Theo số liệu thống kê những năm gấn đây cho thấy, việc thu hút vốn đầu tư ODA của Việt Nam qua các năm đều có sự tăng trưởng nhất định, năm sau cao hơn năm trước. Đặc biệt là những năm gần đây, mặc dù tình hình tài chính Thế Giới có nhiều khó khăn nhưng nguồn vốn ODA các nước cam kêt dành cho Việt Nam vẫn không hề suy giảm mà có sự tăng trưởng ngoạn mục.
Trong đó, đứng đầu trong danh sách tài trợ là EU, Nhật Bản, Ngân hàng thế giới WB, ngân hàng phát triển châu Á(ADB), Pháp, Trung Quốc,.
Trong những năm gần đây, Thế Giới ghi nhận những tiến bộ của Việt Nam trong việc thu hút cam kết tài trợ nhờ vào những thay đổi trong chính sách thu hút vốn.
Phía các nhà tài trợ hàng đầu là EU, Nhật Bản, ADB đều có nhận định tích cực về điều này, trong đó có việc giải ngân vốn ODA của Việt Nam đã tăng tương đối nhanh so với những năm trước và khá cao so với những nước trong khu vực. Hai ví dụ điển hình là việc thu hút và sử dụng vốn ODA ở hai dự án là Cảng Hải Phòng và Quốc lộ số 5.
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7220 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vấn đề thu hút và sử dụng vốn ODA tại Việt Nam thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyệt
Người thực hiện: Đỗ Tuấn Long
Học viên lớp: 18M
Khoa: Kinh tế chính trị
HÀ NỘI - 8/2010LỜI NÓI ĐẦU
Vốn luôn được coi là một trong những nhân tố quyết định cho quá trình sản xuất kinh doanh và tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Đặc biệt là để đạt tăng trưởng kinh tế cao, vấn đề tạo nguồn vốn và sử dụng nó một cách có hiệu quả càng trở nên cần thiết đối với tất cả các quốc gia muốn trở thành nước công nghiệp hoá với thời gian ngắn nhất
Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay, với vị trí là một quốc gia đang phát triển, việc nhận trợ cấp từ nước ngoài để phát triển nền kinh tế còn lạc hậu trong nước là một trong những giải pháp thiết yếu của Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam đã thu được những kết quả đáng khả quan như tốc độ tăng trưởng nhanh, lạm phát ở mức có thể kiểm soát được, nhưng để duy trì tốc độ tăng trưởng như vậy thì nhu cầu về vốn đầu tư là rất lớn. Trong khi đó nền kinh tế nước ta lại có xuất phát điểm thấp, nghèo nàn, lạc hậu nên nguồn vốn trong nước không thể đáp ứng hết nhu cầu về vốn đầu tư đó. Vì vậy, nguồn vốn đầu tư nước ngoài nói chung và nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) nói riêng là rất quan trọng.
Nguồn vốn ODA đã hỗ trợ đắc lực cho phát triển hạ tầng cơ sở ở Việt Nam, đồng thời là sự phát triển về mặt xã hội trong thời kì xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bằng việc tiếp nhận và triển khai vốn ODA, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích nổi bật, được thế giới ghi nhận và đánh giá cao. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, việc thu hút và sử dụng vốn ODA vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập.
Theo nhận định của chính phủ, giai đoạn 2006-2010, trong bối cảnh ODA thế giới có nhiều thuận lợi nhưng còn nhiều thách thức, Việt Nam tiếp tục có một số lợi thế để thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, song đi cung với nó là không ít những khó khăn cần khắc phục để đạt được hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn trên, tránh tình trạng biến Việt Nam trở thành “ con nợ ” đồng thời thúc đẩy quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong bài tiểu luận dưới đây, tôi xin được trình bày một vài ý kiến về vấn đề thu hút và sử dụng vốn ODA ở Việt Nam, thực trạng cũng như một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Do thời gian có hạn, cũng như khả năng nắm bắt vấn đề còn hạn chế, bài tiểu luận không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ các thầy cô và các bạn.
