- Khai thác củi làm nhiên liệu:
Khai thác củi làm nhiên liệu có quy mô lớn và kho kiểm soát, đây cùng là mối đe dọa rất lớn đối với ĐDSH. Nhu cầu năng lượng từ củi chiếm tới 75% tổng nhu cầu năng lượng của đất nước, ước tính hàng năm có 22-23 triệu tấn nhiên liệu được khai thác từ rừng tự nhiên (RWEDP – Nghiên cứu tổng quan về nhiên liệu gỗ củi)
Trước năm 1995, có khoảng 21 triệu tấn củi được khai thác hàng năm, bên cạnh đó còn có nạn đốt than. Khai thác củi và đốt than để bán còn là nghề kiếm sống khó thay thế của nhiều người vùng núi.
- Khai thác, buôn bán lâm sản ngoại gỗ (kể cả động vật).
Rừng Việt Nam có khoảng 2.300 loài thực vật nhóm lâm sản ngoại gỗ như song, mây, lá nón, tre nứa, và cây thuốc (khoảng 1.000 loài) được khai thác để làm vật liệu xây dựng, hàng thủ công mỹ nghệ, làm thuốc và xuất khẩu.
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3474 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vấn đề về Đa dạng sinh học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
í này được gọi là khí nhà kính do tác dụng của chúng rất giống với nhà kính – cho ánh sáng mặt trời đi qua nhưng giữ lại năng lượng bên trong nhà kính và chuyển thành năng lượng nhiệt. Nồng độ khí này càng đậm đặc bao nhiêu thì nhiệt lượng bị thu lại gần mặt đất nhiều bấy nhiêu và nhiệt độ trên bề mặt trái đất lại tăng lên bấy nhiêu.
Vai trò của khi nhà kính rất quan trọng vì nó giữ ấm bề mặt trái đất. Vấn đề quan trọng hiện nay là nồng độ của khí nhà kính tăng cùng với hoạt động của con người đến mức làm biến đổi khí hậu gây nên hiện tượng trái đất nóng dần lên. Hiện tượng nhiệt độ tăng dần lên còn làm cho các khối băng ở các vùng cực tan ra. Do việc giải phóng một khối lượng nước lớn do băng tan, trong vòng 50 đến 100 năm tới mức nước biển dâng cao từ 0,2 đến 1,5 m. Mức nước biển dâng cao sẽ làm ngập lụt những vùng đất thấp những khu ĐNN ven bờ biển và nhiều thành phố lớn. Ngoài ra, mức nước biển dâng sẽ có khả năng gây hại đến nhiều loại san hô, nhất là những loại chỉ tồn tại ở một độ sâu nhất định nơi có ánh sáng và dòng chảy phù hợp.
Sự biến đổi khí hậu và nồng độ khí cacbonic trong khí quyển gia tăng sẽ có khả năng làm thay đổi triệt để cấu trúc của các quần xã sinh học và sẽ chỉ còn một số loài có khả năng phát triển thích ứng với điều kiện sống mới (Bazzaz và Fajer, 1992).
2.1.6. Sự bất lực của chính quyền và những chiến lược phát triển không hợp lý:
Nguyên nhân này có vai trò tương đối lớn, nhất là đối với các loài có nguy cơ tuyệt chủng và ở các nước nghèo. Hệ thống các văn bản pháp luật chưa hoàn thiện và không được những người có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc. Do cuộc sống khó khăn nên những người dân bản địa đã tiến hành khai thác bất hợp pháp các loài động thực vật cung cấp cho thị trường, song các cấp chính quyền dường như không làm được nhiều để hạn chế tình trạng trên, thậm chí do nguồn lợi kinh tế rất lớn nên một số nhà chức trách còn tiếp tay cho các hoạt động phi pháp. Bên cạnh đó chính sách di dân đã làm cho rất nhiều diện tích rừng bị mất đi nhanh chóng. Các chính sách kinh tế sai lầm đã làm giá cả gia tăng nhanh và đẩy một bộ phận người dân thuộc vùng sâu, vùng xa, những vùng có mức độ ĐDSH cao nhất, ngày càng trở nên khốn khó, để tự nuôi sống mình và gia đình họ đã khai thác triệt để nguồn lợi sinh học tại địa phương.
