Tăng trưởng kinh tế cao và khá ổn định của Việt nam trong những năm 90 và năm 2006, 2007, đầu năm 2008 là những tiền đề quan trọng để nhà nước tăng nguồn chi ngân sách cho việc giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó có tình trạng đói nghèo. Tuy nhiên, trên thực tế sự phân phối lợi ích tăng trưởng trong các nhóm và tầng lớp dân cư lại rất khác nhau, mức độ chênh lệch này cho thấy nhóm người giàu sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ kết quả tăng trưởng, ngược lại nhóm người nghèo trong xã hội thường chịu nhiều thiệt thòi và có thu nhập bấp bênh. Việt nam đang trong thời kỳ mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới, thời cơ và thách thứ luôn đan xen và đấu tranh cùng phát triển, để tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả, ổn định buộc chúng ta cần phải có chiến lược, giải pháp đối với các vấn đề xã hội và môi trường nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững trong tương lai. Trong đó cần có giải pháp để đẩy lùi khoảng cách chênh lệch giàu nghèo đang ngày một tăng hiện nay.
50 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 14349 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vấn đề đói nghèo ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n dân, sở hữu nhà nước và tập thể đối với tư liệu sản xuất chủ yếu trong một thời gian dài đã làm thui chột động lực sản xuất trong nhân dân.
Việc huy động nguồn lực nông dân quá mức, biện pháp ngăn sông cấm chợ đã làm cắt rời sản xuất với thị trường; sản xuất nông nghiệp đơn điệu, công nghiệp thiếu hiệu quả, thương nghiệp quốc doanh thiếu hàng hoá làm thu nhập của đa số bộ phận bị giảm sút trong khi đó dân số vẫn tăng nhanh.
Lao động dư thừa ở nông thôn không được khuyến khích ra thành thị lao động, không được đào tạo để chuyến sang khu vực công nghiệp, chính sách quản ký bằng hộ khẩu đã dùng biện pháp hành chính ngăn cản người dân di cư, nhập cư vào thành phố.
Việc phân tích các nguyên nhân mang tính lịch sử khách quan trên cho thấy Việt Nam đi lên xây dựng CNXH từ điểm xuất phát thấp, sản xuất chủ yếu dựa vào nông nghiệp và đa số người dân sống ở nông thôn đời sống gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân khách quan là những nguyên nhân đòi hỏi chúng ta cần nhận thức rõ và tìm giải pháp thiết thực hơn nhằm khắc phục và hạn chế tác động của chúng đối với tình hình kinh tế -xã hội nói chung và tình trạng đói nghèo nói riêng.
2. Những nguyên nhân mang tính chủ quan
2.1 Nguồn lực hạn chế và nghèo nàn
Người nghèo thương thiếu nhiều nguồn lực, họ bị rơi vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói và thiếu nguồn lực. Người nghèo có khả năng tiếp tục nghèo vì họ không thể đầu tư vào nguồn vốn nhân lực của họ. Ngược lại, nguồn vốn nhân lực thấp đã cản trở họ thoát khỏi cảnh nghèo đói.
Theo điều tra, hiện có khoảng 79% số người nghèo sống ở nông thôn và một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói là họ không có đất hoặc có quá ít đất để canh tác. Theo kết quả điều tra mức sống dân cư của Tổng cục thống kê năm 1998 (VLSS-1998), tỷ lệ hộ nông dân không có ruộng đất tăng lên và ở mức cao tại miền Đông nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu long. Xu hướng này chưa dừng lại và những điều tra gần đây nhất cho thấy tỷ lệ này còn cao hơn ở một số vùng.
Tại Đồng bằng sông Hồng, tình trạng thiếu đất rất nghiêm trọng dẫn đến nông nhàn và thiếu việc làm gay gắt. Tại vùng ven đô, đất canh tác không tăng lên mà bị thu hẹp do đô thị hóa nhanh chóng và do yếu kém về khâu quy hoạch xây dựng và phát triển đô thị.
