Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân không những được ghi nhận trong Hiến pháp mà còn được cụ thể hoá trong Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (Sửa đổi, bổ sung một số điều vào các năm 2004, 2005). Các văn bản này là cơ sở pháp lý quan trọng giúp công dân hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình về khiếu nại, tố cáo.
Tuy nhiên, sau nhiều năm thực hiện Luật khiếu nại, tố cáo, việc khiếu nại, tố cáo của công dân vẫn diễn biến phức tạp, số lượng đơn từ không giảm và còn nhiều bất cập. Trong khi đó, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc xem xét đơn giám đốc thẩm, tái thẩm tại một số trường hợp còn chưa chính xác, vẫn còn để tồn đọng nhiều vụ việc chưa được giải quyết. Việc xử lý một số trưòng hợp cán bộ toà án vi phạm pháp luật còn chưa nghiêm. Thậm chí ngành toà án còn để lọt một số vụ án xét xử không công bằng, gây bất bình trong nhân dân. Mặt khác, do sự thiếu am hiểu về pháp luật nói chung và pháp luật khiếu nại, tố cáo nói riêng nên nhiều người đã thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo không đúng quy định của pháp luật. Có trường hợp gửi đơn khiếu nại không đúng người có thẩm quyền giải quyết hoặc khiếu nại, tố cáo thiếu căn cứ. Một số vụ việc được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết khách quan, đúng pháp luật, nhưng người khiếu nại, tố cáo vẫn không chấp hành.
12 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4788 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vấn đề khiếu nại, tố cáo của công dân và công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan Nhà nước ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Nhà nước và pháp luật nước ta. Đây là bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước dân chủ nhân dân. Các chế định về công dân và các quy định về mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước đã làm thay đổi toàn bộ hệ thống cấu trúc bộ máy Nhà nước, sự hình thành và thực thi quyền lực Nhà nước. Sự thay đổi vĩ đại này trước hết thể hiện ở sự chuyển đổi từ xã hội thần dân sang xã hội công dân. Hiến pháp 1946 đã đưa người dân từ địa vị của người nô lệ trở thành những công dân, những người quyết định vận mệnh của đất nước.
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong một văn bản có hiệu lực cao nhất, cùng với một thiết chế bộ máy nhà nước đảm bảo thực hiện các quyền cơ bản đó.
Hiến pháp 1946 ghi nhận các quyền công dân bao gồm: Quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa; quyền bình đẳng trước pháp luật; quyền được tham gia chính quyền và tham gia công cuộc kiến quốc; quyền bình đẳng nam nữ; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền bầu củ, ứng cử…Cùng với việc ghi nhận các quyền cơ bản của công dân, Hiến pháp 1946 đã quy định một thiết chế Bộ máy nhà nước dân chủ. Bộ máy nhà nước ta theo Hiến pháp 1946 bao gồm: nghị viện nhân dân, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban hành chính và các cơ quann tư pháp.
Như vậy, Hiến pháp 1946 là bản Hiến pháp xoá bỏ nền quân chủ, thiết lập nền dân chủ cộng hoà. Một trong những nguyên tắc mang tính tuyên ngôn đã được quy định trong Điều 1 của Hiến pháp 1946 là: “…tất cả quyền bính trong nước là của nhân dân Việt Nam, không phân biệt nói giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo…”. Lời nói đầu của Hiến pháp 1946 cũng xác định ba nguyên tắc xây dựng Hiến pháp, bao gồm:
- Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo.
- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.
- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
Từ những điều trên cho thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước của dân, do dân và vì dân đã được thể hiện xuyên suốt trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Thể chế dân chủ mà Hiến pháp 1946 tạo ra là điều kiện tiên quyết, là nền tảng cơ bản để hình thành quyền khiếu nại, tố cáo của công dân. Trên thực tế, việc khiếu nại, tố cáo đã có từ lịch sử xa xưa với những bao công, ngự sử. Tuy nhiên, việc khiếu nại, tố cáo dưới chế độ quân chủ chuyên chế hoàn toàn khác về bản chất đối với việc khiếu nại, tố cáo trong chế độ dân chủ. Trước Hiến pháp 1946, khiếu nại, tố cáo chưa bao giờ trở thành quyền của người dân. Việc Hiến pháp 1946 ghi nhận các quyền cơ bản của công dân cùng với một bộ máy Nhà nước bảo đảm các quyền cơ bản đó đã gián tiếp khẳng định quyền năng chủ thể khiếu nại, tố cáo của công dân cũng như trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan Nhà nước. Bởi vì quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những đặc trưng của chế độ dân chủ nhân dân. Trong chế độ đó, khi các quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp ghi nhận mà bị xâm phạm thì họ sẽ có quyền khiếu nại, tố cáo với các cơ quan Nhà nước. Đồng thời, trong một chế độ dân chủ, với địa vị là người làm chủ đất nước, công dân sẽ sử dụng quyền khiếu nại, tố cáo như một biện pháp để tham gia xây dựng chính quyền, tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngược lại, việc giải quyết kịp thời, khách quan các khiếu nại, tố cáo cũng là một phương thức hữu hiệu để các cơ quan Nhà nước và các nhân viên cơ quan Nhà nước thực thi quyền lực Nhà nước vì mục tiêu đảm bảo tự do dân chủ cho nhân dân.
Ngay từ những ngày đầu xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Trong sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945 quy định về Ban Thanh tra đặc biệt đã đề cập về vấn đề này. Ban Thanh tra đặc biệt có nhiệm vụ giám sát tất cả công việc và các nhân viên của các Uỷ ban hành chính và các cơ quan của Chính phủ. Một trong các quyền của Ban Thanh tra đặc biệt khi đó là: “Nhận các đơn khiếu nại của nhân dân”.
Như vậy, mặc dù Hiến pháp 1946 chưa có điều khoản cụ thể quy định quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, nhưng thể chế dân chủ mà bản Hiến pháp này tạo dựng lên đã là nền tảng cơ bản hình thành quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trên thực tế.
Sau khi Hiến pháp 1946 được ban hành, cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đã làm gián đoạn quá trình thực thi Hiến pháp. Song, với bản Hiến pháp 1946, một thể chế dân chủ chính thức được hình thành, các điều kiện để thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân chính thức được thừa nhận và tiếp tục được duy trì, nâng cao trong các bản Hiến pháp sau này.
2. Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân chính thức được ghi nhận trong Hiến pháp 1959.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 là mốc son chói lọi đánh dấu thắng lợi cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân Pháp. Từ sau Hội nghị Giơnevơ, cách mạng nước ta chuyển sang một giai đoạn mới. Ở miền Bắc, chúng ta đã có điều kiện xây dựng và củng cố chính quyền, mở rộng và thực hiện đầy đủ các quyền tự do dân chủ của nhân dân. Những điều kiện khách quan đó đã đòi hỏi phải sửa đổi Hiến pháp 1946.
So với Hiến pháp 1946, trong Hiến pháp 1959, những quyền tự do dân chủ của nhân dân đã được quy định đầy đủ hơn. Nếu như Hiến pháp 1946 có 18 điều quy định về quyền và nghĩa vụ công dân thì Hiến pháp 1959 có tới 21 điều quy định về quyền và nghĩa vụ công dân (từ Điều 22 đến Điều 42).
Trong Hiến pháp 1959, thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước cũng được xác định cụ thể hơn so với Hiến pháp 1946.
Toàn bộ các quy định của Hiến pháp 1959 đã thể hiện: đây là bản Hiến pháp thực sự dân chủ như Lời nói đầu Hiến pháp đã khẳng định. Đặc biệt, trong Hiến pháp 1959, quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đã được ghi nhận trong một điều riêng. Điều 29 Hiến pháp 1959 quy định: “Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những việc làm vi phạm pháp luật của cán bộ và nhân viên Nhà nước. Các khiếu nại, tố cáo phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường”.
Có thể nói, việc ghi nhận quyền khiếu nại, tố cáo của công dân là một trong những bước phát triển quan trọng nhất của Hiến pháp 1959 trên nền tảng cơ bản của Hiến pháp 1946. Về thực chất, đây là một sự hoàn thiện cả về hệ thống các quyền công dân và cả về cơ chế thực hiện các quyền đó. Điều 29 của Hiến pháp 1959 chẳng những khẳng định công dân có quyền khiếu nại, tố cáo mà còn quy định các khiếu nại, tố cáo của công dân phải được xem xét gải quyết nhanh chóng, người bị thiệt hại có quyền được được bồi thường. Đó chính là sự xác định trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước và nhân viên Nhà nước đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Rõ ràng là tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước của dân, do dân và vì dân tiếp tục được thể hiện một cách nhất quán và ở mức độ cao hơn trong Hiến pháp 1959.