2. 2. Nguyên nhân trực tiếp:
Khai thác quá mức và sử dụng không bền vững tài nguyên sinh học.
Nhằm thỏa mãn nhu cầu của cuộc sống, con người đã thường xuyên săn bắn, hái lượm thực phẩm và khai thác các nguồn tài nguyên khác.
+ Khi dân số loài người vẫn còn ít và phương pháp thu hái còn thô sơ, con người đã thu hái và săn bắt một cách bền vững mà không làm cho các loài trở nên tuyệt chủng.
+ Khi dân số loài người tăng lên, nhu cầu sử dụng cũng tăng theo và họ đã sử dụng các phương tiện hữu hiệu hơn: Súng được thay cho giáo mác và cung tên; tàu đánh cá gắn máy thay cho thuyền buồm gỗ đánh bắt cá trên đại dương; cưa xăng thay cho chiếc rìu tay khi chặt gỗ. Phương tiện khai thác hiện đại đã làm cho các loài bị khai thác suy giảm và tuyệt chủng nhanh hơn. Việc khai thác quá mức của con người ước tính đã gây nguy cơ tuyệt chủng cho 1/3 số loài động vật có xương sống.
+ Trong những năm gần đây, việc khai thác quá mức được tăng lên khi thị trường thương mại được mở rộng, đã gây ra những hiểm họa không nhỏ đối với các loài sinh vật trong tự nhiên.
Ví dụ: Thị trường buôn bán áo lông thú phát triển ở nhiều quốc gia. Các món ăn đặc sản (thịt các loài động vật hoang dã), thú chơi cây cảnh, phong lan cũng gây những hiểm họa không nhỏ đối với các loài này trong tự nhiên.
Sự xâm nhập của các loài ngoại lai.
Phạm vi sống về địa lý của nhiều loài được giới hạn bởi các vật cản tự nhiên như đại dương, các sa mạc, các dãy núi, các con sông. Ví dụ: Các loài động vật có vú ở Bắc Hoa Kỳ không thể vượt qua biển Thái Bình Dương để đến được Hawai. Do sự cách ly về địa lý nên quá trình tiến hoá được phân ly theo các chiều hướng khác nhau trên những khu vực chính của trái đất.
Con người đã làm thay đổi cơ bản cấu trúc này bằng việc vận chuyển, phát tán các loài trong toàn cầu. Con người đã mang vật nuôi từ chỗ này sang chỗ khác khi họ tạo lập khu định cư mới. Ngày nay, khi thị trường buôn bán phát triển, nhiều loài động thực vật được vận chuyển qua nhiều nước khác nhau.
Về cơ bản, những loài du nhập thường không phát triển được ở những nơi mà chúng được mang đến do điều kiện sống không phù hợp. Tuy nhiên, một tỉ lệ các loài nhất định có biên độ sinh thái rộng, chúng phát triển rất nhanh, vượt lên trên cả các loài bản địa, thậm chí chúng còn thay cả các loài bản địa. Các loài bản địa có thể bị tuyệt chủng do bị các loài du nhập chiếm hết không gian dinh dưỡng hoặc bị ăn thịt. Ví dụ có khoảng 4600 loài thực vật đã được du nhập vào quần đảo Hawai, nhiều gấp 3 lần các loài thực vật bản địa (St.John, 1973).
Lý do chính để các loài du nhập phát triển mạnh là chưa có thiên địch (ví dụ Thỏ nhập vào Châu Úc đã ăn hết cả các loài cỏ bản địa) và sau nữa là con người đã tạo những điều kiện thuận lợi cho các loài du nhập phát triển.
Sự lây lan của các dịch bệnh.
Sự lây nhiễm các sinh vật gây bệnh là điều thường xảy ra đối với động vật nuôi hay động vật hoang dã. Các tác nhân gây nhiễm có thể là các vật ký sinh nhu virus, vi khuẩn, nấm, các động vật đơn bào hay các ký sinh trùng kích cỡ lớn hơn như giun, sán. Các loại dịch bệnh có thể là nguy cơ đe dọa đối với một số loài quý hiếm. Vào năm 1987, quần thể cuối cùng của loài chồn chân đen (Mustela nigrepes) trong tự nhiên đã bị tiêu diệt bởi virut gây bệnh sốt ho của chó nhà và một số gia súc khác (Thorne and Wiliam, 1988).
