Tiểu luận Vấn đề Tham nhũng trong hệ thống Hành chính nhà nước Việt Nam

MỤC LỤC Trang

Phần mở đầu:. 2

Chương 1: Khái quát chung về tham nhũng. 3

I.Tham nhũng: 3

1.Khái niệm. 3

2.Phân loại tham nhũng. 6

II.Ảnh hưởng của tham nhũng và sự cần thiết của các biện pháp chống tham nhũng. 7

Chương 2: Vấn đề tham nhũng trong hệ thống 8

I. Thưc trang tham nhũng trong hệ thống Hành chính nhà nước ở Việt Nam. 8

II. Nguyên nhân của Tham nhũng trong hệ thống Hành chính nhà nước ở Việt Nam. 10

Chương 3: Một số giải pháp phòng chống tham nhũng trong hệ thống Hành chính nhà nước. 12

I.Kinh nghiệm phòng chống tham nhũng của một số nước trên thế giới. 12

1.Giải pháp phòng ngừa. 12

2.Giải pháp xử lý. 13

II.Các giải pháp phòng chống tham nhũng trong hệ thống Hành chính nhà nước ở Việt Nam. 14

1.Đặc điểm tham nhũng ở Việt Nam. 14

2.Các giải pháp phòng chống tham nhũng trong hệ thống hành chính nhà nước ở Việt Nam. 16

Kết Luận: 20

Tài liệu tham khảo. 21

 

 

 

 

 

 

