Tiểu luận Vấn đề thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng trên thực tế và đề xuất một số biện pháp khắc phục cụ thể

Trải qua thực tiễn áp dụng thuế GTGT cũng nảy sinh nhiều khó khăn vướng mắc cần giải quyết như : vấn đề hoá đơn, khấu trừ thuế, hoàn thuế GTGT, thuế suất thuế GTGT.Tuy đã được sửa đổi bổ sung và giải quyết được phần nào những vướng mắc trên song so với nhiệm vụ và yêu cầu phát triển kinh tế hiện nay thì Luật thuế GTGT vẫn còn một số khiếm khuyết cần nghiên cứu giải quyết để Luật thuế GTGT ngày càng hoàn thiện và phù hợp với tình hình kinh tế nước ta.

doc15 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2089 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vấn đề thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng trên thực tế và đề xuất một số biện pháp khắc phục cụ thể, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất (Điều 6 Luật thuế GTGT). Giá tính thuế tại Điều 7 Luật thuế GTGT được xác định như sau: - Đối với hàng hoá, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra là giá bán chưa có thuế GTGT. Đối với hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là giá bán đã có thuế tiêu thụ đặc biệt nhưng chưa có thuế GTGT; - Đối với hàng hóa nhập khẩu là giá nhập tại cửa khẩu cộng với thuế nhập khẩu (nếu có), cộng với thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có). Giá nhập tại cửa khẩu được xác định theo quy định về giá tính thuế hàng nhập khẩu; - Đối với hàng hóa, dịch vụ dùng để trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng cho là giá tính thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh các hoạt động này; -Đối với hoạt động cho thuê tài sản là số tiền cho thuê chưa có thuế GTGT; -Trường hợp thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải của nước ngoài loại trong nước chưa sản xuất được để cho thuê lại, giá tính thuế được trừ giá thuê phải trả cho nước ngoài; - Đối với hàng hóa bán theo phương thức trả góp, trả chậm là giá tính theo giá bán trả một lần chưa có thuế GTGT của hàng hoá đó, không bao gồm khoản lãi trả góp, lãi trả chậm; - Đối với gia công hàng hoá là giá gia công chưa có thuế GTGT; - Đối với hoạt động xây dựng, lắp đặt là giá trị công trình, hạng mục công trình hay phần công việc thực hiện bàn giao chưa có thuế GTGT. -Đối với hoạt động kinh doanh bất động sản là giá bán bất động sản chưa có thuế GTGT, trừ giá chuyển quyền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất phải nộp ngân sách nhà nước; -Đối với hoạt động đại lý, môi giới mua bán hàng hoá và dịch vụ hưởng hoa hồng là tiền hoa hồng thu được từ các hoạt động này chưa có thuế GTGT; -Đối với hàng hoá, dịch vụ được sử dụng chứng từ thanh toán ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT thì giá tính thuế được xác định theo công thức sau: Giá chưa có thuế GTGT = Giá thanh toán 1 + thuế suất của hàng hoá, dịch vụ (%) Giá tính thuế được xác định bằng đồng Việt Nam. Trường hợp người nộp thuế có doanh thu bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh doanh thu để xác định giá tính thuế. Về thuế suất GTGT Điều 8 Luật thuế GTGT quy định, hướng dẫn cụ thể tại Điều 6 Nghị định số 123/2008/NĐ-CP gồm có 3 mức thuế suất: - Mức thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, vận tải quốc tế và hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT quy định tại Điều 5 của Luật này khi xuất khẩu, trừ các trường hợp chuyển giao công nghệ, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ ra nước ngoài; dịch vụ tái bảo hiểm ra nước ngoài; dịch vụ cấp tín dụng, chuyển nhượng vốn, dịch vụ tài chính phái sinh; dịch vụ bưu chính, viễn thông; sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác chưa qua chế biến. - Mức thuế suất 5% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ sau đây: - Nước sạch phục vụ sản xuất và sinh hoạt; - Phân bón; quặng để sản xuất phân bón; thuốc phòng trừ sâu bệnh và chất kích thích tăng trưởng vật nuôi, cây trồng; - Thức ăn gia súc, gia cầm và thức ăn cho vật nuôi khác; - Dịch vụ đào đắp, nạo vét kênh, mương, ao hồ phục vụ sản xuất nông nghiệp; nuôi trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng; sơ chế, bảo quản sản phẩm nông nghiệp; - Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản chưa qua chế biến (trừ sản phẩm quy định tại khoản 1 Điều 5 của Luật thuế GTGT) - Mủ cao su sơ chế; nhựa thông sơ chế; lưới, dây giềng và sợi để đan lưới đánh cá; - Thực phẩm tươi sống; lâm sản chưa qua chế biến (trừ gỗ, măng và sản phẩm quy định tại khoản 1 Điều 5 của Luật thuế GTGT) - Đường; phụ phẩm trong sản xuất đường, bao gồm gỉ đường, bã mía, bã bùn; - Sản phẩm bằng đay, cói, tre, nứa, lá, rơm, vỏ dừa, sọ dừa, bèo tây và các sản phẩm thủ công khác sản xuất bằng nguyên liệu tận dụng từ nông nghiệp; bông sơ chế; giấy in báo; - Máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, bao gồm máy cày, máy bừa, máy cấy, máy gieo hạt, máy tuốt lúa, máy gặt, máy gặt đập liên hợp, máy thu hoạch sản phẩm nông nghiệp, máy hoặc bình bơm thuốc trừ sâu; - Thiết bị, dụng cụ y tế; bông, băng vệ sinh y tế; thuốc phòng bệnh, chữa bệnh; sản phẩm hóa dược, dược liệu là nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; - Giáo cụ dùng để giảng dạy và học tập, bao gồm các loại mô hình, hình vẽ, bảng, phấn, thước kẻ, com-pa và các loại thiết bị, dụng cụ chuyên dùng cho giảng dạy, nghiên cứu, thí nghiệm khoa học; - Hoạt động văn hoá, triển lãm, thể dục, thể thao; biểu diễn nghệ thuật; sản xuất phim; nhập khẩu, phát hành và chiếu phim; - Đồ chơi cho trẻ em; sách các loại, trừ sách quy định tại khoản 15 Điều 5 của Luật này; - Dịch vụ khoa học, công nghệ theo quy định của Luật khoa học và công nghệ. Mức thuế suất 10% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ không thuộc hai đối tượng được hưởng mức thuế trên. 3. Thời điểm tính thuế GTGT. Thời điểm tính thuế GTGT được quy định tại Điều 5 Nghị định số 123/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế GTGT: - Thời điểm xác định thuế GTGT đối với hàng hoá là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hoá cho người mua, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền. - Thời điểm xác định thuế GTGT đối với dịch vụ là thời điểm hoàn thành việc cung ứng dịch vụ hoặc thời điểm lập hoá đơn cung ứng dịch vụ, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền. 4. Phương pháp tính thuế GTGT. Theo quy định của Luật thuế GTGT, Nghị định số 123/2008/NĐ-CP cũng như Thông tư số 129/2008/TT-BTC hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế GTGT và Nghị định số 123/2008/NĐ-CP thì có hai phương pháp tính thuế GTGT đó là phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên GTGT: Thứ nhất, phương pháp khấu trừ thuế GTGT, đây là phương pháp tính thuế GTGT được áp dụng phổ biến trên thực tế đối với những cơ sở kinh doanh thực hiện đầy đủ chế độ hóa đơn, chứng từ và đăng ký nộp thuế theo phương pháp này. Cách tính thuế theo phương pháp khấu trừ được xác định như sau: - Số thuế GTGT phải nộp theo phương pháp khấu trừ thuế bằng số thuế GTGT đầu ra trừ số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ; - Số thuế GTGT đầu ra bằng tổng số thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra ghi trên hoá đơn GTGT; - Số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ bằng tổng số thuế GTGT ghi trên hóa đơn GTGT mua hàng hóa, dịch vụ, chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hóa nhập khẩu và đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 12 của Luật này. Thứ hai là phương pháp tính trực tiếp trên GTGT: Về đối tượng áp dụng phương pháp tính trực tiếp trên thuế GTGT gồm có: - Cơ sở kinh doanh và tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nhưng có thu nhập phát sinh tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ; - Hoạt động mua bán vàng, bạc, đá quý. 4. Khấu trừ thuế GTGT. 4.1. Điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào, phải: - Có hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT ở khâu nhập khẩu; - Có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ hàng hoá, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng; - Đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, ngoài các hai điều kiện trên thì còn phải có hợp đồng ký kết với bên nước ngoài về việc bán, gia công hàng hoá, cung ứng dịch vụ, hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ, chứng từ thanh toán qua ngân hàng, tờ khai hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu 4.2. Cách khấu trừ thuế GTGT. Việc khấu trừ thuế GTGT được quy định tại Điều 12 Luật thuế GTGT và Điều 9 Nghị định số 123/2008/NĐ-CP: - Thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT được khấu trừ toàn bộ; - Thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ sử dụng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế thì chỉ được khấu trừ số thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT. Trường hợp thuế GTGT đầu vào của tài sản cố định sử dụng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì được khấu trừ toàn bộ;  - Thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ bán cho tổ chức, cá nhân sử dụng nguồn vốn viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại được khấu trừ toàn bộ; - Thuế GTGT đầu vào phát sinh trong tháng nào được kê khai, khấu trừ khi xác định số thuế phải nộp của tháng đó. Trường hợp cơ sở kinh doanh phát hiện số thuế GTGT đầu vào khi kê khai, khấu trừ bị sai sót thì được kê khai, khấu trừ bổ sung; thời gian để kê khai, bổ sung tối đa là sáu tháng, kể từ thời điểm phát sinh sai sót. 5. Hoàn thuế GTGT. Việc hoàn thuế GTGT được quy định tại Điều 13 Luật thuế GTGT và Điều 10 Nghị định 123/2008/NĐ-CP ngày 8/12/2008. Theo các quy định trên thì việc hoàn thuế GTGT được thực hiện trong trường hợp cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế và trong ba tháng liên tục trở lên có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết. Trường