MỤC LỤC
NỘI DUNG TRANG
A - MỞ ĐẦU 1
B - NỘI DUNG 1
I - Những vấn đề chung về quốc tịch 1
1. Quốc tịch là gì ? 1
2. Cơ sở cho sự ra đời và tồn tại của quốc tịch 2
3. Quốc tịch với vấn đề quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân 3
II - Những vấn đề cơ bản trong luật quốc tịch Việt Nam hiện hành - sự kế thừa và phát triển 3
1. Sự phát triển của pháp luật quốc tịch Việt Nam 3
2. Các nội dung cơ bản của Luật quốc tịch Việt Nam hiện hành 4
2.1 Nguyên tắc Nhà nước Công hoà chủ nghĩa Việt Nam chỉ công nhận công dân Việt Nam có
một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam. 4
2.2 Có quốc tịch Việt Nam 5
2.3 Nhập quốc tịch Việt Nam 6
2.4 Trở lại quốc tịch Việt Nam 7
2.5 Mất quốc tịch Việt Nam 8
2.6 Thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên và con nuôi 9
2.7 Thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề quốc tịch 10
III - Bình luận mở rộng 11
C - KẾT LUẬN 12
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3788 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vấn đề quốc tịch theo pháp luật hiện hành - Những điểm kế thừa và phát triển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xin thôi quốc tịch Việt Nam, việc cấp giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam, xác nhận mất quốc tịch Việt Nam, tước quốc tịch Việt Nam.
- Thông tư liên tịch số 09 ngày 31/12/1998 của Bộ trưởng Bộ tư pháp về việc ban hành các mẫu giấy tờ liên quan đến quốc tịch Việt Nam, trong đó quy định 19 loại mẫu giấy tờ.
Ngoài ra, bộ phận quan trọng khác của hệ thống luật quốc tịch Việt Nam là điều ước quốc tế mà Nhà nước ta đã hoặc sẽ ký kết, trực tiếp điều tiết các vấn đè về quốc tịch như hiệp định biên giới, hiệp định về nuôi con nuôi, Công ước quốc tế về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nuôi con nuôi, Công ước về hạn chế và ngăn ngừa tình trạng không quốc tịch, hiệp định tương trợ tư pháp.
Tóm lại, hệ thống pháp luật về vấn đề quốc tịch Việt Nam hiện nay đã khá hoàn thiện, bao gồm nhiều văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là Luật quốc tịch năm 1998. Trên cơ sở kế thừa và phát triển các văn bản pháp luật trước đó về vấn đề quốc tịch, Luật quốc tịch 1998 là căn cứ chủ yếu để giải quyết những vấn đề liên quan đến quốc tịch Việt Nam trong giai đoạn hội nhập hiện nay.
2. Các nội dung cơ bản của Luật quốc tịch Việt Nam hiện hành.
2.1. Nguyên tắc Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam.
Theo Luật quốc tịch năm 1998 cùng với việc khẳng định mỗi cá nhân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quyền có quốc tịch tại Điều 1, nguyên tắc một quốc tịch được quy định rõ ràng tại Điều 3: ‘‘Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam’’. Theo đó, người nước ngoài muốn nhập quốc tịch Việt Nam hoặc công dân đã thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài, nay muốn trở lại quốc tịch Việt Nam thì phải từ bỏ quốc tịch nước ngoài. Nguyên tắc này có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện và bảo vệ chủ quyền quốc gia. Đây cũng là nội dung xuyên suốt trong các văn bản pháp luật trước đó quy định về vấn đề quốc tịch, ngay từ những văn bản đầu tiên mang tính sơ khai như Sắc lệnh số 53-SL ngày 20/10/1945, Sắc lệnh số 73-SL ngày 7/12/1945... nhưng trực tiếp nhất là Luật quốc tịch 1988. Điều 3 Luật quốc tịch 1988 quy định: ‘‘Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam’’.
