Tiểu luận Vấn đề đô la hoá ở Việt Nam hiện nay

Mục lục

1. Tổng quan về đô la hóa 3

1.1. Khái niệm: 3

1.2. Phân loại: 3

1.3. Nguyên nhân của hiện tượng “Đô la hóa” 4

1.4. Tác động của đô la hóa 5

2. Thực trạng đô la hóa ở Việt Nam hiện nay 10

2.1. Đô la hóa thay thế tài sản 10

2.2. Đô la hóa thanh toán và niêm yết 15

3. Giải pháp hạn chế đô la hóa ở Việt Nam 18

4. Kết luận 18

 

 

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3393 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vấn đề đô la hoá ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t cái van giảm áp lực đối với nền kinh tế: Giảm áp lực khi xảy ra lạm phát: Khi nền kinh tế của một quốc gia rơi vào tình trạng lạm phát cao, bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định, nếu trong hệ thống ngân hàng có một lượng lớn đô la Mỹ thì sẽ có một công cụ tự bảo vệ, chống lại lạm phát và là phương tiện thanh toán trên thị trường phi chính thức. Điều này được lí giải rất rõ ở các nước đô la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, họ sẽ duy trì được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước này ngân hàng trung ương sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát, đồng thời ngân sách nhà nước sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do vậy, các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn. Ta có thể nhận thấy tác động tích cực này tại một số nước tiến hành đô la hoá toàn phần như: Panama, Ecuador, Ei Salvador… Từ 1904, sau khi tách khỏi Colombia, Panama đã dùng đồng đô la, việc này đã có ảnh hưởng rất tốt đến nền kinh tế của Panama như trong suốt những năm 1990 lạm phát hầu như không vượt quá 1% một năm. Đối với Ecuador, từ năm 2000, nước này đã thực hiện đô la hoá chính thức, đây là phương cách cuối cùng khi nước này cố vượt qua một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng, với một hệ thống ngân hàng suy sụp, đồng nội tệ (đồng sucre) mất giá, và sự chống đối của người dân bản xứ. Trước khi đổi hệ thống tiền sang đôla, Ecuador đã thử tiến hành nhiều biện pháp hối đoái khác nhau như tỉ giá cố định, chính sách ghìm tỉ giá. Tất cả các biện pháp này đều không có hiệu quả và đến nay quyết định đô la hoá vẫn được coi là hợp lý đối với Ecuador. Hiện tượng đô la hóa dẫn đến tỷ giá gần như cố định và do đó giá cả sẽ ổn định hơn. Nguồn cung USD đầy đủ trong nền kinh tế cũng đã góp phần ổn định tỷ giá đồng bạc Việt Nam. Tuy nhiên trong một số trường hợp nó còn đi quá đà trong việc nâng cao tỷ giá của đồng bạc và cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam. Giảm áp lực đối với nhu cầu về vốn của DN: tại Việt Nam, đồng USD đã trở thành một thành phần không thể thiếu trong khối tiền tệ quốc gia. Chính sách tiền tệ thắt chặt của chúng ta trong thời gian dài nhằm đối phó với nguy cơ lạm phát đã không tác động quá tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng kinh tế chính là nhờ sự hiện diện của đồng đô la. Khi tiến hành chính sách tiền tệ thắt chặt thì lãi suất tăng làm giảm khả năng vay vốn của doanh nghiệp đối với đồng nội tệ, để có vốn kinh doanh, DN tìm đến đồng ngoại tệ. Nhờ nó, các hoạt động kinh tế trong DN, đặc biệt là khu vực tư vẫn tiếp tục tăng trưởng. Đô la hoá giúp tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng hội nhập quốc tế: Với một lượng lớn ngoại tệ thu được từ tiền gửi tại ngân hàng, các ngân hàng sẽ có điều kiện cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế việc phải vay nợ nước ngoài. Đồng thời, nguồn ngoại tệ di chuyển trong nội bộ hệ thống ngân