hợp cơ sở kinh doanh đã đăng ký nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ có dự án đầu tư mới, đang trong giai đoạn đầu tư có số thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào sử dụng cho đầu tư mà chưa được khấu trừ hết và có số thuế còn lại từ hai trăm triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT. - Nếu cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu nếu có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ từ hai trăm triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT theo tháng. - Cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế được hoàn thuế GTGT khi chuyển đổi sở hữu, chuyển đổi doanh nghiệp, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động có số thuế GTGT nộp thừa hoặc số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết.   - Cơ sở kinh doanh có quyết định hoàn thuế GTGT của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và trường hợp hoàn thuế GTGT theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT THUẾ GTGT Kết quả đạt được khi thực thi pháp luật thuế GTGT Thuế GTGT gần 3 năm thực hiện, đã chứng tỏ mình là một sắc thuế quan trọng, với tỷ trọng lớn nhất - khoảng 20% tổng thu ngân sách, cùng với các sắc thuế khác, thuế GTGT góp phần hoàn thành dự toán thu ngân sách Nhà nước, thu ngân sách Nhà nước không giảm mà còn tăng nhiều so với thuế doanh thu đảm bảo nhu cầu chi thường xuyên của đất nước; hoạt động sản xuất – kinh doanh ngày càng phát triển mạnh mẽ; sản xuất nội địa được gia tăng áp lực bảo hộ. Thực hiện Luật thuế GTGT cũng phần nào hạn chế được tình trạng gian lận thuế diễn ra nhức nhối trong suốt thời gian dài. Với những thay đổi hợp lý hơn so với Luật thuế GTGT 1999 Luật thuế GTGT 2008 đã tạo ra 1 diện mạo mới trong ngành thuế nước ta, và có tác động không nhỏ đến sự phát triển nền kinh tế-xã hội. Có thể thấy rõ hiện nay đến 80% dân số nước ta sống ở khu vực nông thôn cho nên việc ưu tiên mức thuế suất thấp đối với những sản phẩm, dịch vụ nông nghiệp đã tạo điều kiện cho bà con nông dân làm ăn. Bên cạnh đó với quy định mức thuế suất thuế GTGT 0%, 5% và 10% cũng được đánh giá là phù hợp với tình hình, điều kiện kinh tế xã hội hiện tại, khi mà hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các ngành, các lĩnh vực còn nhiều chênh lệch. 2. Những hạn chế trong việc áp dụng pháp luật thuế GTGT và các hành vi gian lận thuế GTGT 2.1. Những hạn chế trong việc áp dụng quy định của pháp luật Trải qua thực tiễn áp dụng thuế GTGT cũng nảy sinh nhiều khó khăn vướng mắc cần giải quyết như : vấn đề hoá đơn, khấu trừ thuế, hoàn thuế GTGT, thuế suất thuế GTGT...Tuy đã được sửa đổi bổ sung và giải quyết được phần nào những vướng mắc trên song so với nhiệm vụ và yêu cầu phát triển kinh tế hiện nay thì Luật thuế GTGT vẫn còn một số khiếm khuyết cần nghiên cứu giải quyết để Luật thuế GTGT ngày càng hoàn thiện và phù hợp với tình hình kinh tế nước ta. Thứ nhất: hiện nay toàn Đảng, toàn dân đều quan tâm đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân, nên việc nông dân phải mua hàng hóa dịch vụ đầu vào phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, mức thuế suất thuế GTGT là 5%, nhưng lại không được khấu trừ thuế gia tăng đầu vào là không hợp lý.Việc quy định chịu thuế đối với nhóm hàng hóa này gây khó