Với quy định cụ thể như trên, Luật quốc tịch 1988 đã phát huy được tác dụng trong những quan hệ cụ thể, tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và những người có liên quan đến vấn đề quốc tịch. Mặt khác, nó cũng bảo đảm giữ vững an ninh quốc gia, bác bỏ sự can thiệp của nước ngoài trong việc xử lý nhiều vụ án hình sự liên quan đến người hai quốc tịch. Tuy nhiên, nhiều quy định trong Luật quốc tịch 1988 còn chung chung, thiếu chặt chẽ dẫn đến tình trạng không nhất quán trong việc thực hiện nguyên tắc một quốc tịch. Trên thực tế, do một số nước không yêu cầu người nước ngoài muốn nhập quốc tịch nước sở tại phải thôi quốc tịch gốc nên có trường hợp công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài đã nhập quốc tịch nước sở tại nhưng vẫn giữ quốc tịch Việt Nam.
Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998 một mặt kế thừa nguyên tắc một quốc tịch từ những văn bản pháp luật trước đó, mặt khác phát triển để phù hợp với thực tế. Nếu như Điều 3 Luật quốc tịch 1988 ghi nhận nguyên tắc một quốc tịch một cách cứng nhắc với từ ‘‘chỉ’’ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, thì Điều 3 Luật quốc tịch 1998 có cách thể hiện linh hoạt, mêm dẻo hơn, bỏ đi từ ‘‘chỉ’’ trong điều luật. Sự mềm dẻo trong việc thực hiện nguyên tắc một quốc tịch nghĩa là trong thực tế có thể chấp nhận những trường hợp có hai quốc tịch hoặc nhiều hơn, thể hiện ở khoản 3 Điều 20: ‘‘Công dân dân nước ngoài được nhập quốc tịch Việt Nam thì không còn giữ quốc tịch nước ngoài, trừ trường hợp đặc biệt do Chủ tịch nước quyết định’’. Nghĩa là về nguyên tắc, người nước ngoài muốn nhập quốc tịch Việt Nam thì phải bỏ quốc tịch gốc của họ. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt, người ấy vẫn có thể giữ quốc tịch gốc nếu được sự cho phép của Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quy định này tạo điều kiện cho một bộ phận Việt kiều có nhiều cơ hội được trở lại quốc tịch Việt Nam với nhiều quyền lợi như quyền đầu tư, mua nhà, kinh doanh...
Đồng thời, Luật quốc tịch 1998 quy định cụ thể những trường hợp mặc nhiên mất quốc tịch Việt Nam nhằm ngăn ngừa và hạn chế tình trạng hai hay nhiều quốc tịch:
Theo Điều 19: Trường hợp trẻ em dưới 15 tuổi (được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam, không rõ cha mẹ là ai thì đương nhiên có quốc tịch Việt Nam) nếu tìm thấy cha mẹ đều có quốc tịch nước ngoài, cha hoặc mẹ hoặc người giám hộ có quốc tịch nước ngoài thì đứa trẻ đó đương nhiên mất quốc tịch Việt Nam.
Theo Điều 28: Trường hợp cả cha và mẹ đều có sự thay đổi quốc tịch do được thôi quốc tịch Việt Nam thì quốc tịch của con chưa thành niên sinh sống cùng cha mẹ được thay đổi theo quốc tịch của họ, tức là mặc nhiên mất quốc tịch Việt Nam.
Nguyên tắc một quốc tịch trong Luật quốc tịch 1998 đã có sự kế thừa Luật quốc tịch 1988, song do rất khó áp dụng triệt để nguyên tắc này trong thực tế nên Luật quốc tịch 1998 đã tạo ra cơ chế thực thi nguyên tắc một quốc tịch một cách linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp với thực tiễn.