Mặt khác, nông nghiệp Việt Nam vẫn chủ yếu được tiến hành bằng công cụ thủ công truyền thống, sử dụng phần lớn là lao động cơ bắp, do đó thiếu cơ hội để thực hiẹn các phương án sản xuất mang lại lợi nhuận cao. Mặc dù nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ tích cực như Khoán 10, Khoán 100, các chính sách về tín dụng, về ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất kinh doanh…nhưng nhìn chung, kết quả thực hiện không khả quan. Nguyên nhân là do đa số người nghèo chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với các dịch vụ sản xuất như khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ động, thực vật; những yếu tố đầu vào của sản xuất như: điện, nước, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, …điều này đã làm tăng chi phí, giảm thu nhập tính trên đơn vị giá trị sản phẩm. Bên cạnh đó, khả năng tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ưu đãi từ nhà nước của người nghèo còn nhiều hạn chế. Thiếu nguồn vốn cho đầu tư cho sản xuất là một trong những nguyên nhân trì hoãn khả năng đổi mới sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ, giống cây trồng vật nuôi mới…Phần lớn người nghèo do không có tài sản thế chấp hoặc không có kế hoạch sản xuất kinh doanh cụ thể hoặc sử dụng các nguồn vốn vay không đúng mục đích vì vậy mà khả năng tiếp cận với các nguồn vốn bị hạn chế và cuối cùng họ nghèo lại càng nghèo hơn. Vòng luẩn quẩn của tình trạng nghèo đói suy cho cùng là do thiếu vốn, thiếu kiến thức sản xuất, thiếu sự định hướng cần thiết từ phía nhà nước và nếu người nghèo không được hỗ trợ những điều kiện này thì họ không thể thoát nghèo. Sự cộng hưởng từ phía nhà nước, cộng đồng và bản thân người là giải pháp hữu hiệu nhất cho vấn đề đói nghèo ở Việt Nam hiện nay.
2.2 Trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định
Những người nghèo là những người có trình độ thấp, ít cơ hội kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng tối thiếu và do đó không có điều kiện để nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát khỏi cảnh nghèo đói. Bên cạnh đó, trình độ học vấn thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái…đến không chỉ thế hệ hiện tại mà còn ảnh hưởng đến thế hệ trong tương lai. Suy dinh dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ sinh là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng đến trường của con em các gia đình nghèo nhất và sẽ làm cho việc thoát nghèo thông qua giáo dục trở lên khó khăn hơn.
Số liệu thống kê về trình độ học vấn của người nghèo cho thấy khoảng 90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều tra mức sống cho thấy, trong số người nghèo tỷ lệ số người chưa bao giờ đi học chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%, trung học cơ sở 37%. Chi phí cho giáo dục đối với người nghèo còn lớn, chất lương giáo dục mà người nghèo được tiếp cận còn hạn chế, gây khó khăn cho họ trong việc vươn lên thoát nghèo. Trình độ học vấn thấp hạn chế khả năng kiếm việc làm trong lĩnh vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao hơn và ổn định hơn.
2.3 Người nghèo không có đủ điều kiện tiếp cận với pháp luật, chưa được bảo về quyền lợi và lợi ích hợp pháp
Người nghèo nói chung đặc biệt là đồng bào dân tộc ít người thường có trình độ học vấn thấp nên không có khả năng tự giải quyết các vấn đề vướng mắc đến cuộc sống của mình khi liên quan đến pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật có cơ chế thực hiện phức tạp, người nghèo khoa nắm bắt; mạng lưới các dịch vụ pháp lý, số lượng các luật gia, luật sư còn hạn chế, chủ yếu tập trung ở các thành phố, thị xã, chi phí dịch vụ pháp lý còn cao.
2.4 Các nguyên nhân về nhân khẩu học
Quy mô hộ gia đình là “mẫu số” quan trọng có ảnh hưởng đến mức thu nhập bình quân của các thành viên trong hộ. Đông con là vừa nguyên nhân vừa là hệ quả của đói nghèo. Tỷ lệ sinh trong các hộ gia đình nghèo còn rất cao. Đông con là đặc điểm của các hộ gia đình nghèo. Năm 1998, số con bình quân trên một phụ nữ của nhóm 20% nghèo nhất là 3.5 con so với mức 2.1 con của nhóm 20% giàu nhất. Quy mô hộ gia đình lớn làm cho tỷ lệ người ăn theo cao.
Nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ sinh cao trong các hộ nghèo chủ yếu là do họ không có kiến thức cũng như điều kiện tiếp cận với các biện pháp sức khoẻ sinh sản.
Thực tế theo điều tra tình trạng nghèo đói của Việt nam cho thấy các hộ nghèo tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đó là những nơi điều kiện tự nhiên không thuận lợi, kinh tế kém phát triển, các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cho người dân còn rất hạn chế…Chính điều này đã làm hạn chế kết quả thực hiện chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo ở nước ta hiện nay.