Việc quy định quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân đã củng cố thêm một bước địa vị pháp lý của công dân trong xã hội, là một sự bổ trợ quan trọng đối với các quyền tự do dân chủ khác. Nó tiếp tục khẳng định vai trò tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội của công dân. Việc tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý của chính quyền không tách rời việc bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân.
Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân quy định tại Điều 29 Hiến pháp đã được thể chế hoá trong chế độ làm việc của các cơ quan Nhà nước, trong việc giáo dục phẩm chất đạo đức các bộ và trong các nguyên tắc hành chính. Thực tế giai đoạn lịch sử từ 1959 đến 1980 chứng minh rằng, việc ghi nhận quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong Hiến pháp 1959 đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng để xây dựng chính quyền cách mạng ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, khẳng định tính dân chủ của Nhà nước ta.
3. Hiến pháp 1980 tiếp tục cụ thể hoá quyền khiếu nại, tố cáo.
Mùa xuân năm 1975, nhân dân Việt Nam giành được thắng lợi trọn vẹn trong cuộc chiến tranh giành độc lập tự do. Sau 30 năm đấu tranh không mệt mỏi, đất nước ta được hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc đã thống nhất, mở ra một trang sử mới của dân tộc.
Kế thừa và phát triển các Hiến pháp 1946 và 1959, Hiến pháp 1980 thể chế hoá đường lối xây dựng CNXH trên phạm vi cả nước do Đại hội lần thứ IV của Đảng đề ra. Đó là Hiến pháp của thời kì quá độ đi lên CNXH.
Trong bản Hiến pháp 1980, quyền khiếu nại, tố cáo được quy định tại Điều 73:
“Công dân có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan, tổ chức và đơn vi đó.
Các đơn khiếu nại và tố cáo phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng.
Mọi hành động xâm phạm quyền lợi chính đáng của công dân phải được sửa chữa và xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo”
So với Hiến pháp 1959, quy định của Hiến pháp 1980 về quyền khiếu nại, tố cáo đã có một bước phát triển cao hơn.
Trước hết về đối tượng bị khiếu nại, tố cáo, nếu như Điều 29 Hiến pháp 1959 mới chỉ quy định đối tượng bị khiếu nại, tố cáo là “những hành vi vi phạm pháp luật của nhân viên cơ quan Nhà nước” thì Điều 73 Hiến pháp 1980 đã mở rộng đối với “những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân thuộc các cơ quan, tổ chức và đơn vị đó”. Như vậy, theo Hiến pháp 1980, đối tượng bị khiếu nại đã được mở rộng hơn rất nhiều. Không chỉ có các nhân viện cơ quan Nhà nước mà ngay cả bản thân các cơ quan đó, nếu có những việc làm trái pháp luật đều có thể bị khiếu nại, tố cáo. Đây là một quy định mới, hết sức tiến bộ, là một yếu tố của Nhà nước pháp quyền. Ngoài ra, các tổ chức, đơn vị vũ trang mà có những việc làm trái pháp luật thì cũng là đối tượng bị khiếu nại, tố cáo. Có thể nói, quy định của Hiến pháp 1980 về quyền khiếu nại, tố cáo đã kế thừa và phát triển một cách nhất quán phương hướng xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân và các phương thức thực hiện nền dân chủ.
Cũng trong Điều 73 Hiến pháp 1980, ý nghĩa của việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo như một hình thức chủ yếu để nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội được khẳng định một cách đầy đủ hơn. So với Điều 29 Hiến pháp 1959, Điều 73 Hiến pháp 1980 quy định bổ sung thêm: “Mọi hành động xâm phạm quyền lợi chính đáng của công dân phải được kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh”.
Quy định này không chỉ có ý nghĩa bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà còn thể hiện việc nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, làm trong sạch bộ máy Nhà nước, xây dựng chính quyền vững mạnh thông qua hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Một trong những bổ sung quan trọng khác trong Điều 73 Hiến pháp 1980 là việc quy định: “Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo”. Đây là quy định đảm bảo cho công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình. Quy định này là cơ sở để các “Pháp lệnh quy định về thủ tục giải quyết các khiếu nại, tố cáo” năm 1981 và “Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân” năm 1991 thể chế hoá. Trong các pháp lệnh này đều có những điều khoản quy định về việc giữ bí mật họ tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo và việc xử lý các hành vi trù dập, trả thù người khiếu nại, tố cáo. Nói chung, những quy định này của các pháp lệnh nói trên đã nâng cao tính thực tiễn của việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo sau Hiến pháp 1980.
4. Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 1992( sửa đổi) hoàn thiện thêm một bước quyền khiếu nại, tố cáo của công dân.
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), đất nước ta bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới. Chỉ sau một thời gian không dài, đời sống kinh tế - xã hội nước ta có những bước chuyển biến tích cực và toàn diện. Trước những thay đổi đó, một số quy định của Hiến pháp 1980 không còn phù hợp. Năm 1992, bản Hiến pháp mới đã ra đời - Hiến pháp của công cuộc đổi mới.
Hiến pháp 1992 đã thể hiện quá trình chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước. Các thành phần kinh tế được thừa nhận. Chế độ hạch toán kinh doanh được áp dụng đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Sự thay đổi về kinh tế đã làm thay đổi về phương pháp, cách thức quản lý của Nhà nước đối với xã hội. Kế thừa những quan điểm của các Hiến pháp trước đây, Nhà nước là công cụ để nhân dân làm chủ, Nhà nước vừa là cơ quan quyền lực chính trị, vừa là cơ quan điều hành công cuộc xây dựng xã hội, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, là cơ quan quản lý toàn diện đất nước, Điều 12 Hiến pháp 1992 quy định:
“Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN. Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật”
Như vậy, theo Hiến pháp 1992, Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý xã hội, tác động tới xã hội bằng phương tiện đặc thù riêng là pháp luật. Nói cách khác, Nhà nước quản lý cơ chế chính sách, pháp luật thay cho cách thức quản lý bằng chỉ tiêu, mệnh lệnh trước đây. Nhà nước, thông qua hoạt động xây dựng, hoàn thiện pháp luật và thông qua quá trình áp dụng pháp luật sẽ tạo ra hành lang pháp lý, mà trong đó, các đối tượng bị quản lý được tự do lựa chọn hành vi của mình. Điều đó đòi hỏi phải tăng cường pháp chế XHCN. Không những các đối tượng bị quản lý phải tuân thủ hành lang pháp lý chung, nghĩa là các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân phải chấp hành Hiến pháp và pháp luật mà cả những chủ thể quản lý là các cơ quan Nhà nước trong quá trình hoạt động của mình cũng phải tuân theo pháp luật.
Với quan điểm đó, quyền khiếu nại, tố cáo của công dân - với tư cách là một trong những quyền cơ bản của công dân, đã được Hiến pháp 1992 hoàn thiện thêm một bước, phù hợp với tiến trình đổi mới toàn diện về kinh tế - xã hội. Điều 74 Hiến pháp năm 1992 quy định:
“Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào.
Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định.
Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”.
Về cơ bản Điều 74 Hiến pháp 1992 là sự ghi nhận lại Điều 73 Hiến pháp 1980, bằng quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất đảm bảo cho các công dân được thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo và buộc các cơ quan Nhà nước, các nhà chức trách phải xem xét và giải quyết kịp thời.
Trong quy định này, tính pháp chế được thể hiện đậm nét hơn so với quy định của các Hiến pháp trước đây.
Thứ nhất, nếu như các Hiến pháp 1959 và 1980 quy định cho công dân được khiếu nại, tố cáo với bất cứ cơ quan Nhà nước nào thì theo Hiến pháp năm 1992, công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, một mặt trong hệ thống các cơ quan Nhà nước phải có sự phân định rõ thẩm quyền giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân theo từng ngành, từng cấp. Mỗi cơ quan Nhà nước đều xác định được trách nhiệm cụ thể của mình trong việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân. Mặt khác, khi thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình, công dân cũng phải thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết của các cơ quan Nhà nước. Quy định này nhằm tăng cường hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, tăng cường pháp chế trong lĩnh vực khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Thứ hai, nếu như Hiến pháp 1959 và 1980 quy định việc giải quyết nhanh chóng các khiếu nại, tố cáo của công dân thì theo Hiến pháp 1992, việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem xét giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định. Điều này có nghĩa là việc giải quyết nhanh chóng các khiếu nại, tố cáo như quy định của các Hiến pháp trước đây đã được Hiến pháp 1992 cụ thể bằng các thời hạn đối với từng loại việc. Trên cơ sở các quy định về thời hạn, các cơ quan Nhà nước cấp trên có thể kiểm tra, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan Nhà nước cấp dưới. Đồng thời công dân cũng có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo của mình theo đúng thời hạn đã quy định. Đây là một bước nâng cao việc thực hiện quyền tự do dân chủ của nhân dân và là một bước hoàn thiện về thể chế làm việc của các cơ quan Nhà nước.