2.2. Có quốc tịch Việt Nam.
Luật quốc tịch Việt Nam 1998 đã quy định rõ đối tượng nào có quốc tịch Việt Nam tại Điều 14:‘‘Người có quốc tịch Việt Nam bao gồm người đang có quốc tịch Việt Nam cho đến ngày Luật này có hiệu lực và người có quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật này’’. Trên cơ sở này, ta có thể chia thành các trường hợp sau:
Thứ nhất, là những người đang có quốc tịch Việt Nam cho đến ngày Luật quốc tịch 1998 có hiệu lực. Trường hợp này bao gồm tất cả những ai hiện đang là công dân Việt Nam, không phụ thuộc vào việc họ được xác định và công nhận như thế nào. Còn từ ngày Luật quốc tịch năm 1998 có hiệu lực thì việc xác định người có quốc tịch Việt Nam căn cứ vào những quy định trong Luật, phù hợp với những quy định chung về quyền đối với quốc tịch được quy định trước đó trong Điều 1 Luật quốc tịch 1988:‘‘Mọi thành viên của các dân tộc đều có quốc tịch Việt Nam’’ và nay được quy định tại khoản 1 Điều 1 Luật quốc tịch 1998:‘‘Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch’’. Nghĩa là các dân tộc sinh sống lâu đời trên lãnh thổ Việt Nam đều có chung một nhà nước là Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các thành viên của dân tộc đó là công dân Việt Nam.
Thứ hai, là những người có quốc tịch Việt Nam do sinh ra. Việc xác định quốc tịch do sinh ra là một vấn đề quan trọng trong pháp luật quốc tịch. Đối với nước ta, việc xác định quốc tịch của những trẻ em sinh ra được dựa trên cơ sở kết hợp hài hoà hợp lý của cả hai tiêu chí huyết thống và nơi sinh. Tuy nhiên, nguyên tắc huyết thống là nguyên tắc giữ vị trí ưu tiên trong Luật quốc tịch Việt Nam 1998. Đây cũng là nguyên tắc cơ bản xuyên suốt trong các văn bản pháp luật quy định về quốc tịch trước đó.
Luật quốc tịch 1998 đã kế thừa gần như hoàn toàn Điều 6 Luật quốc tịch 1988 vấn đề này tại điều 16, 17.
Điều 16:‘‘Trẻ em có cha mẹ là công dân Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam, không kể trẻ em đó sinh ra trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam’’. Nghĩa là luật xác định quốc tịch Việt Nam cho con của những người mang dòng máu Việt Nam, không phụ thuộc vào nơi sinh của chúng. Điều này phù hợp với nguyên tắc nhân đạo của Nhà nước ta để hạn chế tình trạng không quốc tịch.
Theo khoản 1 Điều 17 trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là người không quốc tịch hoặc có mẹ là công dân Việt Nam, còn cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam, không kể trẻ em đó sinh ra trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Đây cũng là điều luật khẳng định việc có quốc tịch Việt Nam không phụ thuộc vào nơi sinh. Luật quốc tịch Việt Nam 1988 tại khoản 2 Điều 6 cũng quy định tương tự.
Đặc biệt trong trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 17 Luật quốc tịch 1998: Trẻ em khi sinh ra có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài thì có quốc tịch Việt Nam nếu có sự thoả thuận bằng văn bản của cha mẹ vảo thời điểm đăng ký khai sinh cho con. Vấn đề này đã được quy định tại khoản 3 Điều 6 Luật quốc tịch 1988:‘‘Trẻ em có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là công dân nước ngoài nếu sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam hoặc khi sinh ra cha mẹ đều có nơi thường trú tại Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam trừ trường hợp cha mẹ nhất trí lựa chọn quốc tịch khác. Trong trường hợp trẻ em đó sinh ra ngoài lãnh thổ Việt Nam và khi sinh cha mẹ đều không có nơi thường trú ở Việt Nam thì quốc tịch theo sự lựa chọn của cha mẹ’’. Về hình thức, ta thấy Luật quốc tịch 1998 có cách thể hiện ngắn gọn, xúc tích, rõ ràng hơn. Về nội dung, Luật quốc tịch 1998 không đặt yếu tố nơi sinh và nơi thường trú của cha mẹ là cơ sở cho việc có hay không có quốc tịch Việt Nam mà hoàn toàn căn cứ vào nguyện vọng của cha mẹ. Luật quốc tịch Việt Nam 1998 cởi mở hơn rất nhiều so với luật quốc tịch của nhiều nước. Bởi nó đề cao và tôn trọng nguyện vọng của cha mẹ, dành cho họ quyền khá rộng trong việc lựa chọn quốc tịch cho con, trong khi đa số luật quốc tịch các nước áp dụng luôn quốc tịch nước mình trong những trường hợp tương tự.
