mọi chủ trương chính sách, mọi hành động của cộng đồng quốc tế, của các quốc gia và hành động của mỗi cá nhân phải nhằm bảo vệ con người, vì tự do hạnh phúc của con người.
Vì con người là chủ thể của lịch sử nên con người cần được tôn trọng, cần phải đảm bảo các quyền chính đág của mình, phải là mục tiêu của mọi tiến bộ xã hội. Chủ Nghĩa Tư bản hiện đại vẫn đang còn sự phát triển. Nhưng theo qui luật tiến hoá của lịch sử, tương lai sẽ thuộc về một xã hội tốt đẹp hơn. Một xã hội không có tình trạng áp bức, bóc lột, một xã hội thống nhất và văn minh với nhân đạo, một xã hội mà trong đó mọi người có cuộc sống tự do, hạnh phúc, và xã hội đó chỉ có thể là XHCN.
Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội
Con người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực lượng đối lập với giới tự nhiên, sự tác động qua lại giữa cái sinh học và cái xã hội tạo thành bản chất của con người. Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận điểm nổi tiếng Luận cương về Phoiơbắc: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”.
Theo luận đề trên thì không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của lịch sử và xã hội. Luận đề đã khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người và giới động vật trước hết là bản chất xã hội và đó cũng là để khắc phục sự thiếu sót của những nhà triết học trước Mác, không thấy được bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, là cái mang tính quy luật. Vì vậy cần phải thấy được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân về cả phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội.
Con người là sản phẩm của giới tự nhiên, song con người không hoàn toàn phụ thuộc vào giới tự nhiên mà đã vươn lên, tách xa thế giới động vật, trở thành con người của xã hội, sáng tạo ra lịch sử. Với vai trò là chủ thể của lịch sử con người phải được tự do, hạnh phúc, phải được phát triển các khả năng của mình. Nhưng không phải lúc nào và ở đâu con người cũng có đủ điều kiện để phát triển toàn diện. Vì vậy, một vấn đề đã và đang đặt ra là các quốc gia nói riêng, nhân loại nói chung, phải coi con người là mục tiêu của sự phát triển của xã hội.
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (CNXH) LÀ SỰ PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN CỦA CON NGƯỜI
Xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.... mọi người có cuộc sống tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân là mục tiêu cao cả của XHCN. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bật là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Chế độ Chủ Nghĩa Xã Hội đã trải qua bước phát triển quanh co, đầy thử thách của lịch sử, nhưng đang vững bước đi lên và đạt nhiều kết quả trong mục tiêu vì sự phát triển toàn diện của con người.
Nước ta là một nước nghèo đang trong giai đoạn quá độ đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Tuy vậy, Đảng và nhà nước luôn coi trọng con người, coi con người là mục tiêu của sự phát triển của xã hội, thể hiện ở các nhiệm vụ phát triển sau:
Đưa đất nước ra khỏi tình trạng đói nghèo, kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.
Thực hiện công bằng trong phân phối, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội.
Bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Phát triển kinh tế phù hợp với các vùng, miền nhiều khó khăn, thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo.
Thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ của nhân dân.
Đẩy mạnh hoạt động của thể dục thể thao, nâng cao thể trạng tầm vóc của con người Việt Nam.
Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, phấn đấu vì sự công bằng xã hội. Trong giáo dục, thực hiện: giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã hội văn minh.
Những mục tiêu trên đang được Đảng và nhân dân ta thực hiện nhằm xây dựng một xã hội: dân giàu nước mạnh ,xã hội công bằng, dân chu, văn minh.
CHƯƠNG 2 PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA (CNH – HĐH) ĐẤT NƯỚC
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TA VỀ NHÂN TỐ CON NGƯỜI
Ngay từ những ngày đầu xây dựng CNXH, Đảng ta đã khẳng định “Con người là vốn quý nhất” và “Muốn xây dựng thành công XHCN thì phải có con người XHCN”.
Đảng ta đã đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hộ, nhằm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, lợi ích riêng và lợi ích chung.
Đại hội lần thứ VII của Đảng: “Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người, trước hết là người lao động”.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng: “Lấy việc phát huy yếu tố con người là nhân tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”.
Đại hội lần thứ IX của Đảng: “Nguồn lực con người – yếu tố cơ bản của sự phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.
Phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm xây dựng và phát huy nguồn lực con người. Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng đã nêu: “Moi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, có ý thức tự cường dân tộc, trách nhiệm cao trong lao đông, có lương tâm nghề nghiệp, có tác phong công nghiệp, có ý thức cộng đồng, tôn trọng nhân nghĩa, có lối sống văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình và cộng đồng xã hội”.