2.5 Nguy cơ dễ bị tổn thương do ảnh của thiên tai và các rủi ro trong cuộc sống
Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn hàng ngày và những biến động bất thường xảy ra với cá nhân, gia đình hay cộng đồng. Do nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích luỹ kém nên họ họ khó có khả năng chống trọi với những biến cố xảy ra trong cuộc sống như mất mùa, mất việc làm, thiên tai, mất người lao động, mất sức khoẻ…Với khả năng kinh tế mong manh của các hộ gia đình nghèo trong khu vực nông thôn, những đột biến này sẽ tạo ra những bất ổn lớn trong cuộc sống của họ.
Các rủi ro trong sản xuất kinh doanh đối với những người nghèo cũng rất cao, do họ không có trình độ tay nghề và thiếu kinh nghiệm làm ăn. Khả năng đối phó và khắc phục các rủi ro của người nghèo cũng rất kém do nguồn thu nhập hạn hẹp làm cho hộ gia đình mất khả năng khắc phục rủi ro và có thể còn gặp những rủi ro nhiều hơn nữa.
Các phân tích từ cuộc điều tra hộ gia đình 1992/1993 và 1997/1998 cho thấy các hộ gia đình phải chịu nhiều thiên tai có nguy cơ dễ bị lún sâu vào nghèo đói. Do đó việc tìm kiếm các giải pháp giảm nhẹ hậu quả của thiên tai được coi là một phần quan trọng của chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo.
2.6 Bệnh tật và sức khoẻ yếu kém cũng là yếu tố đẩy con người vào tình trạng nghèo đói trầm trọng
Vấn đề bệnh tật và sức khoẻ kém ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chi tiêu của người nghèo, làm họ rơi vào vong luẩn quẩn của đói nghèo. Đây là tình trạng chung đối với tất cả các nước đang và kém phát triển trong quá trình vươn lên hoà nhập với cộng đồng quốc tế nhất là vấn đề nâng cao mức sống của người dân và bảo vệ môi trường sống cho thế hệ tương lai.
Nhìn chung, người nghèo phải gánh chịu hai gánh nặng: một là mất đi thu nhập từ lao động; hai là gánh chịu chi phí cao cho việc khám chữa bệnh, kể cả chi phi trực tiếp và gián tiếp. Do vậy, chi phí chữa bệnh là gánh nặng đối với người nghèo và đẩy họ đến chỗ vay muợn, cầm cố tài sản để có tiền trang trải chi phí, dẫn đến tình trạng càng có ít cơ hội cho người nghèo thoát khỏi vòng đói nghèo. Trong khi đó khả năng tiếp cận với các dịch vụ phòng bệnh (nước sạch, các chương trình y tế…) của người nghèo còn hạn chế càng làm tăng khả năng mắc bệnh của họ.
Tình trạng sức khoẻ của người dân Việt Nam trong thập kỷ qua đã được cải thiện, song tỷ lệ người nghèo mắc các bệnh thông thưòng vẫn còn khá cao. Theo số liệu thống kê điều tra mức sống năm 1998, số người ốm bình quân của nhóm 20% người nghèo là 3.1 ngày/ năm so với khoảng 2.4 ngày/ năm của nhóm 20% giàu nhất. Việc cải thiện điều kiện sức khoẻ cho người nghèo là một trong những yếu tố rất cơ bản để họ thoát nghèo.
2.7 Những tác động của chính sách vĩ mô và các chính sách cải cách (tự do hoá thương mại, cải tạo doanh nghiệp nhà nước…) đến nghèo đói
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta còn chậm tỷ lệ nông nghiệp còn ở mức cao. Mặt khác, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho công nghiệp và nông thôn còn thấp, chủ yếu mới tập trung cho thuỷ lợi; các trục công nghiệp chính; chú trọng nhiều vào đầu tư thay thế nhập khẩu, thu hút nguồn vốn; chưa chú trọng đầu tư vào các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, chưa chú ý khuyến khích kịp thời phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; nhiều chính sách trợ cấp ( lãi xuất tín dụng, trợ giá nông sản…) không đúng đối tượng làm ảnh hưởng xấu đến sự hình thành thị trường nông thôn, thị trường ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
`Cải cách các doanh nghiệp và các khó khăn về tài chính của các donh nghiệp nhà nước đã dẫn đến việc mất đi gần 800.000 việc làm trong thời gian đầu tiến hành cải cách doanh nghiệp. Nhiều công nhân bị mất việc làm đã gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm mới và bị rơi vào cảnh nghèo đói, phần lớn số người này là phụ nữ, người trình độ học vấn thấp và người lớn tuổi.