Nguyên tắc nơi sinh chỉ áp dụng trong một số trường hợp tại Điều 18 và khoản 1 Điều 19 Luật quốc tịch 1998. Theo Điều 18, trường hợp trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh có cha mẹ đều là người không quốc tịch , hoặc mẹ là người không quốc tịch còn cha không rõ là ai nhưng có nơi thường trú ở Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam. Trường hợp trẻ sơ sinh bị bỏ rơi và trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt nam mà cha mẹ không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam(khoản 1 Điều 19). Nhưng nếu có đủ cơ sở chứng minh điều ngược lại (cha mẹ hay người giám hộ có quốc tịch nước ngoài) thì đứa trẻ sẽ không còn quốc tịch Việt Nam (khoản 2 Điều 19). Đó là sự bổ sung cần thiết khoản 4, khoản 5 Điều 6 Luật quốc tịch 1988 làm cho luật trở nên rõ ràng hơn.
Về căn cứ pháp lý, để xác định một người có quốc tịch Việt Nam, Luật quốc tịch 1998 về nội dung kế thừa Luật quốc tịch 1988 đó là đủ 5 khoản trong Điều 5. Nhưng về hình thức, Luật quốc tịch 1998 sử dụng ngôn từ chính xác và dễ hiểu hơn, thể hiện trình độ lập pháp ngày càng cao. Điều 15 Luật quốc tịch 1998 nêu 5 căn cứ pháp lý để xác định một người có quốc tịch Việt Nam:
‘‘1. Do sinh ra theo quy định tại các điều 16, 17 và 18 của Luật này;
2. Được nhập quốc tịch Việt Nam;
3. Được trở lại quốc tịch Việt Nam;
4. Theo các Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia;
5. Các căn cứ quy định tại Điều 19, 28 và 30 của Luật này.’’
Tóm lại, trên cơ sở kế thừa Luật quốc tịch Việt Nam năm 1988 và những văn bản pháp luật trước đó, Luật quốc tịch năm 1998 có những điểm phát triển hơn để phù hợp với hoàn cảnh mới và thể hiện trình độ lập pháp của các nhà làm luật.
2.3. Nhập quốc tịch Việt Nam :
Nhập quốc tịch là việc một cá nhân sau khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện mà pháp luật quy định được trở thành công dân của một Nhà nước thông qua quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Điều 20 Luật quốc tịch năm 1998 quy định về vấn đề này.
Trên cơ sở kế thừa khoản 1 Điiêù 7 Luật quốc tịch 1988.khoản 1, Điều 20 quy định các điều kiện để nhập quốc tịch Việt Nam:‘‘Công dân nước ngoài hoặc người không quốc tịch hiện đang thường trú ở Việt Nam có đơn xin nhập quốc tịch Việt Nam, thì có thể được nhập quốc tịch Việt Nam, nếu có đủ các điều kiện sau đây :
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam;
b) Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam; tôn trọng truyền thống, phong tục tập quán của dân tộc Việt Nam;
c) Biết tiếng Việt đủ để hoà nhập cộng đồng xã hội Việt Nam;
d) Đã thường trú ở Việt Nam 5 năm trở lên;
đ) Có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam.’’
So với các điều kiện trong Luật quốc tịch 1988, Luật quốc tịch 1998 nêu ra những điều kiện nhiều hơn(5 điều kiện trong khi trước đó chỉ có 3). Mặt khác, những điều kiện đã được đề cập đến trước đó nay cũng được sửa đổi, bổ sung cho cụ thể và chính xác hơn.Việc quy định các điều kiện trên nhằm đảm bảo rằng người nước ngoài sau khi nhập quốc tịch Việt Nam đã có sự hiểu biết tối thiểu về chính sách pháp luật của nhà nước, về phong tục tập quán của Việt Nam và có khả năng hoà nhập vào cộng đồng xã hội Việt NamởnTên cơ sở đó có thể ổn định cuộc sống, làm ăn tại Việt Nam.