Chương I
TỔNG QUAN VỀ NGUỒN VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA)
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ODA
1. Khái niệm.
Theo cách hiểu chung nhất, ODA là tất cả các khoản hỗ trợ không hoàn lại và các khoản tín dụng ưu đãi (cho vay dài hạn và lãi suất thấp của các Chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liệp hợp quốc, các tổ chức phi Chính phủ (NGO), các tổ chức tài chính quốc tế (IMF, ADB, WB...) giành cho các nước nhận viện trợ. ODA được thực hiện thông qua việc cung cấp từ phía các nhà tài trợ các khoản viện trợ không hoàn lại, vay ưu đãi về lãi suất và thời hạn thanh toán (theo định nghĩa của OECD, nếu ODA là khoản vay ưu đãi thì yếu tố cho không phải đạt 25% trở lên). Về thực chất, ODA là sự chuyển giao một phần GNP từ bên ngoài vào một quốc gia, do vậy ODA được coi là một nguồn lực từ bên ngoài.
ODA có các hình thức sau:
Hỗ trợ cán cân thanh toán: Thường là tài trợ trực tiếp (chuyển giao tiền tệ. Nhưng đôi khi lại là hiện vật (hỗ trợ hàng hoá) như hỗ trợ nhập khẩu bằng hàng hoặc vận chuyển hàng hoá vào trong nước qua hình thức hỗ trợ cán cân thanh toán hoặc có thể chuyển hoá thành hỗ trợ ngân sách.
Tín dụng thương mại: Với các điều khoản "mềm" (lãi suất thấp, hạn trả dài) trên thực tế là một dạng hỗ trợ hàng hoá có ràng buộc.
Viện trợ chương trình (gọi tắt là viện trợ phi dự án): là viện trợ khi đạt được một hiệp định với đối tác viện trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA cho một mục đích tổng quát với thời hạn nhất định, mà không xác định một cách chính xác nó sẽ được sử dụng như thế nào.
Hỗ trợ cơ bản chủ yếu là về xây dựng cơ sở hạ tầng. Thông thường, các dự án này có kèm theo một bộ phận không viện trợ kỹ thuật dưới dạng thuê chuyên gia nước ngoài để kiểm tra những hoạt động nhất định nào đó hoặc để soạn thảo, xác nhận các báo cáo cho đối tác viện trợ.
Hỗ trợ kỹ thuật: chủ yếu tập trung vào chuyển giao tri thức hoặc tăng cường cơ sở lập kế hoạch, cố vấn nghiên cứu tình hình cơ bản, nghiên cứu khi đầu tư. Chuyển giao tri thức có thể là chuyển giao công nghệ như thường lệ nhưng quan trọng hơn là đào tạo về kỹ thuật, phân tích kinh tế, quản lý, thống kê, thương mại, hành chính nhà nước, các vấn đề xã hội.
2. Phân loại ODA:
Tuỳ theo phương thức phân loại mà ODAđược xem có mấy loại:
a. Phân theo phương thức hoàn trả: ODA có 3 loại.
- Viện trợ không hoàn lại: bên nước ngoài cung cấp viện trợ (mà bên nhận không phải hoàn lại) để bên nhận thực hiện các chương trình, dự án theo sự thoả thuận trước giữa các bên.
Viện trợ không hoàn lại thường được thực hiện dưới các dạng:
+ Hỗ trợ kỹ thuật.
+ Viện trợ nhân đạo bằng hiện vật.
- Viện trợ có hoàn lại: nhà tài trợ cho nước cần vốn vay một khoản tiền (tuỳ theo một quy mô và mục đích đầu tư) với mức lãi suất ưu đãi và thời gian trả nợ thích hợp.
Những điều kiện ưu đãi thường là:
+ Lãi suất thấp (tuỳ thuộc vào mục tiêu vay và nước vay).
+ Thời hạn vay nợ dài (từ 20 - 30 năm)
+ Có thời gian ân hạn (từ 10 - 12 năm)
- ODA cho vay hỗn hợp: là các khoản ODA kết hợp một phần ODA không hoàn lại và một phần tín dụng thương mại theo các điều kiện của tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển.
b. Nếu phân loại theo nguồn cung cấp, ODA có hai loại:
- ODA song phương: Là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến nước kia thông qua hiệp định được ký kết giữa hai Chính phủ.