hàng trong nước tạo điều kiện thuân lợi cho ngân hàng trung ương thực hiện chức năng kiểm soát của mình một cách dễ dàng. Khi huy động được một lượng lớn tiền gửi ngoại tệ, các ngân hàng sẽ có điều kiện cho vay bằng ngoại tệ đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các DN xuất nhập khẩu, mở rộng các hoạt động đối ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị trường quốc tế. Điều này cũng khá quan trọng đối với Việt Nam khi mà hệ thống ngân hàng của chúng ta hầu hết chỉ có các hoạt động tín dụng với các dịch vụ thanh toán, bảo lãnh và bao thanh toán cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, hơn nữa VND không phải là một đồng tiền có vị thế cao so với các đồng ngoại tệ mạnh khác. Với lượng USD sẵn có trong hệ thống, các ngân hàng có thể dễ dàng và nhanh chóng thực hiện các hoạt động thanh toán quốc tế, tăng khả năng thu hút, mở rộng được phạm vi hoạt động của mình ra thị trường tài chính quốc tế. Hạ thấp chi phí giao dịch: Điều này đặc biệt thấy rõ ở những nước đô la hoá chính thức, Xét với một nước đô la hóa không chính thức như Việt Nam, khi một doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam muốn thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu ở nước ngoài bằng USD, doanh nghiệp nhập khẩu cần đến ngân hàng chuyển đổi nội tệ VND của mình ra ngoại tệ để thanh toán cho đối tác. Hiển nhiên, doanh nghiệp phải bán nội tệ với tỉ giá Dm VND/USD. Nhưng khi doanh nghiệp này nhận được tiền thanh toán bằng USD từ một đối tác nhập khầu khác ở nước ngoài, nếu có nhu cầu dùng đồng nội tệ, anh ta sẽ phải tới ngân hàng và mua nội tệ với tỉ giá Db VND/USD. Trong khi Dm bao giờ cũng nhỏ hơn Db nên doanh nghiệp sẽ phải chịu một khoản chi phí chênh lệch nhất định khi chuyển đổi giữa các đồng tiền. Xét đối với một nước đô la hóa chính thức thì không còn những giao dịch chuyển đổi tiền tệ như trên nữa, các chi phí như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh. Thúc đẩy thương mại và đầu tư: Các nước thực hiện đô la hoá chính thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền kinh tế đô la hoá có thể được hưởng chênh lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài thấp hơn, thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư. Đối với Việt Nam, cán cân thanh toán quốc tế thường sử dụng đồng USD làm đơn vị tính giá trị. Do đó, rủi ro tỷ giá sẽ dẫn tới rủi ro cho cán cân thanh toán, việc mua bán ngoại tệ sẽ chịu sự chi phối, kiểm soát của Ngân hàng Trung ương. Nhưng đối với các quốc gia thực hiện chính sách đô la hoá chính thức thì các rủi ro cũng như sự gò bó trên sẽ được loại bỏ. Bởi lẽ, mọi giao dịch trong nền kinh tế kể cả trong nội địa hay giao thương quốc tế đều sử dụng đồng đô la làm phương tiện thanh toán, trao đổi và cất trữ. Từ đó sẽ thúc đẩy các nhà đầu tư trong nước hướng ra thị trường quốc tế cũng như thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường trong nước, bởi họ có tâm lí yên tâm hơn khi sử dụng đồng tiền mạnh, có vị thế trên thế giới... Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng làm tăng nguồn cung ngoại tệ - nguồn lực quan trọng giúp Việt Nam giải quyết được phần lớn các nhu cầu về vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng. Đây là tác động vô cùng quan trọng đối với Việt Nam, nhất là trong xu thế chung toàn cầu hoá và bối cảnh Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phí chính thức: Tỷ giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để chuyển các hoạt động từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường chính