Qua đây ta thấy, tuy các điều kiện trong Luật quốc tịch 1998 đặt ra nhiều hơn nhưng rõ ràng là mang tính khả thi, dễ thực hiện và sát hợp với thực tế hơn.
Khoản 2 quy định những trường hợp được miễn, giảm điều kiện xin nhập quốc tịch Việt Nam:‘‘Công dân nước ngoài và người không quốc tịch có thể được nhập quốc tịch Việt Nam mà không phải có đủ các điều kiện quy định tại các điểm c,d, đ khoản 1 điều này, nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây :
a) Là mẹ, chồng, con, cha hoặc mẹ của công dân Việt Nam;
b) Có công lao trong việc xây dựng và phát triển Tổ quốc Việt Nam;
c) Có lợi cho nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.’’
Nếu như khoản 2 Điều 7 chỉ nêu ‘‘Trong trường hợp có lý do chính đáng, công dân nước ngoài và người không quốc tịch có thể vào quốc tịch Việt Nam mà không đòi hỏi có đầy đủ các điều kiện quy định tại các điểm a, b và c tại khoản 1 điều này’’, mà không xác định cụ thể ‘‘lý do chính đáng’’ ở đây là gì làm cho việc áp dụng luật không thống nhất. Với sự cụ thể hoá một cách rõ ràng, khoản 2 Điều 20 đã nêu lên ba trường hợp được miễn, giảm điều kiện xin nhập quốc tịch Việt Nam làm cho việc áp dụng luật trở nên dễ dàng và chính xác hơn .Quy định mềm dẻo này giúp cho việc nhập quốc tịch Việt Nam được thuận lợi, tạo điều kiện cho người nước ngoài, người không quốc tịch có thể đoàn tụ gia đình với thân nhân của họ là công dân Việt Nam; cũng nhằm thể hiện sự biết ơn, đền đáp công lao của nhà nước Vịêt Nam đối với những người nước ngoài đã có công đóng góp đáng kể cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Mặt khác, tạo điều kiện cho những người nước ngoài có tài năng, mang lại những lợi ích đặc biệt cho nhà nước Việt Nam được nhập quốc tịch Việt Nam, giúp họ yên tâm, gắn bó và cống hiến hết sức mình cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
- Khoản 3 quy định‘‘Công dân nước ngoài được nhập quốc tịch Việt Nam thì không còn giữ quốc tịch nước ngoài, trừ trường hợp đặc biệt do Chủ tịch nước quyết định’’. Quy định này thể hiện sự thống nhất với Điều 3 Luật này về nguyên tắc một quốc tịch, nhằm tránh trường hợp một người có thể có hai hoặc nhiều quốc tịch, dễ gây ra những hậu quả pháp lý phức tạp. Tuy nhiên, thể hiện sự mềm dẻo của mình, Luật quốc tịch Việt Nam 1998 cũng đã có một chế định mở khi quy định trong trường hợp đặc biệt, người nước ngoài xin nhập quốc tịch Việt Nam có thể giữ quốc tịch nước ngoài.
Một điểm cần lưu ý nữa là nếu như Điều 7 Luật quốc tịch 1988 chỉ có ba khoản, Điều 20 Luật quốc tịch 1998 có thêm một khoản nữa là khoản 4:‘‘Người xin nhập quốc tịch Việt Nam không được nhập quốc tịch Việt Nam nếu việc đó làm phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam’’. Với việc quy định thêm một khoản trong điều luật như vậy đã thể hiện rõ nét nguyên tắc chủ quyền của nhà nước ta.
Ta thấy vấn đề nhập quốc tịch tại Điều 20 Luật quốc tịch 1998 đã kế thừa Điều 7 Luật quốc tịch 1988 song Luật quốc tịch năm 1998 phát triển hơn nhiều với việc quy định chặt chẽ,rõ ràng, mang tính khả thi và dễ áp dụng hơn trong thực tế.