doc18 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 25931 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vấn đề Tham nhũng trong hệ thống Hành chính nhà nước Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sử dụng các nguồn lực trong các hoạt động giao dịch. Tham nhũng làm thay đổi mọi lĩnh vực trong xã hội như kinh tế, luật pháp quốc gia, dân chủ, luân lý, giáo dục,… Những tổn thất do tham nhũng gây nên khó đo lường hết, những tổn thất về mặt vật chất cụ thể như: -Cản trở đầu tư nước ngoài. -Thất thoát vốn đầu tư trong nước. - Giảm tốc độ làm việc, sản xuất. -Giá sản phẩm đắt hơn thực tế, lương tăng theo nhịp độ giá hàng hóa, sức cạnh tranh với nước ngoài yếu hơn. -Phá hủy chỗ làm, thất nghiệp cao. -Nợ quốc gia tăng quá mức thực tế. -Hạn chế phát triển kinh tế. Tham nhũng không những lũng đoạn xã hội về mặt vật chất mà còn làm băng hoại xã hội về mặt tinh thần như: -Nhân tài không được trọng dụng dẫn đến thất thoát ra nước ngoài. -Luật pháp quốc gia bị lũng đoạn. -Nền tảng xã hội bị hủy hoại, đạo đức bị suy đồi. -Phản giáo dục, làm gương xấu cho những thế hệ sau. Những tác hại về mặt tinh thần nêu trên là điều kiện căn bản cho sự phát triển một xã hội lành mạnh và cũng là điều kiện tiên quyết cho việc phát triển kinh tế, một quốc gia giàu mạnh. Như vậy, chúng ta đã có được cái nhìn tổng quan về tham nhũng. Khi biết được tham nhũng là gì, biết được tác hại của nó, biết được cơ chế hoạt động của nó thì vấn đề cấp thiết đặt ra là đưa ra được những biện pháp thích hợp để phòng chống tham nhũng. Chương 2: Vấn đề tham nhũng trong hệ thống Hành chính nhà nước ở Việt Nam. I. Thực trạng tham nhũng trong hệ thống hành chính nhà nước ở Việt Nam. Tham nhũng không phải là vấn đề mới phát sinh ở Việt Nam mà đã có từ lâu. Ngay từ khi thành lập nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra khuyết điểm to nhất ở các địa phương lúc bấy giờ là tham ô. Người tỏ rõ thái độ kiên quyết đấu tranh với tình trạng này bằng cách, phải dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ. Điều đó chỉ rõ ràng rằng, Đảng ta đã thực hiện đấu tranh chống tham nhũng ngay từ khi giành được chính quyền. Đảng và Nhà nước ta đã thành lập ra tổ chức chuyên trách đặc biệt để thực hiện chống tham nhũng, ban hành Sắc lệnh thành lập Ban Thanh tra đặc biệt và các sắc lệnh khác liên quan đến chống tham nhũng. Thời kỳ hòa bình lập lại, qua các kỳ Đại hội, Đảng ta đều chú trọng đã ban hành các nghị quyết về nâng cao ‎ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý‎ kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu; Nghị quyết về cuộc đấu tranh chống lấy cắp tài sản xã hội chủ nghĩa, tăng cường quản lý‎ lao động, quản lý‎ thị trường, giữ vững trật tự an ninh, phục vụ tốt đời sống nhân dân, các nghị quyết về phòng, chống tham ô, lãng phí. Sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới với nhiều chủ trương, biện pháp quyết liệt của Đảng, cuộc đấu tranh chống tham nhũng của ta đã đạt được một số kết quả khả quan: Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị chỉ rõ ‎ý nghĩa, tầm quan trọng, mục tiêu, nhiệm vụ; những chủ trương, giải pháp chủ yếu của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Các cấp ủy đảng và chính quyền từ trung ương đến địa phương đã quan tâm hơn đến công tác kiểm tra, thanh tra, nhất là kiểm tra, thanh tra công tác xây dựng cơ bản, quản lý‎ đất đai, thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Quốc hội và HĐND các cấp đã dành nhiều thời gian để giám sát công tác phòng, chống tham nhũng. Cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, công an, viện kiểm sát, tòa án được củng cố một bước cả về thẩm quyền pháp l‎ý, cơ chế hoạt động, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất. Việc xử lý‎ tham nhũng bước đầu có sự chuyển biến tích cực, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Vai trò giám sát, tham gia của nhân dân trong công tác phòng chống tham nhũng lãng phí được nâng cao và có đóng góp thiết thực hơn; Đảng đã chú trọng tổ chức cho cán bộ, đảng viên, công chức và toàn dân học tập các nghị quyết của Đảng, học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, tìm hiểm về Đảng, Bác Hồ, đất nước… Trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước ta đã nhận thức ngày càng rõ ràng hơn về vấn đề tham nhũng. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề là một bước quan trọng trong quá trình phòng chống tham nhũng. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta cũng đã có những giải pháp cụ thể trong việc phòng chống tham nhũng. Đặc biệt Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 8 ngày 19/11/2005 đã thông qua luật phòng - chống tham nhũng và Luật có hiệu lực từ 1/6/2006. Tiếp đó, Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ nhất ngày 4/8/2007 cũng đã sửa đổi, bổ sung một số điều trong luật phòng - chống tham nhũng có hiệu lực từ ngày công bố ( 17/8/2007). Trong mấy năm gần đây qua các phiên họp Quốc hội cũng tiến hành bổ sung, điều chỉnh một số điều trong luật cho phù hợp với thực tiễn. Luật được thông qua và đưa vào thực tiễn có một tác dụng rất to lớn đối với công tác phòng-chống tham nhũng ở Việt Nam. Điển hình cho hiệu quả của Luật là trong những năm gần đây Nhà nước ta đã phá được các vụ án tham nhũng khá lớn. Tuy vậy, việc đưa luật vào thực tế là một quá trinh lâu dài và cần phải có sự điều chỉnh theo từng giai đoạn, bên cạnh đó còn có một số những điều kiện khách quan chi phối nên số vụ và hình thức tham nhũng vẫn còn nhiều. Tình trạng tham nhũng ở Việt Nam xuất hiện ở tất cả các cấp, các ngành, lĩnh vực từ quy mô nhỏ tới quy mô lớn. Chúng ta lại thiếu các biện pháp đồng bộ, chưa quyết liệt, triệt để, còn né tránh, nể nang và trong chừng mực nhất định, còn có sự thỏa hiệp trong lãnh đạo điều hành ở các cấp. Theo báo cáo của chính phủ tại kỳ họp thứ 10 khóa IX đã phát hiện và xủ lý trên 500 vụ tham nhũng với tổng số thiệt hại tài sản trên 1,2 tỷ đồng và trên 34 triệu USD. Năm 1996 đã phát hiện 10 vụ tham nhũng lớn trên 100 tỷ đồng/vụ. Theo báo cáo của chánh tòa án nhân dân tối cao trước quốc hội từ năm 1992 đên 1997 tào đã xét xử 3021 vụ tham những vơi 6.315 bị cáo, trong đó có 64,5% số bị cáo bị tù, 10 tên đã bị tuyên án tử hình. Năm 2006, qua điều tra đã phát hiện tổng sai phạm trị giá 858 tỷ 969 triệu đồng. 5.487.583 USD, 120.569 EUR. Số liệu do các chuyên gia đưa ta trong chương trình Hội thảo: “ Cải cách hành chính cấp tỉnh: Hiện trạng và khuyến nghị” do ban Dân chủ- Pháp luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tổ chức tại thành phố Đà Nẵng sáng 7/5/2009 cho biết: Tham nhũng trong lĩnh vực đất đai chiến tỷ lệ 20,8%, giao thông chiến 11,3%, lĩnh vực hành chính công chiến 10%, ngành xây dựng chiến 7,1%, tài chính-ngân hàng chiếm 4,9%... Bên cạnh đó đánh giá theo tỷ lệ phân bổ theo địa lý thì các địa phương phía Nam chiếm 25%, phía Bắc chiếm 24%, miền Trung chiếm 18%. Như vậy, mặc dù đã có luật phòng - chống tham nhũng nhưng quá trình thực thi vẫn gặp nhiều vướng mắc cho nên tình trạng tham nhũng vẫn tiếp diễn và đang có nguy cơ ngày càng phát triển và mức độ nghiêm trọng tăng dần. II. Nguyên nhân của tham nhũng trong hệ thống hành chính nhà nước ở Việt Nam. Như trên đã nói tình hình tham nhũng ở nước ta đặc biệt là trong lĩnh vực hành chính công (chiếm 10%, năm 2009) đã và đang phát triển. Bất kì một hiện tượng nào cũng có nguyên nhân của nó. Có điều đó là do một số nguyên nhân cơ bản sau: Nguyên nhân đầu tiên và căn bản nhất là do chế độ người bóc lột người sinh ra. Một đặc điểm nổi bật của sự vận động xã hội, khác với mọi sự vân động vật chất khác trong tự nhiên ở chỗ con người hành động đều có mục đích là lợi ích. Bởi vậy sự tồn tại của của sự bóc lột và tư tưởng chiếm hữu chính là nguyên nhân của các hành vi tham nhũng. Khi mà chưa xóa bỏ sự sự bất bình đẳng trong xã hội thì tham nhũng vẫn còn có cơ sở để tồn tại. Nguyên nhân