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
Với tầm quan trọng của nhân tố con người như đã đề cập ở trên. Đảng ta đã phát huy nhân tố con người trên cả hai phương diện: con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới đất nước.
Trên phương diện con người là động lực của sự phát triển xã hội
Với nền kinh tế bao cấp đã kìm hãm sự phát triển đất nước. Năm 1986, Đảng ta đã thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, đổi mới cơ chế quản lý hành chính nhà nước từ quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường nên đã phát huy được tính năng động, sáng tạo của mỗi người. Nền kinh tế thị trường đang thúc đẩy sự phát triển của sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tạo ra cơ sở vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng đa dạng và phong phú. Lợi ích cá nhân ngày càng được chú ý, tạo ra cơ hội mới cho đà phát triển cá nhân.
Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nêu ra: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cở sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo. Kết hợp hoài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội” để xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Trên phương diện con người là mục tiêu của sự phát triển xã hội
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Muốn chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình”. Đó chính là mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội hướng tới: giải phóng con người nhằm phát triển mọi tiềm năng, giá trị nhân cách của con người. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng Cộng Sản Việt Nam xác định: “Phát triển con người, với tư cách vừa là động lực, vừa là mục đích của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước”. Đây cũng là mục tiêu nhân văn của nền văn hoá tiên tiến,đậm đà bản sắc dân tộc: “Nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do và toàn diện của con người”.
Con người trong quan niệm của Hồ Chí Minh và của Đảng ta không phải là con người trừu tượng mà là những cá nhân, những tập thể, những tầng lớp người cụ thể. Vì hạnh phúc của mỗi người “dân” của “đồng bào” và của cả dân tộc Việt nam là mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiện nay, trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước để đi lên Chủ Nghĩa Xã hội, mục tiêu xây dựng con người được đặt ra một cách thiết thực và trực tiếp. Vấn đề con người là mục tiêu của sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta là một vấn đề có tính chiến lược. Đại hội của Đảng đã đề ra đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội: Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, đường lối kinh tế của Đảng ta được xác định là đẩy mạnh CNH – HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đưa nước ta thành môt nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất phù hợp theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, phát huy cao nội lực. Đồng thời tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện cơ sở vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường. Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội.
Đây là con đường phát triển bền vững đất nước, con đường phát triển nhắm tới một mục tiêu kép: vừa phát triển kinh tế, vừa phát triển con người và xã hội, vừa phấn đấu để dân giàu, nước mạnh, công bằng xã hội và dân chủ, văn minh.
Lấy phát triển con người làm mục tiêu chiến lược, chúng ta cần chú ý đến những vấn đề sau:
Cần quan tâm đến lợi ích của con người bao gồm lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, trước hết là lợi ích vật chất. Hồ Chí Minh cho rằng: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”.
Cần bảo đảm và phát huy quyền dân chủ của nhân dân trong đời sống xã hội bắt đầu từ cơ sở trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hôi. Đặc biệt phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới CNH – HĐH. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân”.
Cần bảo đảm và thực hiện sự bình đẳng giữa những cá nhân, nhóm cộng đồng về cơ hội phát triển, tạo điều kiện cho mọi người và các nhóm, cộng đồng có điều kiện phát triển ngang nhau, được hưởng lợi ích công bằng phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn cụ thể.
Cần phát huy sức mạnh của nhân dân, của khối đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ Tổ Quốc vì hạnh phúc của nhân dân.
Vai trò của con người trong quá trình CNH – HĐH đất nước
Từ cách tiếp cận mới, Đảng ta chỉ ra vai trò quyết định của con người trong quá trình CNH – HĐH đất nước. Con người không chỉ là trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội với tư cách là mục tiêu mà còn là động lực và là nhân tố bảo đảm cho quá trình CNH – HĐH đất nước thành công.
Nói con người là động lực của sự phát triển là nói tới vai trò của nguồn lực con người bao gồm các yếu tố tri thức, kỹ năng, ý chí, tình cảm, đạo đức…của con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp Hành TW khoá VIII đã chỉ rõ điều đó: “Đẩy mạnh CNH – HĐH”. Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc vì “dân giàu, nước mạnh, công bằng, văn minh là sự nghiệp xây dựng và sáng tạo to lớn của nhân dân ta. Đồng thời là một quá trình cải biến của xã hội sâu sắc, đòi hỏi phát huy khả năng và trí tuệ ở con người Việt Nam".
Để phát triển kinh tế xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã Hội, chúng ta cần rất nhiều nguồn lực như: Nguồn lực khoa học và công nghệ; nguồn lực tài chính; nguồn lực tài nguyên thiên nhiên; nguồn lực lao động…. Trong các nguồn lực trên đều có vai trò của con người, con người với tư cách là nhân tố liên kết tích hợp, tổng hợp các nguồn lực thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Hay có thể nói đó chính là nguồn lực con người tham gia vào quá trình phát triển và đóng vai trò chủ đạo trong quá trình đó.