2.4. Trở lại quốc tịch Việt Nam :
Vấn đề trở lại quốc tịch Việt Nam đã được quy định tại Điều 21 Luật quốc tịch 1998:
‘‘1. Người mất quốc tịch Việt Nam theo điều 23 của luật này có đơn xin trở lại quốc tịch Việt Namthì có thể được trở lại quốc tịch Việt Nam, nếu thuộc một trong các trường hợp sau :
a) Xin hồi hương về Việt Nam.
b) Có vợ, chồng, con, cha hoặc mẹ là công dân Vịêt Nam.
c) Có công lao đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
d) Có lợi cho Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Người xin trở lại quốc tịch Việt Nam không được trở lại quốc tịch Việt Nam nếu việc làm đó phương hại đến lợi ích quốc gia của Việt Nam.
Chính phủ quy định thủ tục và giải quyết đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam.’’
Trước đó, tại Điều 11 Luật quốc tịch 1988 cũng quy định: ‘‘Những người đã mất quốc tịch Việt Nam, nếu có lý do chính đáng có thể được trở lại quốc tịch Việt Nam.’’
Với hai điều luật trên ta thấy Điều 21 Luật quốc tịch 1998 có nhiều điểm phát triển hơn:
- Nếu Điều 11 chỉ quy định đối tượng được trở lại quốc tịch Việt Nam một cách chung chung là ‘‘người mất quốc tịch Việt Nam’’ thì Điều 21 chỉ ra một cách cụ thể những đối tượng đó được quy định tại Điều 23 của Luật quốc tịch năm 1998
- Trong khi Điều 11 quy định điều kiện đối với người trở lại quốc tịch Việt Nam là ‘‘có lí do chính đáng’’ thì Điều 21 nêu rõ các điều kiện, các trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam như trên.
Đồng thời, Điều 21 cũng khẳng định một người nào đó không được trở lại quốc tịch Việt Nam nếu việc đó làm phương hại đến lợi ích quốc gia Việt Nam và quy định cụ thể cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc trở lại quốc tịch Việt Nam.
Như vậy, những thay đổi của Luật quốc tịch 1998 so với các văn bản pháp luật trước đó thể hiện sự kế thừa và phát triển, khiến cho các quy định trong Luật cụ thể, chặt chẽ hơn làm cho việc áp dụng luật này ngày càng chính xác và triệt để.
2.5.Mất quốc tịch Việt Nam
Mất quốc tịch Việt Nam là việc người đang có quốc tịch Việt Nam không còn quốc tịch Việt Nam nữa. Theo Luật quốc tịch Việt Nam 1998, công dân Việt Nam mất quốc tịch Việt Nam trong những trường hợp sau:
- Được thôi quốc tịch Việt Nam:
Thôi quốc tịch Việt Nam là trường hợp công dân vì nhiều lý do khác nhau, tự nguyện xin thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch một nhà nước khác. Để tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam làm ăn sinh sống ở nước ngoài, Luật quốc tịch 1998 quy định: “Công dân Việt Nam có đơn xin thôi quốc tịch Việt Nam để nhập quốc tịch nước ngoài, thì có thể được thôi quốc tịch Việt Nam.”(khoản 1 Điều 24). Trên cơ sở tôn trọng ước nguyện chính đáng của công dân theo tinh thần của khoản 1 Điều 9 Luật quốc tịch 1988: “Công dân Việt Nam nếu có lý do chính đáng có thể được thôi quốc tịch Vệt Nam”, Luật quốc tịch 1998 đã có sự phát triển hơn hẳn. Nếu như Luật quốc tịch năm 1988 chỉ nêu chung chung “có lý do chính đáng” làm người dân rất khó để xác định lý do nào được coi là chính đáng thì Luật năm 1998 đã cụ thể hóa ngay trong điều luật là “để nhập quốc tịch nước ngoài”.
Đặc biệt thủ tục và trình tự giải quyết cho thôi quốc tịch Việt Nam cũng được quy định khá kỹ trong Nghị định số 104/1998/NĐ-CP(31/12/1998) hướng dẫn thi hành Luật quốc tịch 1998. Thời hạn xin thôi quốc tịch là không quá 6 tháng kể từ ngày Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh hoặc cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự ở Việt Nam nhận đủ hồ sơ. Điều mới cần nhấn mạnh trong việc giải quyết hồ sơ xin thôi quốc tịch Việt Nam là miễn thủ tục thẩm tra hồ sơ theo Điều 21 Nghị định 104. Như vậy, với những quy định mới trong Luật quốc tịch 1998, công dân muốn thôi quốc tịch sẽ được giải quyết một cách nhanh chóng, thuận tiện hơn nhiều so với trước đây.