thứ hai đó là hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách nước ta còn nhiều kẽ hở. Pháp luật về phòng ngừa tham nhũng được thể hiện ở rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau, trong đó quan trọng nhất là luật phòng-chống tham nhũng. Luật phòng-chống tham nhũng đã có hiệu lực nhưng quá trình thực thi của luật thì còn nhiều điểm hạn chế chưa phát huy hết hiệu lực của luật. Thêm vào đó công tác soạn thảo luật của nước ta vẫn chưa hoàn thiện nên còn nhiều điểm chưa đánh giá hết tình hình thực tế khách quan để ban hành văn bản phù hợp.Ngoài ra công tác tuyên truyền pháp luật cũng chưa được chú ý đúng mức, chưa pháp động và đánh trúng ý thức của toàn xã hội. Nguyên nhân thứ ba là do những sai lầm khuyết điểm trong hoạt động của một số cơ quan Đảng và nhà nước. Tệ tham nhũng nói chung và các tội phạm có tính chất tham nhũng phát triển phổ biến, gây hậu quả nghiêm trọng như hiện nay là do những sai lầm, khuyết điểm trong hoạt động của nhiều cơ quan Đảng và Nhà nước và do sự thoái hóa của một bộ phận cán bộ, Đảng viên. Nguyên nhân thứ tư là những yếu kém trong công tác tổ chức cán bộ do sự buông lỏng, yếu kém trong quản lý nhà nước. Đảng ta chỉ rõ: “ Công tác cán bộ vừa bảo thủ, vừa trì trệ về nhiều mặt, vi phạm nguyên tắc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đề bạt cán bộ. Việc đào tạo cán bộ nhất là cán bộ kinh tế từ trước đến nay chưa được quan tâm đúng mức, chưa đáp ứng nhu cầu về phát triển kinh tế thị trường”. Nguyên nhân thứ năm là do bản chất của nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường vai trò của đồng tiền được đặt lên rất cao. Có không ít cá nhân, tổ chức vì những mục tiêu riêng để tồn tại trong sự cạnh tranh khốc liệt đã dùng nhiều thủ đoạn, trong đó có thủ đoạn hối lộ được sử dụng phổ biến. Và có người hối lộ tất yếu sẽ có người nhận hối lộ. Nguyên nhân thứ sáu là do trình độ dân trí. Nói chung trình độ dân trí vẫn còn thấp nên nhân dân chưa có nhiều khả năng tham gia quản lý nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước và của các cán bộ công chức. Nguyên nhân thứ bảy là do cuộc đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng động chạm đến những cán bộ có chức có quyền, có khi động chạm đến cả một tập thể ngành, cơ quan, đơn vị, động chạm đến lợi ích thiết thực, đến thể diện, uy tín của cán bộ. Hơn nữa tệ nạn tham nhũng vẫn còn cơ sở kinh tế - xã hội để tồn tại. Vì thế cuộc đấu tranh chống tham nhũng là một quá trình lâu dài, phức tạp. Những nguyên nhân chủ quan và khách quan trên đã phần nêu lên được vì sao có thực trạng tham nhũng như hiện nay trong các cơ quan hành chính nhà nước. Cần phải nhấn mạnh rằng khi mà nhà nước đang tồn tại thì tham nhũng cũng vẫn sẽ tồn tại. Tham nhũng không thể xóa bỏ hoàn toàn mà chỉ có thể ngăn ngừa để tránh những thiệt hại nghiêm trọn. Chỉ có thể giảm bớt tham nhũng chứ không thể xóa bỏ triệt để. Và để ngăn chặn tham nhũng không phải là không thể làm được. Điều quan trọng là chúng ta cần có những biện pháp thích hợp để phòng chống. Chương 3: Một số biện pháp phòng chống tham nhũng trong hệ thống hành chính nhà nước. I. Kinh nghiệm phòng chống tham nhũng của một số nước trên thế giới. Giải pháp phòng chống tham nhũng của các nước là không hoàn toàn giống nhau, nhưng nhìn chung đều có hai giải pháp chính là phòng ngừa và xử lý. Một số nước có chiến lược cống tham nhũng trong đó xác định rõ chủ trương, giải pháp, bước đi, lực lượng tiến hành. Có những nước còn đề ra chiến lược cho từng ngành. Nhiều nước tìm các giải pháp để làm cho công chức “ không cần tham nhũng, không thể tham nhũng và không dám tham nhũng”. Việc tìm hiểu các giải pháp phòng ngừa của các nước trên thế giới là sự cần thiết bởi vì tuy có điểm riêng nhưng cũng có những điểm tương đồng ở một số nước. Từ việc tìm hiểu chúng ta có thể tiếp thu các giải pháp tích cực để cải tiến áp dụng cho phù hợp với tình hình của nước ta. 1.Nhóm giải pháp phòng ngừa. Các