- ODA đa phương: là viện trợ chính thức của một tổ chức quốc tế (IMF, WB1...) hay tổ chức khu vực (ADB, EU,...) hoặc của một Chính phủ của một nước dành cho Chính phủ của một nước nào đó, nhưng có thể được thực hiện thông qua các tổ chức đa phương như UNDP (Chương trình phát triển Liên hiệp quốc), UNICEF (quĩ nhi đồng Liên Hiệp quốc)... có thể không.
Các tổ chức tài chính quốc tế cung cấp ODA chủ yếu:
+ Ngân hàng thế giới (WB).
+ Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF).
+ Ngân hàng phát triển Châu á (ADB)
c. Phân loại theo mục tiêu sử dụng, ODA có 4 loại:
Hỗ trợ cán cân thanh toán: gồm các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ ngân sách của Chính phủ, thường được thực hiện thông qua các dạng: chuyển giao trực tiếp cho nước nhận ODA hay hỗ trợ nhập khẩu (viện trợ hàng hoá).
Tín dụng thương nghiệp: tương tự như viện trợ hàng hoá nhưng có kèm theo điều kiện ràng buộc.
Viện trợ chương trình (viện trợ phi dự án): Nước viện trợ và nước nhận viện trợ kế hiệp định cho một mục đích tổng quát mà không cần xác định tính chính xác khoản viện trợ sẽ được sử dụng như thế nào.
Viện trợ dự án: chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn thực hiện ODA. Điều kiện được nhận viện trợ dự án là "phải có dự án cụ thể, chi tiết về các hạng mục sẽ sử dụng ODA".
3. Các nguồn cung cấp ODA chủ yếu:
* Trong thời kỳ chiến tranh lạnh và đối đầu Đông Tây: Trên thế giới tồn tại 3 nguồn ODA chủ yếu:
- Liên xô cũ, Đông Âu.
- Các nước thuộc tổ chức OECD.
- Các tổ chức quốc tế và phi Chính phủ.
* Hiện nay, trên thế giới có hai nguồn ODA chủ yếu: các nhà tài trợ đa phương, và các tổ chức viện trợ song phương.
* Các nhà tài trợ đa phương gồm các tổ chức chính thức sau:
- Các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hiệp Quốc bao gồm:
+ Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP).
+ Quĩ nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF).
+ Tổ chức Nông nghiệp và lương thực (FAO)
+ Chương trình lương thực thế giới (WFP)
+ Quĩ dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA)
+ Tổ chức y tế thế giới (WHO)
+ Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hiệp Quốc (UNIDO)
+ Quĩ phát triển nông nghiệp quốc tế (IFDA).
- Các tổ chức tài chính quốc tế:
+ Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF)
+ Ngân hàng thế giới (WB)
+ Ngân hàng phát triển Châu á (ADB)
- Liên minh Châu Âu (EU).
- Các tổ chức phi Chính phủ (NGO)
- Tổ chức xuất khẩu dầu mỡ (OPEC)
- Quĩ Cô - Oét.
* Các nước viện trợ song phương:
- Các nước thành viên Uỷ ban Hỗ trợ phát triển (DAC) của tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD).
- Các nước đang phát triển.
4.ODA - một nguồn vốn cần thiết
A .Một vài ưu điểm của nguồn vốn ODA
ODA, với những ưư điểm như qui mô lớn, lãi suất thấp ( dưới 3%, trung bình từ 1-2% / năm), thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài, đặc biệt là trong nguồn vốn ODA có một phần không hoàn lại, thấp nhất là 25% của tống số vốn ODA.
Bình quân mỗi năm các nhà tài trợ dành cho Việt Nam 2.5 tỷ USD số vốn ODA, tương đương 6% GDP
B. Nguồn vốn ODA đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế ở Việt Nam
Nguồn vốn này đã đóng một phần rất quan trọng trong chiến lược tăng trưởng, giảm nghèo, chưyển dịch cơ cấu kinh tế, cải cách thể chế, thúc đẩy phát triển nền kinh tế, xã hội của nước ta.