- Tuy nhiên, cũng như nhiều nhà nước khác trên thế giới, pháp luật quốc tịch Việt Nam cũng quy định cụ thể những người sau đây nếu xin thôi quốc tịch Việt Nam thì chưa được thôi (khoản 2 Điều 24): Đang nợ thuế đối với nhà nước hoặc nghĩa vụ tài sản với cơ quan, tổ chức hoặc công dân Việt Nam; đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; chưa chấp hành xong bản án, quyết định của Toà án Việt Nam.
Đồng thời, luật quốc tịch 1998 cũng quy định cụ thể 2 trường hợp không được thôi quốc tịch Việt Nam là:
+ Người xin thôi quốc tịch Việt Nam mà việc đó làm phương hại đến lợi ích quốc gia Việt Nam (khoản 3 Điều 24).
+ Cán bộ công chức và những người đang phục vụ trong các lực lượng vũ trang nhân dân (khoản 4 Điều 24).
Ta thấy, không chỉ kế thừa nguyên tắc chủ quyền dân tộc được nêu tại khoản 3 Điều 9 Luật quốc tịch 1988 mà Luật quốc tịch năm 1998 còn quy định thêm trường hợp thứ hai mà trước đó chưa có, làm cho luật trở nên rõ ràng và bao quát hơn hẳn.
- Bị tước quốc tịch Việt Nam.
Theo Điều 25 Luật quốc tịch 1998, công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài hoặc người đã nhập quốc tịch Việt Nam có thể bị tước quốc tịch Việt Nam nếu như có hành động làm phương hại nghiêm trọng đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hoặc đến uy tín của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây cũng là điểm kế thừa cơ bản Luật quốc tịch 1988, thể hiện rõ nguyên tắc chủ quyền của nhà nuớc ta.
Ngoài các trường hợp cho thôi và tước quốc tịch Việt Nam quy định tại các Điều 24 và 25, việc mất quốc tịch còn xảy ra trong các trường hợp sau đây:
+ Theo điều ước quốc tế mà nhà nước Cộng hoà chủ nghĩa Việt Nam tham gia hoặc ký kết (Điều 13).
+ Huỷ bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam do người đã nhập quốc tịch Việt Nam cố ý khai báo sai sự thật hoặc hoặc giả mạo giấy tờ khi xin nhập quốc tịch Việt Nam (khoản 1 Điều 26).
Việc tách truờng hợp một công dân nước ngoài đã được nhập quốc tịch Việt Nam nay bị tước quốc tịch như trên đã trình bày với truờng hợp huỷ bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam là điểm mới so với Luật quốc tịch 1988. Đó là căn cứ cụ thể để có thể áp dụng luật trong thực tiễn.
Như vậy, về vấn đề mất quốc tịch Việt Nam, nội dung ghi nhận trong Luật quốc tịch 1998 đã nêu được một cách cụ thể những trường hợp bị mất quốc tịch Việt Nam trên cơ sở kế thừa những nội dung đã có trong Luật quốc tịch 1988. Hơn thế, việc quy định từng trưòng hợp rất cụ thể, rõ ràng nhưng cũng hết sức toàn diện, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho công dân trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình liên quan đến vấn đề quốc tịch.
2.6. Thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên và của con nuôi :
Vấn đề quốc tịch của con chưa thành niên khi cha mẹ hoặc một trong hai người thay đổi quốc tịch được quy định cụ thể tại các điều 28, 29, 30 Luật quốc tịch hiện hành.