thức (thị trường hợp pháp). Khi đó thị trường chính thức sẽ mở rộng hoạt động hơn so với các hoạt động mà trước kia phải thực hiện trên thị trường phi chính thức. Điều này giúp cho thị trường hoạt động hiệu quả, nâng cao tính minh bạch và công bằng của thị trường. Ở Việt Nam, kinh doanh ngoại hối mới chỉ thực hiện trên thị trường phi chính thức (“chợ đen”). Nếu việc đô la hoá gia tăng sẽ giúp thị trường chợ đen tiến sát hơn cùng thị trường chính thức, giảm bớt các hoạt động kinh tế ngầm, bất hợp pháp, giúp nền kinh tế có được sự phát triển ổn định, hiệu quả bền vững. Chẳng hạn. hoạt động kinh doanh ngoại tệ kiếm lời nhờ chênh lệch tỉ giá sẽ không còn nữa, giảm thiều được nguy cơ đầu cơ, tích trữ, gây nên nhiều cú sốc ảo cho giá cả thị trường. Ngoài ra, có thể thấy các tác động tích cực khác mà đô la hoá đem lại cho nền kinh tế, đặc biệt là sự giao lưu, hội nhập của nền kinh tế Việt Nam với thế giới. Hiện tượng đô-la hoá đồng nghĩa với việc USD được sử dụng rộng rãi, chấp nhận tại nhiều nơi…đó là một trong những điểm hấp dẫn du khách nước ngoài tới Việt Nam nhiều hơn. Họ có thể đem theo đồng USD tới Việt Nam để chi tiêu mà không phải chuyển đổi tiền tệ. Có thể kể tới việc thu hút nhiều hơn nguồn kiều hối chảy về Việt Nam. Hay có thể làm hài lòng các đối tác trong các hợp đồng kinh doanh bởi sự chấp nhận thanh toán bằng ngoại tệ…tạo sự hấp dẫn hơn cho các doanh nghiệp Việt. Tất cả đều góp phần thúc đẩy hoạt động giao thương, đầu tư trong nền kinh tế. Tác động tiêu cực Ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô, làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ: Đô la hóa gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó dẫn đến việc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xác và kịp thời. Ở trong các nước đô la hoá không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định. Trong trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ thì dễ dẫn đến hoạt động đầu cơ tỷ giá. Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng. Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm cho người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay, đặc biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô la hoá cũng không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô la Mỹ. Số lượng USD được gửi trong hệ thống ngân hàng hiện nay ngày càng tăng. Tuy nhiên ngoài số tiền dự trữ mà các doanh nghiệp, cá nhân gửi tại các ngân hàng thì vẫn còn một lượng tiền rất lớn tồn tại ngoài ngân hàng. Có thể kể đến một lượng lớn kiều hối gửi về không thông qua dịch vụ chuyển tiền của ngân hàng. Như vậy việc xác định tỷ lệ đô la hóa là rất khó. Chính phủ muốn giảm lượng USD lưu thông nhưng những người sở hữu USD lại không muốn giảm thì chính phủ cũng không thể kiểm soát nổi. Do đó việc đưa ra các chính sách tiền tệ trở nên kém chính xác. Một câu hỏi đặt ra là: Các ngân hàng sẽ làm gì với những đồng USD đang được gửi tại ngân hàng mình. Đó là họ sẽ mang ra nước ngoài gửi để hưởng lãi suất, như vậy số USD này sẽ không được đầu tư trong nước. Nhưng đến thời gian lãi suất tiền gửi USD ở nước ngoài giảm thì các ngân hàng này lại rút về và cho vay trong nước. Và các doanh nghiệp lại là khách hàng quen thuộc trong các giao dịch bằng USD. Tuy nhiên nếu VND giảm giá thì họ sẽ có khả năng không thanh toán được khoản vay từ ngân hàng. Bởi doanh thu mà họ thu được là bằng VND mà lại đi trả nợ bằng USD => gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc hoàn trả nợ và điều này sẽ ảnh hưởng tới hệ thống ngân hàng. Mặt khác, khi kì vọng