Chính sách cải cách nền kinh tế, tạo môi trường lành mạnh, tự do hoá thương mại, tạo ra động lực tốt cho nền kinh tế, khuyến khích các doanh nghiệp phát triển. Tuy nhiên, một số ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động chưa được chú trọng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tạo việc làm chưa được quan tâm và tạo cơ hội phát triển. Tình trạng thiếu thông tin, trang thiết bị sản xuất lạc hậu, khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp và năng lực sản xuát hạn chế đã làm không ít các doanh nghiệp bị phá sản và đẩy công nhân vào tình trạng thất nghiệp, họ buộc phải gia nhập đội ngũ người nghèo.
Tăng trưởng kinh tế cao và khá ổn định của Việt nam trong những năm 90 và năm 2006, 2007, đầu năm 2008 là những tiền đề quan trọng để nhà nước tăng nguồn chi ngân sách cho việc giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó có tình trạng đói nghèo. Tuy nhiên, trên thực tế sự phân phối lợi ích tăng trưởng trong các nhóm và tầng lớp dân cư lại rất khác nhau, mức độ chênh lệch này cho thấy nhóm người giàu sẽ được hưởng lợi nhiều hơn từ kết quả tăng trưởng, ngược lại nhóm người nghèo trong xã hội thường chịu nhiều thiệt thòi và có thu nhập bấp bênh. Việt nam đang trong thời kỳ mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới, thời cơ và thách thứ luôn đan xen và đấu tranh cùng phát triển, để tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả, ổn định buộc chúng ta cần phải có chiến lược, giải pháp đối với các vấn đề xã hội và môi trường nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững trong tương lai. Trong đó cần có giải pháp để đẩy lùi khoảng cách chênh lệch giàu nghèo đang ngày một tăng hiện nay.
Kết cấu hạ tầng giao thông đến các vùng sâu, vùng xa, vùng dặc biệt khó khăn còn thiếu và yếu kém. Cơ sở hạ tầng được xem là nguồn lực vô cùng quan trọng đối với phát triển kinh tế và cải thiện đời sông dân cư.
Những yếu kém của hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt nam hiện nay đã trì hoãn và kéo lùi sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho xây dựng hạ tầng cơ sở giao thông ở xã nghèo chưa tương xứng với nhu cầu phát triển, chủ yếu sử dụng vốn vay từ các tổ chức nước ngoài, nguồn vốn ODA với lãi xuất thấp. Việc quản lý và sử dụng đồng vốn vay hiện nay là vấn đề còn gây nhiều bức xúc và cần một giải pháp hữu hiệu hơn.
Ngoài những nguyên nhân cơ bản trên, thì theo nghiên cứu của các nhà xã hội học, người ta còn đề cập đến một số nguyên nhân khác như:
Ở Việt Nam sự nghèo đói và HIV/AIDS tiếp tục phá huỷ từng kết cấu của tuổi thơ. Các em không được thừa hưởng quyền có một tuổi thơ được yêu thương , chăm sóc, bảo vệ trong mái ấm gia định hoặc được khích lệ phát triển hết khả năng của mình. Khi trưởng thành và trở thành cha mẹ, đến lượt con cái các em lại có nguy cơ bị tước đoạt các quyền đó vì các hiểm hoạ đối với tuổi thơ lặp lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Trên thực tế, tại các đô thị lớn của Việt Nam tình trạng trẻ em lang thang không mái ấm gia đình, không nghề nghiệp trở thành vấn đề xã hội nhức nhối, không chỉ ảnh hưởng đến thế hệ hiện tại mà còn liên quan đến cuốc sống của các thế hệ tương lai.
Ngoài ra có ý kiến cho rằng tình trạng đói nghèo của Việt Nam được thực hiện qua nhiều năm nhưng kết quả đạt được chưa thực sự khả quan còn là do nguyên nhân từ hiệu năng quản lý nhà nước thấp và những chính sách mà Chính phủ đề ra chưa được cụ thể đối với hộ nghèo, ngay việc xác định chuẩn nghèo cũng còn nhiều điểm chưa thực sự hợp lý, chưa tính đến yếu tố trượt giá theo quy luật của thị trường.