Có 3 nguyên tắc về dịch bệnh học được ứng dụng rộng rãi trong việc nuôi dưỡng và quản lý các loài thú quý hiếm.
Thứ nhất, các loài được con người nuôi và động vật sống trong tự nhiên khi sống trong quần thể với mật độ cao sẽ có nguy cơ dễ mắc bệnh dịch hay bị nhiễm ký sinh trùng.
Thứ hai, tác hại gián tiếp do nơi cư trú bị phá huỷ là làm cho loài trở nên dễ mắc các bệnh dịch hơn. Khi các quần thể vật chủ sống tập trung trong một khu vực nhỏ hơn do nơi sinh sống của chúng bị phá huỷ, tại đây chất lượng môi trường nơi cư trú thường bị suy giảm, thức ăn trở nên khan hiếm dẫn đến tình trạng kém dinh dưỡng, các động vật trở nên yếu hơn và dễ mặc bệnh hơn.
Thứ ba, tại rất nhiều khu bảo tồn và vườn thú, các loài tiếp xúc với rất nhiều loài mà chúng rất ít khi, thậm chí không bao giờ gặp trong thiên nhiên hoang dã cho nên bệnh dịch có thể truyền từ loài này sang loài khác.
2.2.4. Sự chuyên hóa trong sản xuất nông nghiệp:
Do sức ép của sự gia tăng dân số trên thế giới, dẫn đến nhu cầu về lương thực, thực phẩm và các loại nguyên, nhiên, vật liệu sẵn có trong tự nhiên, đồng thời cũng thúc đẩy loài người lựa chọn hoặc lai tạo ra các giống động thực vật có năng suất, chất lượng cao; và sử dụng đại trà các giống này cho sản xuất trên phạm vi toàn cầu trong những khu vực có điều kiện khí hậu tương tự nhau. Do đó, các giống địa phương sẽ bị mai một và cuối cùng là tuyệt chủng.
2.3. Các nguyên nhân suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam:
2.3.1. Nguyên nhân trực tiếp gây suy thoái đa dạng sinh học ở Việt Nam.
Chiến tranh:
Chiến tranh không những là nguyên nhân trực tiếp mà còn là nguyên nhân sâu xa gây suy thoái ĐDSH. Trong giai đoạn 1945 đến 1990 nước ta đã trải qua hai cuộc chiến tranh và 2 cuộc xung đột biên giới hết sức khốc liệt.
Chỉ trong giai đoạn từ 1961 đến 1975, 13 triệu tấn bom và 72 triệu lít chất độc hoá học do Mỹ rải xuống chủ yếu ở miền Nam Việt Nam đã huỷ diệt khoảng 4,5 triệu ha rừng (WB, 1995). Sau khi kết thúc chiến tranh diện tích rừng cả nước chỉ còn lại khoảng 9,5 triệu ha – với 10% rừng nguyên sinh, chiếm khoảng 28% diện tích cả nước.
Chiến tranh đã gây biến động lớn về phân bố dân cư giữa các vùng, đồng thời một diện tích lớn đất rừng bị khai phá để trồng cây lương thực bảo đảm hậu cần tại chỗ cho quân và dân. Không những thế các loài động vật hoang dã còn bị đe dọa bởi các loại vũ khí do chiến tranh để lại sau đó.
Khai thác quá mức.
Khai thác gỗ:
Các phương thức khai thác gỗ (hợp pháp hay bất hợp pháp) không bền vững từ trước đến nay đều được coi là mối đe dọa lớn đối với ĐDSH. Nó không những làm nghèo kiệt tài nguyên gỗ tự nhiên mà còn làm giảm sút nghiêm trọng chất lượng rừng và gây ảnh hưởng lớn đối với vùng cư trú của các loài động vật hoang dã.