khăn cho người nông dân trong quá trình đầu tư sản xuất, chi phí đầu vào cao, cộng với những yếu tố bất lợi về thời tiết, thiên tai, dịch bệnh sẽ làm giảm thu nhập của người nông dân. Không những thế, mức thuế suất 5% đối với hàng hóa dịch vụ này sẽ giúp cho các doanh nghiệp cung ứng mặt hàng này không những được hưởng lợi trong quá trình sản xuất kinh doanh mà còn được hoàn thuế, điều này không công bằng và thực sự không khuyến khích người sản xuất ra hàng hóa, sản phẩm dịch vụ nông nghiệp. Thứ hai: Theo pháp luật về thuế GTGT, chỉ khi những đơn vị nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ mua hàng hoá, dịch vụ từ những đơn vị cũng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ và có lập hoá đơn GTGT hợp pháp thì mới có khả năng được khấu trừ thuế đầu vào một cách chính xác số thuế GTGT đúng theo bản chất của thuế GTGT. Còn trường hợp, những đơn vị nộp thuế GTGT theo phương thức trực tiếp, hoá đơn đầu vào hợp pháp nhưng không là hoá đơn GTGT mà là hoá đơn bán hàng, thì đối tượng nợp thuế không được khấu trừ hoặc được khấu trừ theo một tỷ lệ ấn định mang tính chủ quan. Vì vậy, trường hợp này đi ngược lại với bản chất của thuế GTGT mà thực chất chỉ là một phiên bản của thuế doanh thu.Ngoài ra, đối với những trường hợp cơ sở sản xuất kinh doanh mua hàng không có hoá đơn chứng từ mà chỉ cần bảng kê khai (hầu như không có giá trị pháp lý) thì được khấu trừ khống theo tỷ lệ nhất định (trừ một số hàng hoá không được khấu trừ khống theo Nghị định 108/2002/NĐ-CP ngày 25/12/2002 của Chính Phủ). Vì vậy, đưa đến một mâu thuẫn là trong một số trường hợp số thuế đầu vào không có thật thì được khấu trừ, một số trường hợp khác là số thuế đầu vào có thật thì không được khấu trừ hoặc chỉ được khấu trừ một phần. Thứ ba: một số đối tượng đã lợi dụng cơ chế hoàn trước - kiểm sau và việc khấu trừ theo tỷ lệ % nhất định đối với hàng nông sản để chiếm đoạt tiền thuế. Căn cứ chủ yếu để được hoàn thế là hoá đơn hợp pháp. Thông qua hoá đơn hợp pháp, doanh nghiệp không chỉ khai man trốn thuế, mà còn lợi dụng chủ trương hoàn thuế để chiếm đoạt tiền thuế, gây thiệt hại cho những doanh nghiệp chân chính. Thống kê qua các lần thanh tra, kiểm tra và quyết toán thuế, hoàn thuế cho thấy có rất nhiều hình thức gian lận thuế, chiếm đoạt tiền thuế thông  qua hoá đơn. 2.2. Tình trạng lận thuế GTGT Thực trạng tình hình thực hiện Luật thuế GTGT ở nước ta cho thấy các vụ gian lận trong thuế GTGT ngày càng nhiều, các hình thức ngày càng tinh vi cho thấy vấn đề gian lận thuế GTGT đã trở nên vô cùng nguy hiểm và đáng báo động cho toàn xã hội. Hiện nay, một trong những chiêu thức tinh vi mà các doanh nghiệp thường áp dụng để gian lận thuế bằng cách lập các công ty “ma” mua bán hóa đơn giá trị gia tăng (GTGT), lập hồ sơ xuất khẩu khống để được hoàn thuế, mua hóa đơn để kê khống đầu vào nhằm trốn thuế… Điển hình là vụ gian lận thuế của ông Dương Văn Năm (Giám đốc Công ty TNHH Ngọc Sang) chuyên kinh doanh buôn bán lương thực. Ông này đã lập ra nhiều DN khác như Công ty TNHH Nguyễn Dương, Công ty TNHH Ngọc Giàu, Công ty CP XNK Giàu Sang, do những người thân trong gia đình đứng tên, nhưng mọi hoạt động đều do Dương Văn Năm quản lý, điều hành. Sau đó các DN của Năm đã cấu kết với Lê Văn Tre, Nguyễn Văn Luật, Lê Văn Cảnh, Trần Phú Ảnh và Đỗ Văn Bạch mua hóa đơn khống của nhiều DN ở TPHCM, Đồng Nai… để hợp thức hóa lượng hàng hóa đầu vào, chiếm đoạt tiền thuế của nhà nước. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2007, Năm đã mua hơn 100 hóa đơn để hợp thức hóa số gạo trôi nổi nhằm trốn thuế GTGT với số tiền hơn 7,8 tỷ đồng. Nổi bật trong thời gian gần đây là vụ Huỳnh Quốc Ngọc- kẻ cầm đầu trong vụ án thành lập hàng loạt công ty "ma" tại TP Cần Thơ và TP.HCM để mua bán hóa đơn thuế GTGT. Từ tháng 4/2003 đến tháng 6/2005, Huỳnh Quốc Ngọc cùng đồng bọn đã tìm mua hộ khẩu, giấy chứng minh nhân dân và thuê mướn nhiều người là dân lao động đứng ra thành lập 41 doanh nghiệp. Trong đó, 15 công ty tại TP HCM và 26 doanh nghiệp ở Cần Thơ. Những đơn vị này không hoạt động kinh doanh, mà chỉ chuyên mua bán hóa đơn thuế GTGT với doanh số trên 1.370 tỷ đồng. Với hành vi trên, nhóm của Ngọc thu lợi bất chính 15 tỷ đồng, tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp ở 35 tỉnh thành trên cả nước khấu trừ thuế làm thất thoát ngân sách gần 75 tỷ đồng. Chiêu thức thứ hai mà các doanh nghiệp thường sử dụng là gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế GTGT cùng những bất cập trong hệ thống quản lý chứng từ hoá đơn hiện nay thực sự trở thành vấn nạn đáng báo động đối với toàn bộ nền kinh tế - xã hội nước ta, mà trước hết là nguy cơ thất thoát tiền NSNN với số lượng cực lớn. Để được tính khấu trừ hay hoàn thuế, cả số thuế GTGT đầu ra, đầu vào đều phải được căn cứ trên chứng từ, hoá đơn. Do vậy hiện nay, chứng từ, hoá đơn đang là công cụ trực tiếp được các DN sử dụng để gian lận tiền thuế và bòn rút tiền từ NSNN. Chẳng hạn như ở Công ty cổ phần Dược liệu Trung ương 2 trước đây. Để hợp thức hóa các khoản chi bất hợp lý, Hoàng Thế Tân (Tổng giám đốc) và Lê Tất Tuận (Kế toán trưởng) đã cho phép nhân viên mua hóa đơn khống và kê thêm tiền vào hóa đơn GTGT vận chuyển của Công ty Dịch vụ vận tải Tiến Hưng và Doanh nghiệp tư nhân Khả Di. 2 doanh nghiệp (DN) này đã xuất cho Công ty cổ phần Dược liệu Trung ương 2 tất cả 440 tờ hóa đơn GTGT có giá trị thanh toán gần 3 tỷ đồng. Vị tổng giám đốc này còn chỉ đạo các nhân viên mua hóa đơn GTGT khống (chỉ xuất hóa đơn chứ không có mua bán thật) để hoàn thuế, rút khoảng 288 triệu đồng tiền của nhà nước và cho phép nhân viên kê thêm 1,9 tỷ đồng vào hóa đơn GTGT để hợp thức hóa một khoản tiền lớn đã chi ngoài sổ sách. Do vậy gian lận qua chứng từ, hoá đơn khống hiện nay là một thực trạng đáng sợ. Trên đây mới chỉ là một vài trường hợp bên cạnh đó còn hàng trăm, hàng ngàn các doanh nghiệp khác cũng gian lận hóa đơn, chứng từ để trốn thuế làm thất thoát NSNN mà cơ quan có thẩm quyền đã hoặc chưa thể phát hiện xử lí được. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc áp dụng pháp luật thuế GTGT. Do chính sách thuế GTGT hiện hành còn có những bất cập, không phù hợp với thực tại và yêu cầu phát triển của nền kinh tế . Bất cập trong quy định khấu trừ theo hoá đơn và hoàn thuế GTGT Điểm a, khoản 2 Điều 9 quy định 1 trong những điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào là có hóa đơn GTGT của hàng hóa dịch vụ mua vào hoặc chứng từ nộp thuế GTGT, chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào. Quy định khấu trừ thuế trên sự minh bạch của hóa đơn chứng từ này lại chính là điểm