nước đều coi trọng giải pháp phòng ngừa vì đây là biện pháp hiệu quả nhất. Các giải pháp phòng ngừa mà các nước thường hay áp dụng là: -Chú trọng công tác giáo dục con người. Đối với người dân, giáo dục cho mọi người ngay từ nhỏ về đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, cách ứng xử văn minh , tuyên truyền cho người dân nhận diện được các hành vi tham nhũng. Chiến lược chống tham nhũng của Hồng Kông có 3 phần lớn, trong đo một phần là giáo dục công chúng về tác hại của tham nhũng và tìm kiếm sự ủng hộ, tham gia tích cực của công chúng. Đối với công chức thì các nước đều coi trọng việc giáo dục đạo đức cho công chức và xây dựng đội ngũ công chức trong sạch, liêm khiết. Một số nước ban hành luật về đạo đức cong chức như: Thụy Điển, Hàn Quốc, Ma-lai-xi-a, Cộng hòa liên bang Đức,… Đảng Cộng sản Trung Quốc đã ban hành những quy định về giáo dục đức tự răn mình cho công chức, coi đây là biện pháp quan trọng để câu dựng đội ngũ công chức trong sạch, vững mạnh. -Thực hiện nguyên tắc công khai,,minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Nhiều nước như Thụy Điển, Công hòa liên bang Đức, Đan Mạch, Thụy sỹ quy định: Mọi người dân đều có quyền tiếp cận với thông tin trừ những thông tin liên quan đến an ninh quốc gia; Tất cả các tài liệu của chính phủ và các cơ quan nhà nước từ Trung ương cho đên địa phương trừ tài liệu mật quốc gia đều phải được đăng tài trên các phương tiện truyền thông chính thức; Tự do báo chí; ngoài ra còn nhiều quy định khác về nhưng vẫn đề phải công khai. -Phòng ngừa xung đột giữa lợi ích riêng và lợi ích chung. Nói cách khác là làm cho công chức không có cơ hội lợi dụng địa vị công tác của mình để thu lợi riêng gây thiệt hại đến lợi ích chung. Bao gồm những quy định về xây dụng và thực hiện quy chế tuyển dụng, đề bạt cán bộ, công chức công khai, dân chủ; Quy định khi công chức từ chức hoặc nghỉ hưu không được thực hiện các hoạt động kinh doanh thuộc lĩnh vực công tác trước đây. Các nước như Trung Quốc, Ma-lai-xi-a, Singgapore đều có quy định này. -Quy định về kê khai tài sản công chức. Tại Trung Quốc cứ mỗi năm 2 lần công chức phải kê khai tài sản và việc kiểm tra giám sát kê khai do một Ủy ban riêng tiến hành. Còn tại Hàn Quốc, Thái Lan yêu cầu kê khai sau khi được tuyển dụng, trong đó Thái Lan còn yêu cầu khi thôi chức cũng phải công khai. Tất cả các nước này đều có một tổ chức đảm nhiệm việc kê khai và nếu công chức không chứng minh được nguồn gốc tài sản đó thì sẽ bị xử lí theo luật định. -Trả lương cao cho công chức cũng là một biện pháp mà các nước hay dùng. Nhiều nước như Nhật Bản, Cộng hòa liên bang Đức, Singgapore trả lương cao cho công chức không cần tham nhũng cũng đủ dùng. Singgapore trả lương cho sinh viên mới ra trường là 2.200 đô la Singgapore, tương đương 20 triệu đồng Việt Nam, lương của Bộ trưởng là hơn 1 triệu đô la Singgapore tương đương với hơn 10 tỷ đồng Việt Nam. 2.Nhóm giải pháp xử lý tham nhũng. 2.1.Các biện pháp phát hiện tham nhũng. Phần lớn những người thực hiện hành vi tham nhũng là những người có trình độ cao, có hiểu biết và có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn nên phát hiện ra hành vi tham nhũng là việc làm rất khó khăn. Hầu hết các nước sử dụng các biện pháp xử lý sau: -Khuyến khích sự tham gia và phát huy vai trò to lớn của quần chúng nhân dân, các tổ chức xã hội và các phương tiện thông tin đai chugns trong việc phát hiện, tố giác các hành vi tham nhũng. Một số nước thiết lập đường dây nóng như: Cô-lôm-bi-a, Bra-xin, Singgapore,… Ở Trung Quốc có cơ quan chức năng xem xét tất cả các đơn thư tố giác của người dân về tham nhũng. Nhiều nước như Pháp, Tây Ban Nha có biện pháp bảo vệ người tố giác. -Ở một số nước cho phép cơ quan chức năng sử dụng một số biện pháp như nghe trộm điện thoại, xây dựng cơ sở bí mật,… 2.2.Các biện pháp xử lý tham nhũng. Các nước trên thế giới đều coi tham nhũng là tội phạm hình sự và quy định chế tài nghiêm khắc để xử lý loại