Để đảm bảo các quyền của trẻ em, luật đã quy định về sự mặc nhiên thay đổi quốc tịch của con chưa thành niên khi cha mẹ thay đổi quốc tịch theo mong muốn chủ quan. Khoản 1 Điều 28 quy định:‘‘ Khi cha mẹ có sự thay đổi quốc tịch do nhập, thôi hoặc trở lại quốc tịch Việt Nam, thì quốc tịch của con chưa thành niên sinh sống cùng với cha mẹ được thay đổi theo quốc tịch của họ’’. Đối với những trường hợp mà chỉ cha hoặc mẹ đổi quốc tịch theo nguyện vọng chủ quan thì quốc tịch của con sẽ được xác định theo thỏa thuận của cha mẹ trên văn bản (khoản 2 Điều 28). Trường hợp mà đứa trẻ đã có sự hiểu biết và nhận thức nhất định (luật xác định trẻ em từ 15 đến 18 tuổi) thì pháp luật cũng thể hiện sự tôn trọng bằng cách để cho các em tỏ thái độ về việc thay đổi quốc tịch của mình thông qua văn bản ( nghĩa là đồng ý hay không đồng ý theo khoản 3 điều 28). Còn trường hợp cha mẹ hay chỉ một trong hai người đó thay đổi quốc tịch do bị tước quốc tịch hoặc bị huỷ bỏ quyết định nhập quốc tịch Việt Nam thì luật quy định quốc tịch của con chưa thành niên sẽ không thay đổi( theo điều 29)
Đối với những đứa trẻ được cha mẹ là người có quốc tịch khác mình nhận nuôi luật cũng quy định tại Điều 30:‘‘ Quốc tịch của con nuôi chưa thành niên:
1. Trẻ em là công dân Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi vẫn giữ quốc tịch Việt Nam.
2. Trẻ em nước ngoài được công dân Việt Nam nhận làm con nuôi thì có quốc tịch Việt Nam, kể từ ngày được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam công nhận việc nuôi con nuôi.
3. Trẻ em là người nước ngoài được cha mẹ mà một người là công dân Việt Nam, còn người kia là người nước ngoài nhận làm con nuôi thì được nhập quốc tịch Việt Nam theo đơn xin nhập quốc tịch Việt Nam của cha mẹ nuôi và được miễn các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 20 của luật này.
Sự thay đổi quốc tịch của con nuôi từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi phải được sự đồng ý bằng văn bản của người đó.’’
Trước khi Luật quốc tịch ra đời (1988), Nhà nước ta ban hành một số Sắc lệnh về vấn đề quốc tịch, nhưng chưa đầy đủ về mặt nội dung, và cụ thể những vấn đề quốc tịch của con đẻ, con nuôi chưa thành niên khi cha mẹ thay đổi quốc tịch chưa được đề cập đến. Nhà nước ban hành Luật quốc tịch đầu tiên năm 1988, tuy có nói đến vấn đề này tại các điều 12, 13, 14 nhưng tính pháp lý chưa cao
Những quy định trên không đòi hỏi sự lựa chọn quốc tịch cho con của cha mẹ hoặc sự tỏ thái độ về việc thay đổi quốc tịch của trẻ em phải được thể hiện trên văn bản. Từ đó cho thấy, về mặt lập pháp là chưa chặt chẽ, về mặt thực tế áp dụng là lỏng lẻo, dễ dẫn đến tình trạng lách luật. Trước những yêu cầu của thực tế xã hội hiện đại, Luật quốc tịch 1998 đã kế thừa và sửa đổi, bổ sung Luật quốc tịch cũ. Lấy cơ sở từ các điều 12, 13, 14 Luật quốc tịch 1988, nhưng những quy định trong các điều 28, 29, 30 Luật quốc tịch 1998 chặt chẽ hơn về ngôn ngữ và tính pháp lý, thể hiện ở sự thoả thuận của vợ và chồng khi thay đổi quốc tịch cho con (khoản 2 Điều 28), sự lựa chọn đồng ý thay đổi quốc tịch hay không của trẻ em từ 15 đến dưới 18 tuổi (khoản 3 Điều 28 và khoản 3 Điều 30) phải là trên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vấn đề quốc tịch theo pháp luật hiện hành - Những điểm kế thừa và phát triển.doc