Trong giai đoạn từ năm 1986 – 1991, bình quân lượng gỗ bị khai thác là 3,5 triệu m3/năm và khoảng 1-2 triệu m3 ngoài kế hoạch (khoảng 80.000 ha bị mất mỗi năm); giai đoạn 1992 -1996 khoảng 1,5 m3 gỗ/năm; Từ năm 1997 tới nay khoảng 0,35 triệu m3 gỗ/năm được khai thác theo kế hoạch từ rừng tự nhiên ở Việt Nam.
Nạn khai thác gỗ trộm xảy ra ở nhiều nơi, kể cả trong các khu rừng phòng hộ và rừng đặc dụng cũng làm cho tài nguyên rừng bị cạn kiệt nhanh chóng. Nguyên nhân chính dẫn tới việc khai thác gỗ trái phép xảy ra nghiêm trọng và khó kiểm soát vì nhu cầu dùng gỗ trong nước và việc xuất khẩu ngày càng tăng trong khi trữ lượng gỗ ngày càng giảm. Việc kinh doanh gỗ có lãi lớn nhưng lực lượng bảo vệ rừng chưa đủ mạnh, hiệu quả kiểm soát thấp, việc xử lý những vụ vi phạm khai thác và vận chuyển gỗ trái phép còn hạn chế.
Hình 3.1. Khai thác quá mức tài nguyên rừng
- Khai thác củi làm nhiên liệu:
Khai thác củi làm nhiên liệu có quy mô lớn và kho kiểm soát, đây cùng là mối đe dọa rất lớn đối với ĐDSH. Nhu cầu năng lượng từ củi chiếm tới 75% tổng nhu cầu năng lượng của đất nước, ước tính hàng năm có 22-23 triệu tấn nhiên liệu được khai thác từ rừng tự nhiên (RWEDP – Nghiên cứu tổng quan về nhiên liệu gỗ củi)
Trước năm 1995, có khoảng 21 triệu tấn củi được khai thác hàng năm, bên cạnh đó còn có nạn đốt than. Khai thác củi và đốt than để bán còn là nghề kiếm sống khó thay thế của nhiều người vùng núi.
- Khai thác, buôn bán lâm sản ngoại gỗ (kể cả động vật).
Rừng Việt Nam có khoảng 2.300 loài thực vật nhóm lâm sản ngoại gỗ như song, mây, lá nón, tre nứa, và cây thuốc (khoảng 1.000 loài) được khai thác để làm vật liệu xây dựng, hàng thủ công mỹ nghệ, làm thuốc và xuất khẩu.
Đặc biệt khu hệ động vật hoang dã có khoảng 70 loài thuộc các lớp chim, thú, bò sát bị khai thác thường xuyên để sử dụng cho các mục đích khác nhau. Các hoạt động này đã gây ra nguy cơ tuyệt chủng nhiều loài như Bò Xám, Hổ, Tê giác, Voọc mũi hếch, Voọc đầu trắng...
Việc kinh doanh các loài hoang dã, nhất là rắn, rùa, ba ba, tắc kè, tê tê....để làm các món ăn đặc sản, làm thuốc và xuất khẩu bất hợp pháp ngày càng tăng và diễn ra trên địa bàn cả nước khó kiểm soát. Tuy nhiên, việc kinh doanh các loài hoang dã nói trên phần lớn còn để xuất khẩu sang các nước láng giềng như Trung Quốc, Thái Lan và Singapo.
Khai thác lâm sản vốn là nguồn sống lâu đời của một bộ phận khá lớn những người dân sống ở vùng núi, đây cũng là địa bàn hoạt động của lâm tặc và những người buôn lậu, đồng thời lâm sản ngoại gỗ còn là nguồn không thể thiếu của một số ngành thủ công xuất khẩu. Do vậy, các hoạt động thường xuyên phải bám sát mục tiêu cụ thể. Các chính sách và quy chế chung còn ít được tiếp cận và sử dụng.