trọng yếu làm này sinh tình trạng lập hóa đơn giả, mua bán hóa đơn trắng...là chuyện thường xuyên xảy ra với nhiều thủ đoạn tinh vi. Với các chiêu thức thường dùng như, ngụy tạo hồ sơ xuất khẩu (có sự đồng lõa giữa doanh nghiệp và một số cán bộ hải quan), ngụy tạo hồ sơ nộp thuế GTGT đầu vào trong trường hợp có hàng hóa thực để xuất khẩu nhưng không nộp thuế GTGT đầu vào.Trong hai trường hợp này đều nảy sinh vấn đề mua, bán hóa đơn. Từ những sơ hở trên của pháp luật mà đối tượng phải nộp thuế GTGT do chạy theo lợi nhuận cũng đã tìm mọi cách, dùng mọi thủ thuật để gian lận thuế trong hoàn thuế GTGT thông quan việc: - Bán hàng không xuất hoá đơn để che dấu doanh thu đầu ra, làm cơ sở cho việc tính thuế GTGT, nhằm chiếm đoạt số tiền thuế GTGT người mua đã nộp cho người bán. - Giá cả và số lượng khi xuất hoá đơn bán hàng ghi trong liên lưu nhỏ hơn liên giao. - Không có giao dịch, nhưng “bên bán” thông đồng với bên mua vẫn xuất hoá đơn ghi và giao cho “bên mua”, nhằm hợp thức hoá số hàng đầu vào cho “bên mua” khi khấu trừ hoặc hoàn thuế. - Thông đồng với các doanh nghiệp xuất khẩu lập hoá đơn khống để kê khai hoàn thuế khi xuất khẩu, sau đó chi nhau số tiền hoàn thuế. - Sử dụng hoá đơn không do Bộ tài chính phát hành, thực chất là hoá đơn giả. -         Các doanh nghiệp liên kết nhau hình thành đường dây “kinh doanh hoá đơn khống” như: làm hồ sơ xuất khẩu khống... -         Một doanh nghiệp cho ra đời nhiều công ty có đăng ký kinh doanh, có mã số thuế, nhưng không có địa chỉ, nhiều tháng không khai báo thuế, để đi mua hoá đơn. 3.2. Thiếu sự quyết liệt trong xử phạt. Theo lời của Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Sinh Hùng, ở Trung Quốc đã xử tử 60 phạm nhân liên quan đến hoàn thuế. Thế nhưng ở nước ta chưa tử hình tội phạm nào cả, thậm chí xử tù 20 năm cũng chưa có. Theo Thời báo Tài chính Việt Nam, dẫn nguồn tin từ Tổng cục thuế, mức phạt cao nhất là 100 triệu đồng đối với các hành vi vi phạm chế độ sử dụng hoá đơn như: lập hoá đơn chênh lệch giữa các liên; dùng hoá đơn khống, hoá đơn giả và hoá đơn không còn giá trị; tẩy xoá nội dung các chỉ tiêu của hoá đơn đã sử dụng. Trên thực tế, thiệt hại do sử dụng hoá đơn không trung thực khiến Nhà nước thất thoát hàng trăm tỷ đồng. Có vụ, một cá nhân chiếm đoạt nhiều tỉ đồng tiền thuế. Nếu không trị quyết liệt thì luật pháp không còn khiến người ta sợ. Do đó, tình hình phạm tội liên quan đến thuế GTGT vẫn tiến triển nhanh, đa dạng, tinh vi và ngày càng lớn về số tiền thuế chiếm đoạt. ( 3.3. Những yếu kém của đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật thuế GTGT. Nhiều trường hợp chính cán bộ thuế gợi ý và tiếp tay cho một số cá nhân ăn cắp tiền thuế(4). Chủ trương xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới bị lợi dụng với sự tiếp sức của một vài cán bộ thuế biến chất đã làm thất thoát trầm trọng NSNN. Để thu một tỷ đồng thuế, nhiều cán bộ thuế phải nỗ lực phấn đấu trong thời gian có khi cả năm. Thế nhưng chỉ cần hai ba cán bộ thuế thoái hoá cũng đủ gây thất thoát nhiều lần hơn trong thời gian ngắn. Điều này khiến cho hình ảnh về cơ quan thuế dưới con mắt doanh nghiệp và dân chúng bị hoen ố. 3.4. Luật thuế GTGT là luật thuế tiên tiến, điều kiện để áp dụng rất nghiêm ngặt; trong lúc chúng ta chưa chuẩn bị đầy đủ các điều kiện, nhưng