Tại Đại hội Đảng lần thứ X đã đánh giá kết quả thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo trong đó đã nêu một số nguyên nhân chủ quan, từ sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước. Đó là: “Tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực còn chậm đổi mới. Một số vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương lớn chưa được làm rõ nên chưa đạt đực sự thống nhất cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo điều hành; sự chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt, chưa chỉ đạo tập trung và thiếu kiên quyết, tình trạng nói nhiều làm ít, làm không đến nơi đến chốn diễn ra ở nhiều nơi; công tác kiểm tra, thanh tra hiệu lực thấp; một bộ phận cán bộ đảng viên, kể cả cán bộ chủ chốt yếu kém về phẩm chất và năng lực”.
Hiện trạng tham ô, tham nhũng từ nguồn ngân sách nhà nước, nguồn vốn vay ODA từ các nước công nghiệp phát triển và các tở chức quốc tế khác đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến lòng tin của nhân dân và hiệu quả đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy mà bài toán đặt cho công tác quản lý nhà nước là tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực đặc biệt là việc sử dụng các nguồn vốn đi vay nước ngoài. Làm sao cho người dân đặc biệt là đối tượng người nghèo được thụ hưởng đầy đủ nhất các chính sách hỗ trợ của Chính phủ và cộng đồng quốc tế.
Trên đây là phân tích rất cơ bản những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng đói nghèo ở Việt Nam trong những năm qua. Việc tìm hiểu và đánh giá tác động của chúng có vai trò quan trọng đối với việc đề ra và thực thi những giải pháp cụ thể cho thực trạng đói nghèo. Từ phía nhà nước là việc đưa ra biện pháp quản lý phù hợp nhằm giảm tỷ lệ hộ nghèo, cải thiện đời sống nhân dân nói chung và của người nghèo nói riêng; từ phía người nghèo sẽ nâng cao nhận thức về nguyên nhân dẫn tới tình trạng nghèo đói của mình và giúp họ nỗ lực tìm biện pháp để tự thoát khỏi cảnh nghèo đói.
CHƯƠNG III
NHỮNG GIẢI PHÁP CHO VẤN
ĐỀ ĐÓI NGHÈO CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
Từ thực tiễn của thực trạng nghèo đói và do nhu cầu phát triển của xã hội mà Đảng và Nhà nước đã hoạch định những quyết sách mang tính định hướng thể hiện tư tưởng, quan điểm và mục tiêu của Đảng và Nhà nước trong việc giải quyết tình trạng đói nghèo, đồng thời đẩy mạnh công tác triển khai, đôn đốc các Tỉnh, Thành trong cả nước xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể nhằm thực hiện mục tiêu về xoá đói giảm nghèo, góp phần tích cực vào thành tựu của công tác này, nâng cao mức sống của đại bộ phận dân cư.
Chính phủ Việt nam coi vấn đề đói nghèo là mục tiêu thường xuyên trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cũng như Việt nam đã công bố cam kết thực hiện các mục tiêu phát triển quốc tế đã được nhất trí tại Hội nghị thượng đỉnh các quốc gia năm 2000. Công cuộc phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo của Việt Nam đã đạt dược những thành tựu đáng kể và được quốc tế công nhận.
Việt Nam đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm giải quyết vấn đề đói nghèo, trong đó được xem là toàn diện nhất là Chiến lược toàn điện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo được Thủ tướng chính phủ phê duyệt tại Công văn số 2685/VPCP – QHQT, ngày 21 tháng 5 năm 2002 và Công văn số 1649/ CP – QHQT ngày 26 tháng 11 năm 2003. Chiến lược đã thể hiện sự nhất quán của Chính phủ Việt Nam về tăng cường sự tham gia của người dân vào công việc của nhà nước và dân chủ tại các cấp chính quyền, đặc biệt là cấp cơ sở. Đồng thời Chiến lược đã mang lại nhiều ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao nhận thức về trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng cơ quan đơn vị và từng người dân trong công tác xoá đói giảm nghèo.