- Đánh bắt cá:
Tại nhiều nơi vẫn còn tình trạng đánh bắt cá mang tính huỷ diệt như dùng mìn, chất nổ, điện, thậm chí cả chất đôc (Xyanua). Đánh bắt quá mức có thể thấy rõ hậu quả qua sản lượng đánh bắt một số loài cá suy giảm mặc dù cường độ đánh bắt tăng. Ngoài ra, sản lượng đánh bắt các loại hản sản khác như tôm hùm (Panulirus), bào ngư (Haliotes), Sò (Chlamys), mực (Loligo) cũng giảm. Trai ngọc đã biến mất khỏi nhiều vùng biển phía Bắc. Tuy nhiên, việc khai thác các loài trên vẫn tiếp tục mặc dù loài cá trình 5 đốm, bốn loài tôm hùm và hai loại bào ngư đã được liệt kê trong nhóm (hạng) dễ tổn thương.
Hình 3.2. Khai thác bừa bãi nguồn lợi thủy sản
- Khai thác trái phép tài nguyên các rạn san hô.
Bảo tồn rạn san hô ít được chú ý trực tiếp. Cho đến mãi gần đây, tỉnh Khánh Hòa mới thành lập Khu bảo tồn biển Hon Mun, cùng với những nỗ lực nhằm bảo vệ các rạn san hô ở cùng biển Côn Đảo và Phú Quốc. Rạn san hô ở Việt Nam nói chung đang trong tình trạng xấu và có nhiều bằng chứng cho thấy đây là những khu vực bị đe dọa cực kỳ nghiêm trọng. Tại một số rạn san hô, cá đã bị đánh bắt cạn kiệt tới mức mà người ta không thể tái tạo lại ngư trường đánh bắt cá lớn nữa. Một số rạn san hô bị phá huỷ, chủ yếu là do sử dụng các phương pháp đánh bắt cá mang tính huỷ hiệt như đã nói ở trên. Tất cả những phương pháp đánh bắt cá không chọn lọc đõ sẽ giết chết hoặc làm tất cả các loài hoảng sợ.
Mở rộng đất làm nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản.
Mở rộng đất canh tác nông, nghư nghiệp lấn vào đất rừng là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất làm suy thoái ĐDSH. Ở vùng núi phía Bắc, khai thác rừng chủ yếu để lấy đất làm nông nghiệp, ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ phá rừng để trồng cây công nghiệp như cà phê, cao su, điều,..., ở ven biển phá rừng ngập mặn để nuôi trồng thuỷ sản.
Việc mở rộng đất trồng trọt và nuôi trồng thuỷ sản là để đáp ứng nhu cầu về lương thực, thực phẩm do dân số ngày càng tăng, đồng thời góp phần phát triển kinh tế đất nước, tăng thêm nguồn nông sản và hải sản xuất khẩu có giá trị.
Hiện tượng lấn chiếm đất sản xuất và nuôi trồng thuỷ sản thường xảy ra đối với người nghèo và các hộ di cư tự do. Các khu rừng ngập mặn tại các tỉnh Cà Mau, Kiên Giang và nhiều tỉnh ven biển khác cũng là đối tượng khai phá làm đầm nuôi tôm của người dân địa phương. Tuy nhiên, có không ít khu vực đầm nuôi tôm đã bị hoang hoá do phương thức nuôi trồng không bền vững.
Xây dựng cơ sở hạ tầng.
Cùng với tiến trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, việc xây dựng cơ sở hạ tầng bao gồm đường giao thông, cầu phà, bến cảng, mạng lưới điện, hệ thống cấp thoát nước...là một tất yếu.
Việc xây dựng các cơ sở hạ tầng nói trên một cách thiếu quy hoạch, thiếu cơ sở khoa học có ảnh hưởng mạnh đối với ĐDSH. Chẳng hạn như việc xây dựng các tuyến đường giao thông xuyên qua các vùng rừng rộng lớn như đường Trường Sơn, các tuyến đường bộ đi qua vùng Đồng Tháp Mười, nối Hà Tiên với Cà Mau, đường dây điện 500kv..., ít nhiều đã làm mất đi tính liên tục của vùng phân bố các loài, gây nhiễu loạn và làm suy thoái môi trường tự nhiên, chỉ tính riêng các hồ chứa nước được xây dựng hàng năm đã làm mất đi khoảng hàng ngàn ha rừng (Do nhiều loài sinh vật bị tiêu diệt do đất đá vùi lấp, do ngập sâu dưới nước. Nhiều loài sinh vật mất nơi cư trú, mất môi trường sống, mất nguồn thức ăn, mất nơi sinh đẻ nên một khối lượng lớn cá thể bị chết, các chuỗi dinh dưỡng bị xáo trộn, cân bằng sinh thái bị tổn thương. Việc ngăn sông, xây đắp làm hồ chứa có thể làm mất đường di cư sinh sản của một số loài sinh vật như Cá Chình.