lại cho áp dụng đại trà lên tất cả các đối tượng nộp thuế (mà hầu hết những hộ sản xuất kinh doanh cá thể, một số lớn công ty doanh nghiệp – chưa đủ điều kiện để chúng ta kiểm soát được. Công nghệ quản lý thu thuế chưa thể hiện đầy đủ tính tiên tiến, hiện đại; Thiếu phương tiện kỹ thuật hỗ trợ trong khi không gian của hoạt động kinh doanh thường rộng lớn. Một doanh nghiệp ở Cà Mau có thể mua bán với các doanh nghiệp ở Cao Bằng, Gia Lai hoặc Bình Phước, và cũng có thể xuất khẩu thông qua nhiều cửa khẩu. Vì vậy, thông tin về lô hàng của từng đợt xuất nhập khẩu phải được phối kiểm trên phạm vi cả nước chứ không chỉ gói gọn tại một địa phương; Mà thời gian xét hoàn thuế lại ngắn, nên cơ quan thuế không đủ sức thẩm tra toàn bộ chứng từ cũng như lai lịch của các bên có liên quan. Điều này dễ gây ra những sai sót không chủ ý và xảy ra sai lệch khi hoàn thuế. Đặc biệt là sự kết nối giữa 3 cơ quan Sở Kế hoạch và Đầu tư, Công an và Cơ quan thuế chưa được triển khai triệt để. Ba cơ quan này chưa cung cấp kịp thời các thông tin chính xác về doanh nghiệp, thân nhân của doanh nghiệp trong quá trình thành lập cũng như trong hoạt động kinh doanh. Điều này đã làm giảm hiệu quả về việc thực thi chức năng giám sát, theo dõi các doanh nghiệp của chính các cơ quan trên. Công tác quản lí hóa đơn còn lỏng lẻo dẫn đến việc làm hóa đơn giả, khai khống hóa đơn để gian lận trốn lậu thuế. Ví dụ từ công thức Thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT bán hàng ra - Thuế GTGT mua hàng vào A B C Có 3 trường hợp xảy ra: A>0 => phải nộp thuế A = 0 => không nộp thuế A được hoàn thuế Trong khi đó số thuế khi bán ra được thể hiện trên các tờ hoá đơn bán hàng ra; số thuế mua vào được thể hiện trên các tờ hoá đơn mua hàng vào. Những tờ hoá đơn này do doanh nghiệp mua ở cơ quan thuế và tự viết (số hàng hoá, số tiền bán hàng, số tiền thuế). Nếu doanh nghiệp muốn gian lận thuế GTGT, doanh nghiệp chỉ cần tìm cách ghi trên các hoá đơn mua hàng vào số tiền thật lớn, tương ứng số thuế thật nhiều và tìm cách làm cho giá trị hàng bán ra thật thấp để có số thuế tương ứng, hoặc lập hồ sơ hàng bán ra là xuất khẩu để có số thuế GTGT = 0. Khi đó doanh nghiệp sẽ được Nhà nước hoàn toàn bộ số thuế GTGT đầu vào. Thực tế vừa qua cho thấy, nhiều người lập doanh nghiệp để lập hồ sơ mua hàng khống, rồi lập hồ sơ xuất khẩu khống, để lập thủ tục hoàn thuế, lấy tiền của ngân sách quốc gia. 3.6. Sự yếu kém về mặt nhận thức của một bộ phận khá lớn công chúng và thói quen mua hàng lấy hoá đơn chưa hình thành, có nhiều trường hợp được quy tội gian lận thuế không do chủ ý của cá nhân kinh doanh mà do hiểu không đúng các quy định của thuế. Về phía người tiêu dùng, bản thân họ tiếp tay một cách vô ý cho doanh nghiệp gian dối khi mua hàng không lấy hoá đơn. Hơn nữa họ cũng không có động cơ giữ hoá đơn. Vì vậy, nếu được người bán đề nghị không lấy hoá đơn để khỏi mất thêm 10% tiền thì họ đồng ý ngay. Xuất phát từ những nguyên nhân và thủ đoạn gian lận thuế trên, chúng tôi xin kiến nghị một số giải pháp sau, nhằm giảm thiểu sự gian lận về thuế GTGT. IV. PHƯƠNG HƯỚNG KHẮC PHỤC 1. Hoàn thiện chính sách thuế giá trị gia tăng theo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập tài chính nhóm- Pháp luật về thuế giá trị gia tăng ở việt nam.doc
Tài liệu liên quan