tội phạm này làm cho công chức không dám tham nhũng. Trong bộ luật hình sự của hầu hết các nước đều có một chương riêng quy định về tội tham nhũng, trong đó quy định những hành vi được coi là tham nhũng và hình phạt tương ứng. Ma-lai-xi-a có luật chống tham nhũng năm 1961 và sửa đổi năm 1997; Paki-xtan có luật chống hối lộ năm 1947; Thụy Điển có luật chống hối lộ trong ngành tòa án từ năm 1734, Bộ luật chống tham nhũng trong khu vực công năm 1919 và Bộ luật chống tham nhũng toàn diện năm 1977; Trung Quốc có luật chống hối lộ năm 1988 và luật chống tham nhũng năm 1997; Hồng-Kông có luật chống tham nhũng năm 1975; Singgapore có luật chống tham nhũng năm 1960; Thái Lan có luật chống tham nhũng năm 1975, đến 1977 đưa cả một số quy định về chống tham nhũng vào Hiến pháp;… II. Các giải pháp phòng chống tham nhũng trong hệ thống hành chính nhà nước ở Việt Nam. 1.Đặc điểm tham nhũng ở Việt Nam. Muốn đưa ra biện pháp đấu tranh phòng chống tham nhũng thích hợp thì không những phải biết rõ nguyên nhân, cơ chế tham nhũng mà còn phải biết rõ đặc điểm tham nhũng ở nơi đó. Tham nhũng trên thế giới cũng có những đặc điểm chung nhưng nếu dựa vào đặc điểm chung để chống tham nhũng trong từng nước cụ thể thì khó mà đặt được kết quả cao, thậm chí có thể khiến tình hình trở nên khó khăn hơn. Bởi vì, mỗi quốc gia trên thế giới có những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, … khác nhau. Cho nên khi nghiên cứu và đưa ra giải pháp cho tình hình tham nhũng ở Việt Nam không thể không đề cập đến đặc điểm tham nhũng ở Việt Nam. Ở Việt Nam, các nhà khoa học pháp lý nhìn nhận tham nhũng trên các bình diện: chính trị, kinh tế, pháp lý, đạo đức, truyền thống...và đặc biệt là bằng công cụ của tội phạm học để ghi nhận tính chất, đặc điểm và mức độ của tham nhũng. Trên quan điểm tổng thể đó đã nêu ra những đặc trưng cơ bản của tham nhũng như sau: Thứ nhất, chủ thể của tham nhũng phải là những người có chức vụ quyền hạn làm việc trong bộ máy nhà nước ở các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp từ trung ương đến địa phương, cán bộ trong Đảng và các đoàn thể. Thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn, lợi dụng địa vị công tác được giao để không làm hoặc làm trái với công vụ mà mình phải thực hiện và thực hiện đúng qui định của pháp luật, gây thiệt hại chung cho lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân.. Thứ ba, người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi với động cơ vụ lợi cho bản thân mình, cho người khác hoặc một nhóm người mà mình quan tâm. Từ những đặc trưng trên và qua nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy tham nhũng ở Việt Nam có những đặc điểm chính sau: Thứ nhất, về tính chất của tham nhũng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay chưa ở mức đặc biệt nghiêm trọng so với khu vực và thế giới. Khi nói đến tính chất của hành vi vi phạm hoặc hành vi phạm tội người ta thường xác định ở mức độ gây ra thiệt hại của hành vi (thiệt hại về vật chất và phi vật chất) và quan hệ xã hội được bảo vệ bị hành vi đó xâm hại. Xét cả trên hai bình diện này thì tham nhũng ở Việt Nam chưa đến mức trầm trọng như tham nhũng ở một số nước trên thế giới bởi: Theo thống kê và báo cáo của các cơ quan có trách nhiệm đấu tranh chống tham nhũng thì những thiệt hại về vật chất do tham nhũng gây ra ít hơn rất nhiều so với những thiệt hại do các loại vi phạm khác gây ra, hàng năm thiệt hại do tham nhũng gây ra khoảng vài trăm tỷ đồng trong khi đó thiệt hại do những vi phạm và tội phạm khác gây ra là hàng trăm nghìn tỷ đồng. Mặt khác, theo báo cáo của cơ quan công an thì các tội tham nhũng trong những năm qua có xu hướng giảm; Chưa có tham nhũng chính trị ở Việt Nam với những biểu hiện như đầu cơ chính trị, buôn bán chức quyền trong bộ máy cơ quan nhà nước ... vì thế tham nhũng chưa xâm hại đến sự tồn tại của chế độ đến nền độc lập và chủ quyền quốc gia của dân tộc. Đồng thời tham nhũng ở Việt