Thứ ba, so với các quy định về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong các Hiến pháp trước đây, Hiến pháp 1992 bổ sung quy định nghiêm cấm việc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác. Đây là một điểm phát triển mới của Hiến pháp 1992. Thực tế cho thấy rằng việc vu khống, vu cáo người khác là một hành vi nguy hiểm cho xã hội, làm tổn thất danh dự, nhân phẩm và cuộc sống bình thường của nhân dân. Quy định này cũng thể hiện rõ nét tính pháp chế trong việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân. Quyền luôn luôn đi đôi với nghĩa vụ. Hiệu quả, hiệu lực của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo không thể được nâng cao nếu như để diễn ra tình trạng lợi dụng quyền khiếu naị, tố cáo để xuyên tạc sự thật, chia rẽ đoàn kết nội bộ, phục vụ các ý đồ cá nhân. Việc bổ sung quy định này trong Điều 74 Hiến pháp 1992 có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong cơ chế quản lý mới.
Đồng thời với quy định về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân thì Hiến pháp 1992 còn quy định trách nhiệm của đại biểu Quốc hội (Điều 97) và đại biểu Hội đồng nhân dân (Điều 121) phải trả lời những yêu cầu kiến nghị của cử tri, xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
Đến Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001), quyền khiếu nại, tố cáo của công dân về cơ bản vẫn được giữ nguyên, không có sửa đổi, bổ sung gì thêm.
* Tóm lại, sự ra đời của Hiến pháp 1946 đã đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Nhà nước và pháp luật nước ta. Cùng với sự ra đời của Nhà nước dân chủ đầu tiên trong lịch sử nước ta, Hiến pháp 1946 đã tạo ra nền tảng cơ bản để hình thành quyền khiếu nại, tố cáo của công dân. Nó được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp 1959 và không ngừng được bổ sung và hoàn thiện cho tới ngày nay. Những quy định của Hiến pháp về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đã thể hiện rõ nét bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
II. Vấn đề khiếu nại, tố cáo của công dân và công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan Nhà nước ở nước ta hiện nay.
Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân không những được ghi nhận trong Hiến pháp mà còn được cụ thể hoá trong Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (Sửa đổi, bổ sung một số điều vào các năm 2004, 2005). Các văn bản này là cơ sở pháp lý quan trọng giúp công dân hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình về khiếu nại, tố cáo.
Tuy nhiên, sau nhiều năm thực hiện Luật khiếu nại, tố cáo, việc khiếu nại, tố cáo của công dân vẫn diễn biến phức tạp, số lượng đơn từ không giảm và còn nhiều bất cập. Trong khi đó, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc xem xét đơn giám đốc thẩm, tái thẩm tại một số trường hợp còn chưa chính xác, vẫn còn để tồn đọng nhiều vụ việc chưa được giải quyết. Việc xử lý một số trưòng hợp cán bộ toà án vi phạm pháp luật còn chưa nghiêm. Thậm chí ngành toà án còn để lọt một số vụ án xét xử không công bằng, gây bất bình trong nhân dân. Mặt khác, do sự thiếu am hiểu về pháp luật nói chung và pháp luật khiếu nại, tố cáo nói riêng nên nhiều người đã thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo không đúng quy định của pháp luật. Có trường hợp gửi đơn khiếu nại không đúng người có thẩm quyền giải quyết hoặc khiếu nại, tố cáo thiếu căn cứ. Một số vụ việc được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết khách quan, đúng pháp luật, nhưng người khiếu nại, tố cáo vẫn không chấp hành. Có trường hợp không đồng ý với quyết định của cơ quan có thẩm quyền giải quyết, người khiếu nại, tố cáo đã chụp đơn khiếu nại thành nhiều bản gửi vượt cấp, thậm chí tụ tập đông người gây mất trật tự, an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan nhà nước và tổ chức. Bên cạnh đó, công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, đặc biệt là ở chính quyền cấp cơ sở cũng còn nhiều bất cập. Không ít cán bộ làm công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa đủ năng lực, trình độ cũng như hiểu biết về các quy định pháp luật, chưa được đào tạo, bồi dưỡng đầy đủ về kỹ năng, nghiệp vụ tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Có tình trạng khi thực hiện việc xác minh chưa đầy đủ, bỏ qua chứng cứ dẫn đến kết luận thiếu khách quan, thiếu chính xác. Có trường hợp chậm ra quyết định giải quyết hoặc chỉ có kết luận, thông báo thay cho quyết định giải quyết khiếu nại. Có nơi chưa gắn việc tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo với việc thực hiện các quy định pháp luật về dân chủ ở cơ sở, chưa coi trọng việc phối hợp của các đoàn thể quần chúng với chính quyền cơ sở trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật và công tác hoà giải, giải quyết tranh chấp.