Cháy rừng
Hiện nay, Việt Nam có trên 6 triệu ha rừng dễ cháy (Phạm Bình Quyền và các cộng sự, 1997), bao gồm rừng thông, rừng tràm, rừng tre nứa, rừng bạch đàn, rừng khộp... Cùng với diện tích rừng dễ cháy tăng thêm hàng năm thì tình hình diễn biến thời tiết ngày càng phức tạp và khó lường ở Việt Nam đang làm nguy cơ tiềm ẩn về cháy rừng ngày càng nghiêm trọng hơn.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Cục Kiểm lâm về cháy rừng và thiệt hại do cháy rừng gây ra trong 42 năm qua (1963 -04/2005) tổng số vụ cháy rừng là trên 49.600 vụ, diện tích thiệt hại trên 646.900 ha rừng (chủ yếu là rừng non), trong đó có 274.251 ha rừng trồng và 377.606 ha rừng tự nhiên. Thiệt hại tính đến hàng trăm tỷ đồng mỗi năm, đó là chưa kể đến những ảnh hưởng xấu về môi trường sống, cũng như những thiệt hại do lũ quét, lũ ống và lũ lụt ở vùng hạ lưu, làm giảm tính ĐDSH, phá vỡ cảnh quan... Riêng năm 2002 đã xảy ra 1.098 vụ cháy, năm 2003 xảy ra 642 vụ cháy, trong đó vụ cháy rừng Tràm U Minh là nghiêm trọng nhất.
Sự kiện cháy rừng vào thàng 3,4 năm 2002 tại Vườn Quốc Gia U Minh – Thượng là một tai họa điển hình về cháy rừng đối với tài nguyên sinh vật và ĐDSH. Tại U Minh Thượng trước khi bị cháy rừng đã thống kê được 32 loài thú. Sau khi bị cháy, ít nhất có 25 loài thú (78,2%) bị ảnh hưởng với các mức độ khác nhau. Một số loài có nguy cơ không gặp lại ở HST độc đáo này: Dơi ngựa lớn Pteropus vampyrus; Sóc lửa Callosciurus finlaysoni; Rái cá lông mũi Lutra sumatrana; Rái cá vuốt bé Aonyx cinerea; Mèo cá Drionailurus viverrinus; Tê tê Manis javanica; Cầy giông đốm lớn Viverra megaspila; Cầy vòi hương Paradoxurus hermaphroditus; Dơi ngựa Thái Lan Pteropus lylei; Mèo rừng Drionailurus bengalensis (nguồn Cục Kiểm lâm, 2005)
Di nhập và xâm lấn của các loài sinh vật lạ
Trong thời gian qua việc trao đổi, di nhập một số giống cây trồng, vật nuôi đã mang lại hiệu quả kinh tế. Trong cơ cấu cây trồng ở nhiều nơi số giống mới đã chiếm tới 70- 80% và cho năng suất cao. Tuy nhiên việc di nhập nhiều giống mới một cách tràn lan, thiếu kiểm soát là nguy cơ tiềm tàng làm các giống bản địa bị mai một. Các giống mới có thể có những điểm bất lợi và thường không bền vững trước tác động của ngoại cảnh và sâu bệnh. Tác hại ngay lập tức và có thể thấy là một số loài di nhập vào Việt Nam đã phát triển thμnh dịch và gây hại nghiêm trọng. Điều này còn liên quan đến sự thiếu hiểu biết và sơ hở trong quản lý. Có thể nêu ra đây một số ví dụ:
+ Trong công tác trồng rừng ở Việt Nam, chúng ta đã sử dụng thành công khá nhiều loài cây nhập nội như Phi lao trên vùng cát ven biển, các loài Keo và Bạch đàn cho vùng đồi thấp và rừng công nghiệp. Bạch đàn trồng thuần loại ở một số vùng ở nước ta có những thời điểm bị bệnh hại gây chết hàng loạt.