Nguồn vốn ODA đã được ưu tiên sử dụng cho các lĩnh vực giao thông vận tải, phát triển nguồn và mạng lưới truyền tải và phân phổi điện, phát triển nông nghiệp và nông thôn, cấp thoát nước và bảo vệ môi trường, y tế, giáo dục, và đào tạo, khoa học và công nghệ.
Nguồn vốn ODA đã đóng góp cho sự thành công của một số chương trình quốc gia có ý nghĩa sâu rộng như chương trình dân số và phát triển, tiêm chủng mở rộng, dinh dưỡng trẻ em
ODA cũng góp phần quan trọng tăng cường khả năng quản lý của nhà nước thông qua các chương trình hỗ trợ phát triển pháp luật, các dự thảo cải cách bộ máy hành chính quan liêu và lạc hậu trước đây. Thông qua các dự án ODA, trình độ khoa học kĩ thuật trong sản xuất, trình độ quản lý của các cán bộ Việt Nam phát triển rất nhiêu.
Một loạt những thành tích mà Việt Nam đạt được từ thời kì mở cửa cho đến nay trong mọi lĩnh vực: văn hoá, y tế, giáo dục, kinh tế, chính trị, xã hội,… đã là bằng chứng cho sự đóng góp không nhỏ của nguồn vốn ODA trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam…
5. Những lưu ý khi sử dụng nguồn vốn ODA.
Ngoài mục tiêu cung cấp ODA cho các nước nghèo giúp họ phát triển kinh tế, thục chất là trong tương lai, các nước nghèo sẽ đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của chính các nước giàu, cụ thể là biến họ thành nơi cung cấp nguyên vật liệu rẻ, nhân công rẻ, tiếp nhận công nghệ và tư bản thừa, là thị trường tiêu thụ hàng hoá, đón nhận những ngành, công nghệ ít hàm lượng khoa học, gây ô nhiễm môi trường.
Như vậy, các nước giàu khi cung cấp ODA cho các nước nghèo đều gắn với những lợi ích và chiến lược như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị….
Về kinh tế, các nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan, bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu của các nước tài trợ.
Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị trường, yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp từ nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế có khả năng sinh lời cao.
Nguồn vốn ODA của các nước này cũng thường gắn với việc mua sản phẩm từ các nước này đôi khi không hoàn toàn phù hợp, không cần thiết đối với các nước nghèo.
Các nước nhận ODA buộc phải chấp nhận một phần trợ cấp là hàng hoá hoặc dịch vụ từ các nước giàu.
Các nước tiếp nhận tuy có toàn quyền sử dụng ODA nhưng thông thường, các danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, do đó một số dự án có thể không thật cần thiết và quan trọng đối với nước tiếp nhận.
Tác động của tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị tiền trả lớn hơn
Thêm vào đó là tình trạng thất thoát, sử dụng không hiệu quả nguồn vốn ODA có thể đẩy nước tiếp nhận vào tình trạng nợ nần.
Chương II
THỰC TRẠNG CỦA QUÁ TRÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA TẠI VIỆT NAM
I. QUÁ TRÌNH THU HÚT VỐN ODA TẠI VIỆT NAM
Theo số liệu thống kê những năm gấn đây cho thấy, việc thu hút vốn đầu tư ODA của Việt Nam qua các năm đều có sự tăng trưởng nhất định, năm sau cao hơn năm trước. Đặc biệt là những năm gần đây, mặc dù tình hình tài chính Thế Giới có nhiều khó khăn nhưng nguồn vốn ODA các nước cam kêt dành cho Việt Nam vẫn không hề suy giảm mà có sự tăng trưởng ngoạn mục.
Trong đó, đứng đầu trong danh sách tài trợ là EU, Nhật Bản, Ngân hàng thế giới WB, ngân hàng phát triển châu Á(ADB), Pháp, Trung Quốc,...
Trong những năm gần đây, Thế Giới ghi nhận những tiến bộ của Việt Nam trong việc thu hút cam kết tài trợ nhờ vào những thay đổi trong chính sách thu hút vốn.