Nam chưa có nguy cơ gây khủng hoảng nền kinh tế, chính trị và xã hội. Thứ hai, tham nhũng ở nước ta chưa có các tổ chức theo kiểu Maphia Theo cách hiểu thông thường của các quốc gia và tổ chức quốc tế về đấu tranh chống tội phạm thì Maphia là những băng nhóm phạm tội có tổ chức chặt chẽ, có sự phân công phối hợp khi hành động phạm tội, đồng thời việc thực hiện tội phạm mang tính chất chuyên nghiệp và có sự tham gia cấu kết của các quan chức chính phủ. Diễn giải theo công thức thì Maphia = Tội phạm có tổ chức + sự cấu kết của quan chức chính phủ. Trên cơ sở quan niệm này đối chiếu với thực trạng của tình hình tham nhũng ở Việt Nam thời gian qua thì ở nước ta chưa có tham nhũng theo kiểu Maphia vì: Những năm qua chúng ta chưa xử lý (hoặc chưa phát hiện được) những cán bộ cao cấp của Đảng và nhà nước về hành vi tham nhũng, nhất là những cán bộ giữ các vị trí chủ chốt trong các cơ quan Đảng, Quốc hội, Chính phủ mà chúng ta mới chỉ phát hiện và xử lý một số cán bộ trong các ngành Hải quan, Ngân hàng, Công an, Viện Kiểm sát... nhưng họ chỉ là những cán bộ sơ, trung cấp. Chúng ta cũng kỷ luật về Đảng và chính quyền một số cán bộ cao cấp nhưng phần lớn những người đó không phải bị chịu trách nhiệm về tham nhũng mà họ chỉ phải chịu trách nhiệm về công tác quản lý mà họ không hoàn thành hoặc chủ quan, lơi lỏng mất cảnh giác trong khi thực thi nhiệm vụ. Điều quan trọng hơn để khẳng định ở nước ta chưa có tham nhũng theo kiểu Maphia là những cán bộ bị xử lý về tham nhũng đều không phải là những người chủ động, bày mưu tính kế, đều không phải là những người tổ chức, chỉ huy, cầm đầu trong các vụ án mà chỉ là những kẻ tha hoá, biến chất, đồng loã, bị những kẻ phạm tội từng bước lôi kéo vào làm vai trò giúp sức cho chúng. Thứ ba, tham nhũng ở nước ta mang tính phổ biến, nhỏ nhặt xảy ra ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Do những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, đạo đức truyền thống mà nạn tham nhũng ở nước ta trong thời kỳ hiện nay không to, không mang tính chất đặc biệt nghiệm trọng như các quốc gia khác thậm chí nó còn nhỏ nhặt tới mức tiền hoặc tài sản của đương sự hối lộ cho các quan chức chỉ trên mức quà biếu thông thường một chút mà xã hội có thể chấp nhận được, nhưng nó lại mang tính phổ biến. Như vây, chúng ta đã nhận biết được những đặc điểm riêng của tham nhũng ở Việt Nam. Đây là một điều kiện quan trọng để góp phần đưa ra các biện pháp phòng chống tham nhũng tại Việt Nam. 2.Các biện pháp phòng chống tham nhũng trong hệ thống hành chính nhà nước Việt Nam. Những giải pháp trên của các nước trên thế giới có tính chất tham khảo để làm kinh nghiệm trong công cuộc phòng chống tham nhũng cho Việt Nam. Còn tại Việt Nam, do những điều kiện kinh tế, xã hội,… có điểm khác biệt so với các nước trên thế giới cho nên muốn phòng chống tham nhũng ở Việt Nam cũng cần có những giải pháp riêng để cải thiện tình hình, ngăn chặn những ảnh hưởng mà tham nhũng gây ra. Sau đây là một vài biện pháp phòng chống tham nhũng có thể áp dụng trong công cuộc phòng chống tham nhũng tại Việt Nam: Thứ nhất đối với nguyên nhân sâu xa là chế độ người bóc lột người thì chúng ta phải nhận thức đúng “sự bóc lột” ở đây khác hẳn với sự bóc lột của một số nước trên thế giới. Sự bóc lột hay là nguyên nhân bất bình đẳng đã làm gia tăng tệ nạn tham nhũng. Ở Việt Nam, Nhà nước ta là nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa nên tính chất bóc lột không còn gay gắt như các nước mà chỉ là một bộ phận. Điều đáng nói là một bộ phận này cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế-xã hội nước ta. Cần phải nhận thức rằng chừng nào còn nhà nước thì vẫn còn sự thống trị nhưng bản chất mỗi nhà nước lại khác nhau về chất nên sự bóc lột ở đây là hoàn toàn khác nhau. Ở các nước xã hội chủ nghĩa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐề tài- Vấn đề Tham nhũng trong hệ thống Hành chính nhà nước Việt Nam (2).doc
Tài liệu liên quan