I. MỤC TIÊU VÀ CÁC CHỈ TIÊU CHO VIỆC GIẢI QUYẾT TÌNH TRẠNG ĐÓI NGHÈO Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2010
1. Mục tiêu tổng quát về phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2001-2010
Đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, nguồn lực khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của Việt nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Đại hội Đảng lần thứ X đã đưa ra định hướng đến năm 2010 đảm bảo thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của con người trên các lĩnh vực:
Quyền lao động việc làm và quyền có mức sống thoả đáng “ tạo việc làm cho 8 triệu lao động, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị dưới 5%, tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) giảm xuống còn 10-11%.
Quyền giáo dục, hoàn thành phổ cập giáo dục Trung học cơ sở; giáo dục đại học và cao đẳng đạt 200 sinh viên/ 100.000 dân, lao động qua đào tạo chiếm 40% tổng lao động xã hội.
Quyền được chăm sóc sức khoẻ và quyền được sống trong môi trường trong sạch, đưa tỷ lệ che phủ rừng lên 42-43%; có 95% dân cư thành thị và 75% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch.
( Ban tư tưởng – Văn hoá TW, Chuyên đề Nghiên cứu nghị quyết Đại hội X của Đảng – Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội 2006, trang 23)
Như vậy, thực chất của công tác xoá đói giảm nghèo là đảm bảo ngày càng tốt hơn sự hưởng thụ của người dân đối với kết quả tăng trưởng kinh tế và các dịch vụ xã hội chất lượng cao. Con người luôn là mục tiêu cao nhất và cuối cùng của bất kỳ chiến lược phát triển nào của Đảng và nhà nước ta.
2.Các chỉ tiêu cần đạt trong công tác xoá đói giảm nghèo
Các chỉ tiêu này được cụ thể hoá trong Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo. Mà cụ thể là:
2.1 Chỉ tiêu trong giai đoạn 2001 – 2005
Giảm 2/5 tỷ lệ hộ nghèo so với năm 2000 theo chuẩn nghèo của Chương trình mục tiếu quốc gia về xoá đói giảm nghèo và việc làm.
Công trình hạ tầng thiết yếu cho người nghèo, cộng đồng nghèo và xã nghèo: 80% dân cư đô thị, 60% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch với số lượng 50 lít/người/ ngày; 50 % gia đình có nhà tiêu hợp vệ sinh.
Tạo việc làm cho khoảng 1.4 - 1.5 triệu lao động /năm. Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 30%, giảm tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo xuống còn 5.4% trong tổng số lao động trong độ tuổi lao động.
Sức khoẻ sinh sản, các dịch bệnh HIV/AIDS và các dịch bệnh xã hội: đến năm 2005 giảm tỷ suất chết mẹ liên quan đén sinh sản xuống 80/100.000 trẻ em sống. Cải thiện tình trạng sức khoẻ của bà mẹ sau khi sinh nở. Kiềm chế tốc độ lây truyền HIV/AIDS và giảm thiểu tác động của dịch bệnh nguy hiểm này.
Phát triển văn hoá thông tin và nâng cao đới sống tinh thần của nhân dân, đến năm 2005, phấn đấu 80% gia đình đạt chuẩn gia đình văn hoá; 50% làng xóm, khu phố đạt chuẩn văn hoá quốc gia; 78% xã, phường có nhà văn hoá; bình quân mỗi người dân có 4 bản sách/ năm.
Giảm khả năng dễ bị tổn thương và phát triển mạng lưới an sinh xã hội trợ giúp cho đối tượng yếu thế và người nghèo.
2.2 Chỉ tiêu cho giai đoạn 2006 – 2010
Bước sang giai đoạn mới, định hướng chung cho giảm nghèo là toàn diện hơn, công bằng hơn, bền vững hơn và từng bước hội nhập. Với định hướng trên, ngày từ tháng 4 năm 2005, Chính phủ đã chấp thuận chuẩn nghèo mới cho giai đoạn 2006 – 2010 do Bộ Lao động thương binh – Xã hội đề xuất ở mức 260 nghìn đồng đối với vùng thành thị và 200 nghìn đồng đối với vùng nông thôn. Mục tiêu giảm nghèo trong 5 năm tới là phải giảm được 35-38% số hộ nghèo theo chuẩn nghèo mới; cải thiện đời sống của nhóm hộ nghèo nhằm hạn chế tốc độ gia tăng khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng và giữa các nhóm người trong xã hội.