Phía các nhà tài trợ hàng đầu là EU, Nhật Bản, ADB đều có nhận định tích cực về điều này, trong đó có việc giải ngân vốn ODA của Việt Nam đã tăng tương đối nhanh so với những năm trước và khá cao so với những nước trong khu vực. Hai ví dụ điển hình là việc thu hút và sử dụng vốn ODA ở hai dự án là Cảng Hải Phòng và Quốc lộ số 5.
Bảng số liệu sau cho ta thấy con số ODA cam kết (C.K.), số thực hiện (T.H.) và tỉ lệ phần trăm thực hiện trên cam kết qua các năm.
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
C.K
1,81
1,94
2,26
2,43
2,4
2,2
2,21
2,4
2,4
2,5
2,83
3,44
T.H
0,41
0,73
0,74
0,9
1,0
1,24
1,35
1,65
1,5
1,53
1,42
1,65
%
22,8
37,40
32,6
37
41,7
56,5
61
68,8
62,5
61,1
50,2
48
Chính sách tích cực vận động của Đảng ta nhằm thu hút nguồn vốn phát triển chính thức ODA đã có từ lâu, đặc biệt là từ sau khi Việt Nam kí hiệp định hoà bình Campuchia, cộng đồng tài trợ đã nối lại ODA dành cho nước ta vào năm 1993.
Từ đó đến nay, ta đã vận động được 15,25 tỷ USD, vốn ODA cam kết và được hợp thức hoá bằng các hiệp định được kí kết hơn 10 tỷ USD, trong đó vốn vay ưu đãi khoảng hơn 8 tỷ USD và vốn viện trợ không hoàn lại khoảng gần 2 tỷ USD. Tính đến hết năm 1999, ta đã giải ngân được khoảng 6,4 tỷ USD, đạt khoảng 42% số vốn ODA được kí kết.
Đại diện ngân hàng thế giới WB tại Việt Nam cũng khẳng định Việt Nam là một quốc gia nhận ODA lớn nhất thế giới, tuy nhiên số vốn này không đủ đáp ứng nhu cầu đầu tư của Việt Nam sắp tới.
II.TRIỂN VỌNG.
Trong một số hội nghị vừa qua, bộ ngoại giao Việt Nam tỏ ra rất tin tưởng về triển vọng thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển trực tíêp ODA vì theo đánh giá của các chuyên gia, năm 2010 sẽ có rất nhiều yếu tố tác động tích cực tới nguồn vốn này tại Việt Nam.
Trước tiên, mức ODA cam kết cho Việt Nam năm nay cao hơn hẳn năm trước, ít nhất là 3,74 tỷ USD.
Thuận lợi đầu tiên về phía Việt Nam là tình hình giải ngân vốn có tiến bộ, trong năm 2009 cả nước đã giải ngân được gần 6tỷ USD, đạt mức chỉ tiêu đã đặt ra. Có thể nói đây là một nỗ lực cũng như tiến bộ rất lớn của các cơ quan nhà nước, chính phủ, doanh nghiệp và các ban ngành có liên quan.
Bộ kế hoạch và đầu tư đã và đang triển khai chủ trương phân câp thẩm quyền phê duyệt vốn ODA nhằm tạo ra động lực thi đua giữa các địa phương, theo hướng đơn giản hoá các thủ tục hành chính, nâng cao năng lực cán bộ cũng như trách nhiệm của các ngành có liên quan, qua đó tạo thêm hiệu quả trong việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA.
III. NHỮNG TỒN TẠI TRONG VIỆC SỬ DỤNG VỐN ODA.
Trong tham luận về thực trạng sử dụng vốn ODA, tiến sĩ Nguyễn Thành Đô, vụ trưởng vụ tài chính đối ngoại, Bộ Tài chính cho rằng: cơ chế chính sách quản lý ODA chưa đồng bộ và còn rất nhiều bất hợp lý, vừa gây cản trở trong hoạt động của các dự án, vừa tạo ra kẽ hở trong quản lý Nhà nước dẫn đến tình trạng lạm dụng trong sử dụng vốn.
Trước tiên, cần phải nói rằng hành lang pháp lý chưa cao, phân cấp chưa rõ ràng, chưa có sự thống nhất, động bộ với nhau.