+ Tình trạng tương tự cũng xảy ra với các loài cây nông nghiệp, các giống mới như lúa, ngô, cà phê, cao su, cây ăn quả... được nhập nôi, gây trồng rộng rãi vì năng suất cao. Điều này đã làm cho một số giống cây trồng địa phương, có chất lượng nhưng năng suất thấp bị mất đi.
+ Việc nhập và gây nuôi ốc bươu vàng đại trà đã gây hại cho đồng ruộng trong một thời gian dài, một số loài sinh vật lá khác gây tác hại nghiêm trọng như ốc sên, cây trinh nữ đầm lầy (cây Mai Dương), bèo Nhật Bản.
Hình 3.3. Trinh nữ đầm lầy và Ốc bươu vàng, 2 kẻ ngoại lai nguy hiểm
Ô nhiễm môi trường
Các hoạt động của con người như phát triển nông nghiệp, công nghiệp, khai khoáng; phát triển các làng nghề, các khu đô thị, các thành phố; hóa chất và chất thải nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt ;… đã gây ra ô nhiễm môi trường (đất, nước, không khí) ở nhiều nơi và gây hại trực tiếp đến sức khỏe con người.
Ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm nước gây tác hại rất lớn đối với môi trường nước ngọt và biển:
+ Nước thải công nghiệp, sử dụng thuốc trừ sâu là những nguyên nhân chính làm ô nhiễm các sông hồ nước ngọt của Việt Nam. Các ngành công nghiệp Việt Nam tuy hiện nay đã áp dụng một số biện pháp sử lý nước thải song chưa triệt để. Nước thải của các nhà máy hoá chất, xà phòng... cùng với nước thải sinh hoạt đã gây ô nhiễm nặng cho các con sông. Trên đồng ruộng, việc lạm dụng các hoá chất diệt côn trùng, chất diệt cỏ đã gây ô nhiễm môi trường đồng ruộng.
+ Môi trường sống ở các HST nông nghiệp cũng bị ô nhiễm do việc sử dụng tuỳ tiện các chất diệt côn trùng. Các sông hồ bị ô nhiễm do các chất thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt.
Theo thống kê của Cục Bảo vệ môi trường, 2005. Tổng lượng hoá chất bảo vệ thực vật tồn đọng hiện nay là 57.476,9 kg dạng bột; 29.196,3 lít dạng lỏng và khoảng 1.437.183,2 bao bì chứa hoá chất bảo vệ thực vật.
Ô nhiễm biển được coi là hiểm hoạ lớn nhất đối với tính ĐDSH biển. Giao thông vận tải biển và thăm dò dầu khí là hai nguyên nhân quan trọng gây nên sự ô nhiễm biển. Nguyên nhân này bắt đầu từ các tầu thuyền đánh cá dùng động cơ, các tàu chở hàng, chở dầu. Các cảng biển Hải Phòng, Quảng Ninh., Cửa Lò, Đà Nẵng, VũngTàu... đều có một lớp váng dầu trên bề mặt nước. Mức dầu trong nước biển ở cảng Hải Phòng, Quảng Ninh là 0,4-1 mg/l nước.
Thăm dò và khai thác khí dầu ở Việt Nam mới bắt đầu từ năm 1986, do không được theo dõi nên không có số liệu nhung đây là những hoạt động gây nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống cuả sinh vật biển.
Ngoài hai nguyên nhân nêu trên, vấn đề lắng đọng bùn ở các cửa sông, trong các cảng và hoạt động nạo hút bùn cũng đã gây ảnh hưởng đến tính đa dạng sinh học biển. Việc nạo vét để khai thông cửa sông, hải cảng đã khuấy dục nước, trong bùn lắng đọng thường có dầu và chất độc lẫn vào nên đã gây nhiều tổn thất cho sinh vật biển.
2.2.2. Nguyên nhân sâu xa gây suy thoái ĐDSH ở Việt Nam.
Gia tăng dân số và di cư.