Trước thực trạng trên, các cấp, các ngành hữu quan đã có nhiều biện pháp nhằm giải quyết dứt điểm các khiếu nại, tố cáo của công dân, nhất là đối với các vụ khiếu kiện đông người. Bên cạnh đó, kiên quyết xử lý đối với các trường hợp cơ hội, lợi dụng việc khiếu kiện của công dân để gây rối trật tự công cộng. Nâng cao hơn nữa chất lượng xét xử của ngành toà án, nhằm tránh tình trạng tiếp tục khiếu kiện sau khi toà án đã xét xử. Vận dụng chặt chẽ các quy định của pháp luật khi thu hồi đất, giải phóng mặt bằng…tránh các kẽ hở về mặt luật pháp gây thiệt hại cho lợi ích chính đáng của người dân. Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại của công dân từ trung ương xuống địa phương cần thực hiện đồng bộ về mặt văn bản, quyết định; hết sức tránh tình trạng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm khi giải quyết các quyền lợi của người dân.
Qua thực tiễn cho thấy, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nói chung và pháp luật về khiếu nại, tố cáo nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Vì vậy, cần thường xuyên bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo cho cán bộ làm công tác này; biên soạn và phát hành các tài liệu hỏi - đáp về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, các tài liệu nghiệp vụ về tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; kỹ năng tuyên truyền, phổ biến pháp luật thông qua công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và chính quyền địa phương cần xây dựng quy chế phối hợp trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật và giải quyết tranh chấp phát sinh từ cơ sở.
III. Những bảo đảm để thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân.
Có thể nhận thấy rằng quyền khiếu nại, tố cáo của công dân có những bảo đảm gồm: những điều kiện khách quan của sự phát triển xã hội và những phương tiện do nhà nước và xã hội tạo ra cho công dân để thực hiện được quyền khiếu nại, tố cáo, bảo vệ họ khi thực hiện các quyền đó.
a. Bảo đảm kinh tế: Với chính sách kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, Nhà nước ta ngày càng tạo ra những điều kiện cần thiết để công dân thực hiện các quyền và tự do được pháp luật thừa nhận. Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước ta là phát triển dân sinh, dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân… Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Nhà nước ta là đặt con người vào vị trí trọng tâm, giải phóng và phát huy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, tập thể và cả dân tộc. Đó chính là những tiền đề, điều kiện đảm bảo về kinh tế để mọi công dân thực hiện tốt các quyền tự do và nghĩa vụ của mình, trong đó có quyền khiếu nại, tố cáo.
b. Bảo đảm chính trị: Quyền và nghĩa vụ của công dân nói chung, quyền khiếu nại, tố cáo nói riêng được đảm bảo bằng thể chế chính trị của nền dân chủ. Ở nước ta hiện nay, bảo đảm chính trị quan trọng nhất là sự cầm quyền của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội, hoạt động quản lý của Nhà nước và sự tham gia chính trị của các tổ chức xã hội. Trong hoạt động bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của công dân, các cơ quan Nhà nước cần quan hệ chặt chẽ với các tổ chức xã hội, đặc biệt là những tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, vì đó là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là bảo đảm về chính trị trong việc thực hiện quyền của công dân, trong đó có quyền khiếu nại, tố cáo.
c. Bảo đảm tư tưởng: Hệ tư tưởng Mác-Lênin, những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức và truyền thống dân tộc, con người Việt Nam, sự thống nhất của chính trị, tư tưởng và đạo đức, tình hữu ái giai cấp, tình đồng chí, sự phát triển trình độ văn hoá xã hội là những bảo đảm về mặt tư tưởng cho việc thực
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Những bảo đảm để thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân.doc