Thứ hai, thông tin chưa cập nhật kịp thời dẫn đến việc hiểu và sử dụng chính sách bị sai lệch dẫn đến sự chậm trễ trong việc triển khai, gây tâm lý không tốt trong sự nhìn nhận của các nhà tài trợ.
Bên cạnh đó, thủ tục phê phán còn rườm rà, chưa đơn giản hoá, lãng phí, ách tắc và giảm tính linh hoạt. Quan trọng hơn, việc phân định chức năng của các cơ quan quản lý ODA còn mang tính chất dàn trải, chưa tập trung vào một đầu mối, dẫn đến không ai chịu trách nhiệm chính khi có vấn đề xảy ra. Tình trạng “ cha chung không ai khóc” đó gây ảnh hưởng rất lớn trong quá trình công tác và thực thi nhiệm vụ của các cán bộ, ban ngành liên quan.
Một số tồn tại khác cũng được nêu lên là việc lập, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư, dự toán công trình bằng nguồn vốn ODA còn nhiều bất cập, gây lãng phí và thất thoát nguồn lực, phương thưc lựa chọn nhà thầu xây lắp, mua sắm và dịch vụ tư vấn thực hiện dự án còn bị động, lỏng lẻo, công tác đền bù giải phóng mặt bằng cho xây lắp công trình còn nhiều bất cập, gây lãng phí thời gian, tiền của, ảnh hưởng xấu tới quá trình giải ngân vốn.
Điều này được thể hiện rõ nhất trong khâu thẩm định dự án về kĩ thuật và tài chính. Trong quan niệm của một số cơ quan thụ hưởng vốn ODA, cả ở trung ương và địa phương, vẫn còn suy nghĩ thởi bao cấp cho rằng đó là tiền chính phủ cho. Hậu quả của quan niệm sai lệch này là ra sức “ tranh thủ ” nguồn vốn mà không tính đến hiệu quả kinh tế, tính bền vững sau dự án cũng như khả năng trả nợ.
Người phát ngôn Bộ kế hoạch và đầu tư cũng có nhận xét ở nước ta nhiều nơi coi ODA là tiền chùa, do Chính phủ vay với lãi suất thấp hoặc xin viện trợ không hoàn lại của nước ngoài nên xem nhẹ vấn đề hiệu quả và trách nhiệm sử dụng, gây thất thoát, lãng phí. Điển hình gần đây nhất là vụ án PMU18 đã tham ô hàng chục tỷ đồng của Nhà nước, số tiền trên lấy từ số vốn ODA được giao sử dụng.
Tổng hoà những vấn đề trên đã làm giảm thiểu hiệu quả thu hút và sử dụng vốn, gây thất thoát, lãng phí . Do đó chúng ta cần nâng cao nhận thức về nguồn vốn ODA, chủ động sử dụng một cách hợp li, hiệu quả và phải tính toán kĩ khả năng trả nợ.
Chương III
TẦM QUAN TRỌNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA TẠI VIỆT NAM
I. TẦM QUAN TRỌNG CỦA NHÀ NƯỚC VỀ SỬ DỤNG VỐN ODA
1. Khái niệm quản lý Nhà Nước về vốn ODA
Quản lý nhà nước về vốn ODA là sự quản lý của Nhà nước đối với toàn bộ nguồn vốn ODA bằng quyền lực của Nhà nước thông qua cơ chế quản lý vốn ODA, nhằm thực hiện được các mục tiêu đặt ra với quá trinh thu hút và sử dụng vốn ODA. Tóm lại, quản lý Nhà nước về vốn ODA là quá trình Nhà nước lập kế hoạch, kiểm tra, lãnh đạo, kiểm tra việc thu hút vá sử dụng vốn ODA nhằm đạt các mục tiêu đặt ra trong quá trình xây dựng đất nước.
2. Tầm quan trọng của quản lý Nhà nước đối với nguồn vốn ODA.
Vốn ODA là nguồn vốn quan trọng đối với các nươc tiếp nhận trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, nguồn vốn này cũng có thể sử dụng không hiệu quả, gây nợ nần cho Nhà nước nếu như không có sự quản lý.