Yếu tố đầu tiên của nguồn lực con người là tri thức, kỹ năng nghề nghiệp bí quyết hành nghề. Trong thời đại khoa hoc, công nghệ, tin học, con người tiến lên không chỉ bằng sức mạnh cơ bắp mà bằng trí tuệ của mình là chủ yếu. Người lao động có tri thức nghề nghiệp, kỹ năng lao động, có năng lực thích ứngvới sự phát triển của khoa học, công nghệ và sự biến đổi liên tục của nền kinh tế thị trường thì mới bảo đảm cho nền kinh tế phát triển bền vững và ổn định.
Ngày nay, trong nền kinh tế tri thức, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nó sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức là yếu tố quyết định nhất đối với tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất, nâng cao chất lượng sống. Kinh tế tri thức là giai đoạn phát triển mới của lực lượng sản xuất của loài người, từ chỗ chủ yếu sử dung nguồn lực vật chất sang nguồn lực trí tuệ. Tri thức là yếu tố quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất.
Ở nước ta hiện nay đang trong quá trình CNH – HĐH gắn với việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, chuyển đổi cơ cấu sản xuất thì vấn đề vai trò của tri thức, kỹ năng của người lao động được đặt ra. Chẳng hạn, trong nông nghiệp muốn chuyển đổi vật nuôi, cây trồng nào đó ta đều phải dùng đến tri thức. Vai trò con người trong quá trình sản xuất được biểu hiện ở lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật. Nguồn lực con người trong hoạt động kinh tế được thể hiện ở khả năng tổ chức.
Nguồn lực con người trong phát triển kinh tế xã hội còn được thể hiện qua ý chí, tình cảm, đạo đức….CNH – HĐH là quá trình cải biến xã hội sâu sắc ở nước ta đòi hỏi phải có một ý chí lớn, tư tưởng lớn…Cho nên, nó đòi hỏi con người Việt Nam phải quyết tâm vượt qua khó khăn thử thách, chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu để xây dựng đất nước thành công.
Do vậy, khi đề cập quan điểm về vai trò của con người trong quá trình phát triển kinh tế xã hội hiện nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam nhấn mạnh: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm nhân tố cho sự phát triển nhanh và bền vững” ở nước ta.
NHỮNG NHIỆM VỤ CƠ BẢN XÂY DỰNG CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA VÀ HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
Xây dựng con người là mục tiêu của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước nên nó phải là kết quả tổng hợp của tất cả những hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa của chúng ta. Song ở đây, chúng ta chỉ bàn đến những nhiệm vụ cơ bản trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa tác động đến sự hình thành con người trong quá trình CNH – HĐH đất nước, cụ thể như sau:
Xây dựng tư tưởng đạo đức và lối sống
Nghị quyết hội nghị lần thứ V Ban Chấp Hành Trung Ương khóa VIII về xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân ta đã chỉ rõ: “Tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa được coi là những lĩnh vực quan trọng nhất hiện nay cần đặc biệt quan tâm”. Định hướng xây dựng con người, yếu tố tư tưởng, đạo đức lối sống là yếu tố cơ bản nhất trong phẩm chất tinh thần của con người Việt Nam hiện nay. Trong đó, “Hệ tư tưởng là cốt lõi của văn hóa, là định hướng cơ bản cho đời sống tinh thần xã hội”. Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam đó là tư tưởng: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ Nghĩa Xã Hội dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa cộng đồng và tự nhiên. Do vậy, nhiệm vụ đặt ra là:
Cần nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh nước ta trong giai đoạn hiện nay và trước những biến đổi sâu rộng của thời đại mới. Tuyên truyền giáo dục cho nhân dân hiểu biết đầy đủ sâu sắc chủ nghĩa Mác-Lênin, củng cố lòng tin của nhân dân va tư tưởng Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
Khắc phục những biểu hiện dao động, hoài nghi về con đường đi lên CNXH; Phủ nhận những thành quả của CNXH hiện thực trên thế giới; Phủ nhận con đường đi lên CNXH ở nước ta; Phủ nhận lịch sử Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự mơ hồ, bàn quan mất cảnh giác trước những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ chế độ ta của các thế lực thù địch. Đồng thời đấu tranh phê phán chống lại những tư tưởng phản động, chống phá cách mạng nước ta và sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Xây dựng tinh thần yêu nước có ý chí xây dựng đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Biến tinh thần đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây thành tinh thần phục hưng đất nước trong thời kỳ CNH – HĐH đất nước hiện nay. Quyết tâm xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam XHCN, vì hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc và của mỗi con người.