USD tăng giá ngày càng cao thì việc găm giữ USD chờ tăng giá càng trở nên phổ biến. Các doanh nghiệp cần ngoại tệ đến ngân hàng cũng bị từ chối, ra chợ đen thì giá lại rất cao, đứng trước tình trạng khan hiếm USD, chính phủ buộc phải bơm USD để giữ ổn định, đáp ứng đủ nhu cầu ngoại tệ cho hoạt động điều tiết kinh tế nhưng số lượng thì khó có thể tính toán được. Đô la hóa làm cho VND nhạy cảm hơn với những thay đổi từ bên ngoài, do đó những cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả. Đô la hóa tác động đến việc hoạch đinh và thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hóa làm cầu tiền trong nước không ổn định do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang USD, làm cho cầu USD tăng, gây sức ép lên tỷ giá. Khi các đối thủ cạnh tranh trên trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền, nghĩa là các giá hàng hóa ở các quốc gia phá giá đồng tiền trở nên rẻ hơn so với ở các quốc gia bị đô la hoá, do vậy mà các nước đô la hóa sẽ có xu hướng nhập khẩu nhiều hơn và không còn khả năng bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Ngân hàng không có sức đề kháng đối với sự biến động của tỷ giá, rất dễ dẫn đến sự khủng hoảng của hệ thống ngân hàng. Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng Bản thân NHTW không có khả năng phát hành đồng ngoại tệ, do đó khi hệ thống ngân hàng gặp bất ổn về khả năng thanh toán ngoại tệ trong trường hợp người gửi ồ ạt rút tiền gửi ngoại tệ, mặt khác, dự trữ ngoại tệ của NHTW không đủ để đáp ứng nhu cầu vay của NHTM trong khi cũng không thể in đồng đô la nên NHTW không thể tiếp tục cho vay đối với NHTM cũng đồng nghĩa với việc mất đi chức năng là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ: Mức độ phụ thuộc tùy thuộc vào tỷ lệ đô la hóa, đô la hóa càng nhiều thì phụ thuộc càng nặng nề. Đối với các nước đô la hóa chính thức thì chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền sẽ do Mỹ quyết định. Đối với các nước khác trong đó có Việt Nam thì các biến động của nền kinh tế Mỹ như thay đổi lãi suất, tỷ lệ thất nghiệp, các quyết định của FED… đều ảnh hưởng đến thị trường vốn và thị trường tiền tệ trong nước. Do đó, chính phủ cũng phải căn cứ vào chính sách của Mỹ để ra chính sách trong nước cho phù hợp. Đô-la hoá tăng nguy cơ gây ra một cuộc khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng: Hệ thống ngân hàng khi đó sẽ gặp rủi ro cao về thanh khoản. Rủi ro này phát sinh bởi sự khác biệt về đồng tiền huy động và cho vay. Với một lượng ngoại tệ lớn huy động được từ tiền gửi bằng ngoại tệ trong dân cư, các ngân hàng sẽ cho vay một phần đối với các đối tượng trong nước. Khi đó, rủi ro tiền tệ đã được chuyển sang cho người đi vay không có biện pháp phòng chống rủi ro này, đồng thời giữ lại rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Khi bản tệ phá giá, các con nợ của ngân hàng dễ mất khả năng thanh toán khi mà các khoản thu của họ phần lớn bằng nội tệ, trong khi họ đi vay bằng đồng ngoại tệ, những khoản vay này “phình to” nếu tính theo đồng nội tệ đang bị mất giá. Đối với người gửi ngoại tệ vào ngân hàng, nếu họ có tâm lí e ngại về những khoản nợ xấu như trên thì sẽ có hiện tượng ồ ạt rút tiền khỏi ngân hàng . Lúc này các ngân hàng phải có lượng tài sản bằng ngoại tệ đủ lớn để đáp ứng nhu cầu dòng ngoại tệ rút ra ồ ạt, hoặc phải đi vay ngoại tệ từ NHTW và các ngân hàng khác. Nhưng nếu hiện tượng này mang tính hệ thống thì các nguồn huy động bù đắp thanh khoản này sẽ rất có hạn. kết cục là sự sụp đổ của cả hệ thống ngân hàng. Hệ thông ngân hàng