Để đạt được mục tiêu trên cần đưa ra các chỉ tiêu cụ thể, đó là:
Thu nhập của nhóm nghèo tăng 1.45 lần so với năm 2005
Các xã đặc biệt khó khăn , xã nghèo có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu
6 triệu lượt hộ nghèo được vay vốn tín dụng ưu đãi
4.2 triệu lượt hộ nghèo được tập huấn về khuyến nông – lâm – ngư nghiệp
1.5 triệu người được miễn phí học nghề
15 triệu người được khám chữa bệnh miễn phí khi đau ốm
19 triệu lượt học sinh nghèo đực miễn giảm học phí, tiền xây dựng trường
500 nghìn hộ nghèo được hỗ trợ xoá nhà tạm
( Nguồn: Bộ Lao động thương binh - Xã hội , tháng 9 năm 2005: Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo 2006-2010)
Việc xây dựng giải pháp cho vấn đề đói nghèo ở Việt nam đòi hỏi tính đồng bộ, thống nhất tư Trung ương đến địa phương. Về mặt phương pháp luận, việc xoá đói giảm nghèo cần được đặt trong chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế, xu hướng tổng thể của đất nước và của từng ngành, từng địa phương. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy nhiều địa phương có tốc độ tăng trưởng GDP cao song có nhiều xã còn nghèo, như vậy không phải cứ tập trung đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao là không cần phải giảm nghèo hay không chú trọng đến mục tiêu này trong chién lược phát triển chung. Mặt khác, các chỉ tiêu xoá đói giảm nghèo cần phải có quan hệ với các mục tiêu, chi tiêu của các chương trình, dự án khác. Chỉ có như vậy kết quả thực hiện xoá đói giảm nghèo mới thực sự bền vững. Đối với Việt Nam do nguồn lực cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo còn hạn chế vì vậy cần lồng ghép với các chương mục tiêu quốc gia khác, đồng thời cần tranh thủ sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế cho mục tiêu chung của chương trình XDGN.
II. NHỮNG GIẢI PHÁP CỤ THỂ
Chương trình xoá đói giảm nghèo giai đoạn II (2006 – 2010) đã nêu lên 3 hướng đột phá đó là:
Đột phá thứ nhất là đột phá về nguồn lực thực hiện chương trình, cách huy động nguồn lực phải rõ ràng với nhiều hình thức khác nhau.
Đột phá thứ hai là khuyến khích sự cố gắng, ý chí tự vươn lên của bản thân người nghèo. Phải nói mạnh, làm mạnh, phải vận động để làm chuyển biến nhận thức của họ.
Đột phá thứ ba là giám sát độc lập và bảo lưu một số chính sách khi họ đã vượt nghèo. Cần phải có sự tuyên dương, khen thưởng và tôn vinh về giá trị, tinh thần đối với những địa phương, những cá nhân và bản thân người dân khi làm tốt song cũng cần phải tránh bệnh thành tích.
Từ những đột phá trên chúng ta sẽ đi tìm hiểu một số giải pháp cụ thể sau:
1. Huy động và phân bổ nguồn lực cho các chương trình quốc gia liên quan đến xoá đói giảm nghèo một cách cụ thể và ngày càng có sự tăng cường về vốn.
Trong Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo, thì theo tính toán bước đầu của các Bộ, ngành liên quan kết hợp với tổ tính toán chi phí của một số chuyên gia quốc tế, nhu cầu chi cho một số mục tiêu của 8 ngành, lĩnh vực là nông nghiệp và kinh tế nông thôn, y tế, giáo dục, đô thị, điện khí hoá, giao thông vận tải, lao động và bảo hiểm xã hội và các chương trình mục tiêu quốc gia khác trong 3 năm 2003-2005 khoảng 84.000 tỷ đồng, trong đó chi thường xuyên vào khoảng 54.000 tỷ đồng và chi đầu tư khoảng 30.000 tỷ đồng.
Để huy động, đáp ứng nhu cầu đầu tư cho xoá đói giảm nghèo cần thực hiện huy động đa nguồn lực từ gồm: nhà nước, doanh nghiệp, cộng đồng cá nhân và vận động sự tài trợ quốc tế. Phân bổ nguồn lực tập trung ưu tiên cho 1.900 xã đặc biệt khó khăn, xã thuộc vùng bãi ngang, ven biển, hải đảo và 2.500 ấp, làng, bản nghèo.
Hiện nay nước t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận môn học nông thôn - Vấn đề đói nghèo ở Việt Nam hiện nay.doc