Phải nhấn mạnh tầm quan trọng của quản lý nhà nước đối với nguồn vốn ODA vì các lý do sau:
* Thứ nhất, giá trị thực chất của vốn ODA luôn thấp hơn giá trị danh nghĩa của nó : Chi phí thực tế mà nước nhận viện trợ phải trả để sử dụng vốn ODA lớn hơn so với lãi suất thực tế. Nhà tài trợ đôi khi ràng buộc nước tiếp nhận phải đồng ý một khoảng viện trợ là hàng hoá, trung bình là ở mức 20% giá trị ODA.
* Thứ hai, các nhà tài trợ có quyền chủ động nhất định trong việc cung cấp ODA theo dự án, do đó, các dự án, chương trình được lựa chọn tài trợ không phải khi nào cũng quan trọng và tối ưu nhất đối với nước tiếp nhận.
* Thứ ba, tác động của tỉ giá hối đoái làm cho giá trị vốn ODA tăng lên hay giá trị số nợ phải trả tăng lên.
* Thứ tư, những chi phí gián tiếp phải trả cho các khoản vốn ODA.
* Thứ năm, nước tiếp nhận ODA ít nhiều bị ràng buộc về mặt kinh tế và chính trị. Như vậy nếu không đàm phán chi tiết với nhà tài trợ để giảm chi phí và không quản lý chặt chẽ việc sử dụng thì giá trị thực tế của vốn ODA thấp hơn nhiều so với giá trị danh nghĩa của nó.
* Thứ sáu, nước tiếp nhận dễ rơi vào tình trạng sử dụng không hiệu quả nguồn vốn ODA. Nếu nguồn vốn ODA không được hiệu quả, thì không những các nước này không khai thác được mặt tích cực của vốn ODA mà còn đẩy vào tình trạng nợ nần, khi đó, sẽ xuất hiện thêm nhiều lỗ hổng trong đầu tư, thương mại, tài chính quốc tế. Vì thế cán cân thương mại quốc tế càng bị thâm hụt trầm trọng, dễ gây phá giá đồng nội tệ và có khả năng xuất hiện khủng hoảng xã hội.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP
1. Giải pháp thu hút vốn ODA:
Việc thu hút và giải ngân vốn ODA chậm do nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó nguyên nhân nội tại và chủ quan là chủ yếu. Giải pháp trước tiên là phải xây dựng hệ thống pháp lý hoàn chỉnh nhằm đảm bảo công bằng, hạn chế rủi ro trong cạnh tranh, thương mại và đầu tư, hệ thống quản lý và giám sát thực hiện nguồn vốn ODA cần được củng cố, thu hút ODA phải theo từng lĩnh vực, đề án cụ thể, tránh dàn trải... Bên cạnh đó là việc xây dựng các chính sách, đề án mang tính khả thi để thu hút đầu tư nước ngoài.
Phải đảm bảo và tăng cường ổn định về mặt chính trị, như vậy sẽ khiến các nhà đầu tư yên tâm đầu tư vào Việt Nam.
Hoàn thiện và tăng cường hệ thống thông tin, nhằm cập nhật thông tin một cách nhanh chóng và chính xác, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư.
Tich cực đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, phòng chống tệ nạn xã hội,….
Cần bằng nhiều biện pháp để kiểm soát tình trạng lạm phát, mục tiêu năm 2005 là giữ mức lạm phát ở 5% nhưng sau đó do nhiều nguyên nhân khác nhau đã tăng lên đến 8,9%. Như vậy, kinh tế Việt Nam có khả năng phải đối mặt với tăng trưởng âm, ảnh hưởng lớn tới chất lương cuộc sống. Hiện đây đang là vấn đề quan tâm của chính phủ, đang huy động nhiều biện pháp khác nhau như : kiểm soát tín dụng, giảm cung tiền tệ, nâng cao chất lượng tín dụng ở các ngân hàng, trợ giá xăng dầu, tích cực phòng chống thiên tai,….