sẽ sụp đổ nếu như không có biện pháp dự trữ USD thích hợp. Như vậy áp lực lại đặt lên ngân hàng trung ương bởi nó không có chức năng phát hành đô la Mỹ. Thực trạng đô la hóa ở Việt Nam hiện nay Đô la hóa thay thế tài sản Việc đánh giá mức độ đô la hóa thay thế tài sản được biểu hiện qua chỉ số FCD/M2. Giai đoạn trước đổi mới (trước 1988) Việt Nam thực hiện cơ chế quản lý tập trung bao cấp. Nhà nước nắm độc quyền về ngoại thương, ngoại hối. Quy mô nền kinh tế nhỏ, kinh tế đối ngoại kém phát triển, hệ thống ngân hàng còn sơ khai. Điều lệ quản lý ngoại hối ban hành kèm theo Nghị định số 102/CP ngày 06 tháng 7 năm 1963 của Chính phủ nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân sở hữu, sử dụng ngoại tệ trong nước (kể cả việc cất trữ, mang theo người), mọi giao dịch trong nước phải thực hiện bằng VND. Về cuối giai đoạn xuất hiện dấu hiệu của khủng hoảng kinh tế, VND suy yếu mạnh, lạm phát tới 3 con số và liên tục có các đợt tăng giá vàng. Trong dân cư xuất hiện việc mua vàng, ngoại tệ để tích trữ, đầu cơ giá và sử dụng làm phương tiện thanh toán. Tuy nhiên mức độ ĐLH là không đáng kể do độ mở của nền kinh tế còn rất nhỏ. Giai đoạn bắt đầu mở cửa đến trước khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực (1988 - 1997) Biểu đồ tỷ lệ tiền gửi bằng đồng USD trên tổng phương tiện thanh toán (FCD/M2) Nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đôla Mỹ trong giao dịch, buôn bán…bắt đầu được chú ý từ năm 1988 khi các ngân hàng được phép nhận tiền gửi bằng đồng đô la. Năm 1991, tỷ lệ FCD/M2 lên đến 41,2%, việc thanh toán bằng ngoại tệ hợp pháp và bất hợp pháp tương đối nhiều, việc định giá bằng ngoại tệ và vàng (kể cả đối với các giao dịch nhỏ) trong dân cư khá phổ biến. Nguyên nhân do ảnh hưởng của lạm phát phi mã giai đoạn trước (đến năm 1991 lạm phát vẫn còn tới 67,5 %). Người dân ưa thích sử dụng ngoại tệ còn do lợi ích thực tế của việc sử dụng trong cất trữ, vận chuyển, thanh toán vì mệnh giá VND quá nhỏ, hệ thống thanh toán lại kém phát triển. Đến giai đoạn 1993 -1996, khi Việt Nam đang từng bước chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước dần xoá bỏ chế độ độc quyền ngoại thương, đồng thời ban hành nhiều chính sách để thúc đẩy kinh tế phát triển và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Kinh tế tăng trưởng cao và khá ổn định, trung bình gần 8%/năm, lạm phát được kiểm soát ở mức trên dưới 10%, kinh tế đối ngoại phát triển mạnh ở cả xuất nhập khẩu, đầu tư và vay nợ nước ngoài. Cùng với thắng lợi trong việc kiềm chế lạm phát, sự phát triển của hệ thống ngân hàng hai cấp đã khôi phục dần vị thế của VND. Hình thành Trung tâm giao dịch ngoại tệ và sau đó là Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Hệ thống thanh toán bắt đầu phát triển, VND được hỗ trợ bởi các ngân phiếu thanh toán có mệnh giá lớn làm cho việc sử dụng thuận tiện hơn. Trong điều kiện tỷ giá tương đối ổn định, lạm phát đã được kiềm chế nên mức lãi suất cao làm cho VND trở nên khá hấp dẫn, việc nắm giữ VND đã tỏ ra có lợi hơn. Và NHTW cũng cố gắng giảm mức độ đô la hoá bằng việc giảm lãi suất tiền gửi USD, tăng lãi suất tiền gửi VND nên mức độ đô la hóa giảm mạnh, tỷ lệ FCD/M2 năm 1997 xấp xỉ 20%. Đồng thời, Chính phủ cũng bắt đầu hạn chế việc thanh toán bằng ngoại tệ, xoá bỏ các điểm bán hàng thu ngoại tệ, tăng cường các bàn đổi ngoại tệ. Tuy nhiên, thị trường ngoại tệ tự do, yết giá và thanh toán ngoại tệ trong dân cư vẫn chưa kiểm soát được do thói quen và các hoạt động kinh tế ngầm, do sự bất tiện khi sử dụng VND vẫn chưa được giải quyết cơ bản. Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng, các hoạt động ngoại hối trái phép tồn tại chủ yếu là do chưa được xử lý một cách kiên quyết. Nguyên nhân là thiếu chế tài, thiếu sự phối hợp của các cơ quan quản lý. Giai đoạn từ khủng hoảng tài chính- tiền tệ khu vực đến nay : Từ 1998 đến 2007 : Do khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, mức tăng GDP của Việt Nam giảm mạnh, trung bình chỉ còn 6%/năm. Sau một thời gian giữ ổn định ở mức tương đối thấp khoảng trên 20%, tỷ lệ FCD/M2 lại có dấu hiệu tăng lên và đến năm 2001 là xấp xỉ 30%. Nguyên nhân : + Trong suốt một thời gian dài, kinh tế Mỹ tăng trưởng cao và ổn định, lãi suất đô la Mỹ trên thị trường tiền tệ quốc tế tăng lên rất cao, đỉnh điểm giữa năm 2000 lên tới 6,5%/năm. Vì thế các ngân hàng thương mại trong nước tăng lãi suất huy động vốn đô la lên tương ứng, người dân tăng cường gửi ngoại tệ. + Tâm lý đô la hóa trong giai đoạn này cũng một phần do tác động của khủng hoảng và kỳ vọng của thị trường vào sự phá giá của VND. Cuối năm 2000, nhiều ngân hàng thương mại đồng loạt tăng lãi suất huy động VND và hạ lãi suất huy động USD. Động thái này giúp đưa tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ xuống mức 21.3% vào cuối năm 2003. Tuy nhiên, đến năm 2004, khi lạm phát 9.5% làm lo ngại về sự mất giá của tiền đồng càng gia tăng và lãi suất USD trên thế giới tăng, chênh lệch lãi suất giữa VND và ngoại tệ trong nước giảm càng làm người tiết kiệm muốn chuyển đổi tiền đồng sang đô la để gửi ngân hàng, vì vậy tỷ lệ FCD/M2 đang có biểu hiện gia tăng, đạt hơn 23%. Những năm tiếp theo, tỷ lệ này có xu hướng giảm chậm nhưng vẫn ở mức cao, khoảng 20 – 25%. Năm 2007, tỷ lệ này dưới 20%. Giai đoạn từ 2008- nay 2008 khủng hoảng kinh tế toàn thế giới tình trạng lạm phát tăng cao (29,8%) tâm lý lo ngại đồng nội tệ mất giá tăng lên làm tình trạng đôla hóa ở nước ta có xu hướng gia tăng trở lại năm 2008 tỷ này là xấp xỉ 20% và không có sự thay đổi nhiều cho đến hết quý I/2010. Lượng tiền gửi bằng ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng và cơ sở tiền tệ của Việt Nam thời gian qua Theo biểu đồ, FCD tăng rất mạnh và liên tục trong 3 năm 2008 – 2010. Cuối năm 2007 là 221.669 nghìn tỷ đồng, đến hết quý 1/2010 đã là 350.229 nghìn tỷ. Điều này cho thấy mức độ đô la hóa không những không giảm mà còn có xu hướng gia tăng. Một mặt là do tâm lý nắm giữ ngoại tệ của người dân vẫn còn phổ biến, mặt khác do tỷ lệ lãi suất tiền gửi bằng USD ở Việt Nam rất cao so với thế giới (dao động ở mức 4-5%, trong khi đó, tỷ lệ trung bình trên thị trường thế giới chỉ là 0,3-0,4%, tức là cao gấp 10 lần) nên thu hút được một lượng tiền lớn từ nước ngoài gửi về. Điều này cho thấy khả năng huy động nguốn vốn ngoại tệ nhàn rỗi trong dân là khá cao, sẽ kích thích đầu tư cho phát triển kinh tế. Tuy vậy, nhìn từ góc độ đô la hóa, con số này cũng rất đáng quan tâm. Từ tháng 11/2009 đến tháng 2/2011, chỉ trong vòng 14 tháng, NHNN đã ra quyết định 4 lần điều chỉnh tỷ giá, trong đó có những đợt điều chỉnh được coi là đợt phá giá tiền tệ và đồng nội tệ hiện nay đã giảm giá khoảng 20% so với thời điểm trước 26/11/2009, cụ thể: 26/11/2009 tỷ giá điều chỉnh tăng 5,4% từ 17.034 đồng lên 17.961 đồng 10/2/2010 tỷ giá điều chỉnh tăng 3,2% từ 17.961 đồng lên 18.544 đồng 18/08/2010 tỷ giá điều chỉnh tăng 2,09% từ 18.544 đồng lên 18.932 đồng 11/02/2011 tỷ giá điều chỉnh tăng 9,3% từ 18.932 đồng lên 20.963 đồng Đợt điều chỉnh ngày 11/2/2011 được lãnh đạo NHNN đánh giá là một trong những biện pháp nhằm thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 9/1/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội. Việc điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên mức 20.693 VND/USD và thu hẹp biên độ giao dịch từ +3% xuống +1%, đã phản ánh sát hơn cung cầu trên thị trường, đảm bảo tăng tính thanh khoản, góp phần kiềm chế nhập siêu và hỗ trợ cho việc thực thi chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, kể từ khi NHTW tuyên bố phá giá tiền đồng bằng cách nâng tỷ giá tham chiếu cũ là 18.932 đồng ăn 1 đô la lên mức tham chiếu mới là 20.693 đồng ăn một đô la thì tỷ giá trên thị trường tự do đã ngay lập tức được điều chỉnh từ mức khoảng 21.000 đồng/1USD (vào ngày 11 tháng 2) lên mức khoảng 22.000 đồng/1USD (vào ngày 17 tháng 2). Đến ngày 27/5/2011, tỷ giá giảm mạnh nhất từ 11/02 xuống còn 20.653 đồng. Đến 11/10/2011 tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng lại tăng lên 20.668 đồng, các ngân hàng niêm yết giá trần 20.875 đồng. Trên thị trường tự do lại đang diễn biến theo chiều ngược lại với giá mua USD đang có xu hướng giảm dần, tại các cửa hàng trên phố Hà Trung – Hà Nội, giá USD được công bố ở mức 21.220 - 21.280 đồng/USD, giảm 70 đồng so với chiều 10/10. Việc phá giá tiền tệ nhằm giảm thâm hụt cán cân thương mại và tình trạng lạm phát tăng cao nhưng mặt trái của nó được thể hiện nay trên thị trường tự do, là bằng chứng giúp thị trường khẳng định rõ hơn xu thế đi xuống tất yếu của tiền đồng, người dân càng có tâm lý nắm giữ đô la làm tài sản với kì vọng tiếp tục có những đợt phá giá nội tệ. Nguyên nhân: + Tốc độ tăng cung ứng tiền khá cao, mức dư nợ tín dụng tăng nhiều hơn mức tăng huy động vốn (năm 2009 tăng 37,73% trong khi đó mức huy động vốn chỉ tăng 28,7%). + Các ngân hàng thương mại đua nhau tăng lãi suất để hấp dẫn người gửi tiền; khi lãi suất tăng cũng có nghĩa là giá trị VND giảm. Điều này giải thích tại sao trên thực tế ta thấy rằng lãi suất tiền gửi VND cao hơn USD. Với mức chênh lệch lãi suất đáng kể đó thì gửi tiết kiệm bằng VND sẽ cho ta mức lãi tiết kiệm cao hơn bất chấp sự chênh lệch tỷ giá. Nhưng người dân vẫn có thói quen tích trữ USD hơn là VND. +Lãi suất tiền gửi USD của Việt Nam cũng ở mức rất cao so, khoảng từ 4-5%, cao gấp 10 lần tỷ lệ trung bình của thế giới, do đó cũng thu hút rất nhiều ngoại tệ từ nước ngoài đổ về, gửi vào hệ thống ngân hàng để kiếm lời. Đô la hóa thanh toán và niêm yết Như ở trên đã thấy, khối lượng FCD tăng liên tục qua các năm và có xu hướng tăng mạnh trong thời gian gần đây. Các ngân hàng thu hút được một lượng ngoại tệ lớn như thế, tất nhiên họ phải đem đầu tư để sinh lời. Họ thường có 2 lựa chọn. Thứ nhất là đem gửi ra các ngân hàng nước ngoài, những nước có lãi suất tiền gửi bằng đồng USD trong nước để lấy phần lãi suất chênh lệch hoặc thực hiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ quốc tế. Thứ hai là cho các doanh nghiệp trong nước vay. Phương án thứ nhất, các Ngân hàng phải đối mặt với rủi ro tỉ giá rất lớn khi kinh doanh ngoại tệ nhất là trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang trong giai đoạn phục hồi sau khủng hoảng, rất không ổn định, giá USD biến đổi thất thường không thể lường trước được, điển hình là việc Agribank có giai đoạn đã từng lỗ hàng chục triệu USD do kinh doanh ngoại tệ (quý 4/2004), còn khi gửi tiền ở các ngân hàng nước ngoài để hưởng chênh lệch lãi suất thì do mức

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVấn đề đô la hoá ở Việt Nam hiện nay và một số giải pháp để hạn chế tình trạng trên.doc
Tài liệu liên quan