Xây dựng đạo đức và lối sống mới phấn đấu vì lợi ích con người với tư cách là mỗi cá nhân và cả cộng đồng, gắn lợi ích của cá nhân với lợi ích của cộng đồng, ở từng cơ sở, từng địa phương và trong cả nước. Hình thành lối sống mới, lối sống văn minh tác phong công nghiệp, trật tự kỷ cương và trách nhiệm. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đẹp đẽ và “những thuần phong mỹ tục” của dân tộc, của từng địa phương. Phê phán lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền hay quan liêu, cửa quyền, cục bộ mà ở nhiều địa phương đã trở thành hiện tượng nổi cộm trong đời sống xã hội hiện nay.
Cần nêu gương người tốt, việc tốt những cá nhân đơn vị, tập thể tiêu biểu có những phẩm chất tốt đẹp của con ngườiViệt Nam hiện nay. Cần phát huy sức mạnh của dư luận và sức mạnh của luật pháp để lên án và trừng phạt thích đáng những kẻ cố tình vi phạm pháp luật, quấy rối mất trật tự, an toàn xã hội, những kẻ gây nên những tội ác, gieo rắc những tư tưởng xấu hay những tệ nạn xã hội….Công tác tư tưởng phải tạo ra sự nhất trí về tinh thần, sự đoàn kết dân tôc, phấn đấu cho sự nghiệp CNH – HĐH đất nước và hình thành những con người hiện đại, con người Việt Nam với những phẩm chất mà Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nêu ra.
Phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo
Để thực hiên chiến dịch con người và nguồn nhân lực, nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ CNH – HĐH đất nước cần tạo sự chuyển hướng căn bản , toàn diện về giáo dục và đào tạo. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020 của Đảng đã xác định nhiệm vụ phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo như sau:
Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo hèn. Đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên vì khoa học và công nghệ. Xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hóa.
Nhà kinh doanh, nhà quản lý phải có chính sách sử dụng lao động và nhân tài phải tận dụng mọi nhân lực, phát huy mọi tài năng của các tập thể và cá nhân phục vụ sự nghiệp xây dụng và bảo vệ đất nước.
Phát triển giáo dục mầm non, củng cố vững chắc kết quả xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, tiến hành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước, phần lớn thanh thiếu niên trong độ tuổi ở thành thị và vùng nông thôn, đồng bằng được học hết trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp hoặc đào tạo nghề. Tạo mọi điều kiện cho mọi người ở mọi lứa tuổi được học tập thường xuyên suốt đời .
Điều chỉnh hợp lý cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng trong hệ thống giáo dục và đào tạo phù hợp với yêu cầu học tập của nhân dân, yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và các mục tiêu của chiến lược. Chú trọng giáo dục hướng nghiệp thiết thực trong trường phổ thông. Mở rộng đào tạo công nhân, kỹ thuật viên và nhân viên nghiệp vụ theo nhiều trình độ. Phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo đại học, sau đại học, tập trung xây dựng một số trường đại học trọng điểm quốc gia mang tầm khu vực, tiến tới đạt trình độ quốc tế. Phát triển giáo dục thường xuyên và đào tạo từ xa. Nhà nước dành ngân sách đưa người giỏi đi đào tạo ở các nước phát triển, khuyến khích tạo thuận lợi cho việc học tập và nghiên cứu nước ngoài. Coi trọng đào tạo đội ngũ công nhân tay nghề cao, có kỹ thuật thực hành và nhà kinh doanh giỏi. Ưu tiên đào tạo nhân lực phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, miền núi, xuất khẩu lao động, một số nghành mũi nhọn. Phát triển và nâng cao chất lượng các trường dân tộc nội trú, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số.
Khẩn trương điều chỉnh và đưa vào sử dụng ổn định trong cả nước chương trình đào tạo đại học và sách giáo khoa phổ thông phù hợp với yêu cầu phát triển mới. Ngoài tiếng phổ thông, các dân tộc có chữ viết riêng được khuyến khích học chữ dân tộc. Đổi mới chương trình đào tạo đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề theo hướng thiết thực, hiện đại. Chú trọng trang bị và năng cao kiến thức tin họ, ngoại ngữ cho học sinh, sinh viên.
Đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực đào tào của người học, coi trọng thực hành thực nghiệm, ngoại khóa làm chủ kiến thức tránh nhồi nhét, học vẹt, học chạy. Đổi mới và thực hiện nghiêm chỉnh chế độ thi cử. Đề cao tính tự chủ của trường học. Phát triển đội ngũ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CON NGUOI CNH.doc
- trang bia tl triet.doc