2. Giải pháp chống lãng phí ODA
Thứ nhất cần để ra nguyên tác lựa chọn ưu tiên sử dụng vốn ODA, tránh đầu tư dàn trải, phân tán không hiệu quả, không đúng thời gian qui định và kiên quyết từ chối các khoản ODA xét thấy không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp do bị chi phối bởi các yếu tổ ràng buộc.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách quản lý nhà nước đối với nguồn vốn ODA theo hướng giảm bớt những bất cập hiện tại nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện và hiệu qủa sử dụng vốn của các dự án, đồng thời đảm bảo phù hợp với tập quan thương mại quốc tế cũng như thủ tục của các nhà tài trợ.
Thứ ba, nâng cao tính tự chủ và trách nhiệm của chủ đầu tư, thực hiện tốt các khâu của qui trình dự án lựa chọn, lập văn kiện dự án, thẩm định, phê duyệt, tổ chức thực hiện hợp đồng mua sắm, xây lắp, tư vân, ….khả năng trả nợ, tính bền vững trong quá trình phát triển và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả sử dụng vốn
Thứ tư, kiện toàn, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của các cơ quan quản lý Nhà nước, đặc biệt là các cơ quan quản lý dự án, theo hướng phân định rõ chức năng của các bộ, ngành chủ quản với chức năng tổ chức thực hiện dự án.
Thứ năm, quản lý chặt chẽ tài sản mua sắm phục vụ dự án, chẳng hạn về tiêu chuẩn mua sắm ô tô phục vụ cho dự án có thể không dùng vốn vay nước ngoài như hiện nay và sử dụng luân chuyển cho nhiều dự án cho đến khi từng chiếc xe hết giá trị sử dụng,….
Thứ sáu, nâng cao trình độ, năng lực của cơ quan và cán bộ thẩm định dự án ở các bộ, ngành, địa phương đặc biệt là chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật và ngoại ngữ cũng như kinh nghiệm quản lý,….
Thứ bảy, tăng cường vai trò kiểm tra, thanh tra của bộ chủ quản, các bộ có chức năng quản lý và các cơ quan thanh tra, kiểm toán đối với việc thực hiện dự án và đối với hoạt động quản lý của các chủ đầu tư, các PMU
Thứ tám, cần phát huy tính tự giác trong đội ngũ cán bộ, tuyệt đối xoá bỏ những tư tưởng lệch lạc như coi ODA là tiền chùa để ra sức tranh thủ, sử dụng bừa bãi mà không tính đến hậu quả sau này….
KẾT LUẬN
Như vậy, nguồn vốn đầu tư nước ngoài nói chung và nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) nói riêng có tác dụng rất lớn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Tuy nhiên, việc tiếp nhận ODA là con dao hai lưỡi. Nếu nước tiếp nhận ODA tổ chức quản lý và sử dụng tốt nguồn vốn này, khai thác triệt để những ưu điểm của nó và hạn chế những bất lợi có thể xảy ra thì vốn ODA là nguồn ngoại lực vô cùng quan trọng góp phần vào quá trình tăng trưởng nhanh của nền kinh tế. Trường hợp thành công của Nhật Bản vào giai đoạn 1950-1960 và của Hàn Quốc vào giai đoạn 1960-1970 là một ví dụ.
Ngược lại, nếu quản lý và sử dụng không hiệu quả thì vốn ODA trở thành gánh nặng nợ nần cho đất nước trong tương lai. Tuy nhiên, xu hướng chung trên thế giới hiện nay là các nước phát triển luôn muốn thu hút các khoản vốn ODA, đồng thời nghiên cứu đưa ra những phưong pháp quản lý có hiệu quả để khai thác thế mạnh của nguồn vốn này.
Trong xu thế quốc tế hoá nền kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới hiện nay, với vị trí là một nước đang phát triển, Việt Nam không thể không tranh thủ thời cơ để thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Tuy vậy, thời cơ luôn đi kèm với thách thức, để thực hiện mục tiêu, không còn cách nào khác là phải vượt qua được những thách thức ấy. Nhà nước ta cần có các chính sách phù hợp để thu hút và sử dụng nguồn ODA có hiệu quả hơn và có những biện pháp thực hiện các chính sách đó một cách triệt để và hợ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26988.doc