Những thách thức về dân số của nước ta rất nghiêm trọng đối với các vấn đề tài nguyên, môi trường và ĐDSH. Trung bình trong 10 năm (1989 -1999) tỷ lệ tăng trưởng dân số là 1,7% năm; đặc biệt ở vùng núi tỷ lệ này còn cao hơn, khoảng 2,8% -3,6%/năm. Tăng dân số vẫn ở mức cao trong khi tài nguyên đất, tài nguyên nước và các dạng tài nguyên khác đang có xu thế giảm.
Tăng dân số nhanh đã là một trong những nguyên nhân chính làm suy thoái ĐDSH của Việt Nam. Sự gia tăng dân số dẫn đến tăng nhu cầu sinh hoạt và nhu cầu thiết yếu khác trong khi lượng tài nguyên có hạn, nhất là tài nguyên đất cho sản xuất nông nghiệp. Hệ quả tất yếu dẫn tới là phải mở rộng đất nông nghiệp, xâm lấn vào đất rừng, làm suy thoái ĐDSH.
Từ những năm 1960, thực hiện chủ trương của chính phủ xây dựng và phát triển các vùng kinh tế mới, các địa hương đã động viên khoảng 1,2 triệu người từ vùng đồng bằng lên khai hoang và sinh sống ở vùng núi. Cuộc vận động này đã làm thay đổi cơ cấu dân số và tập quán canh tác ở miền núi. Từ những năm 1990, đã có nhiều đợt di cư tự do từ các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ vào các tỉnh phía Nam. Tác động của di dân tự do đến tài nguyên thiên nhiên, đến ĐDSH ở các vùng này đã trở thành vấn đề bức xúc ở một số tỉnh phía Nam, đặc biệt là Tây Nguyên.
Sự nghèo đói.
Việt Nam được xếp loại là một trong những nước nghèo trên thế giới với gần 80% dân số sống ở nông thôn, hoạt động kinh tế chủ yếu là nông – lâm – ngư nghiệp, đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn. Theo thống kê vào năm 2001, tỷ lệ hộ đói nghèo chiếm 17% tổng số dân, trong đó phần lớn số hộ này sống ở nông thôn, miền núi, vùng sâu và biên giới. Trong khu rừng bảo tồn được nghiên cứu, 90% dân địa phương sống dựa vào nông nghiệp và khai thác rừng.
Những người nghèo thường không có ruộng đất, phải sống dựa vào đất bạc màu, đất dốc, đất có độ phì kém, lại thiếu vốn đầu tư lâu dài cho sản xuất, buộc họ phải khai thác nhanh ruộng đất của mình hoặc phá rừng lấy đất canh tác.
Mối quan hệ giữa xóa đói giảm nghèo với bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế xã hội là mối quan hệ nhân quả. Vì vậy, xoá đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu của phát triển, là điều kiện để bảo vệ môi trường.
Chính sách kinh tế.
Chính sách kinh tế ở tầm vĩ mô có ảnh hưởng sâu sắc ở quy mô lớn đến ĐDSH, đến biến đổi tài nguyên và chất lượng môi trường. Nền kinh tế nước ta có sự khác biệt rõ rệt giữa giai đoạn trước đổi mới và giai đoạn đổi mới.
Cho tới năm 1975 các chính sách kinh tế ở nước ta về cơ bản phù hợp với nền kinh tế thời chiến. Các nhu cầu cấp thiết của chiến tranh nhất thiết phải được đáp ứng, kể cả việc khai thác các tài nguyên thiên nhiên, trong đó có tài nguyên sinh vật - đặc biệt là tài nguyên rừng. Sau năm 1975, đất nước đã được thống nhất, nhưng nền kinh tế vẫn còn gặp vô vàn khó khăn. Trong giai đoạn này gỗ được khai thác mạnh cho xây dựng và xuất khẩu tạo nguồn vốn cho phát triển kinh tế.
Những chính sách trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986) một mặt đã góp phần tạo ra bước tiến mạnh mẽ cho nền kinh tế, mặt khác đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến ĐDSH. Chính sách đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp có giá trị cao là nguyên nhân có ý nghĩa nhất làm suy thoái ĐDSH từ năm 1986. Lợi nhuận kinh tế cao của việc xuất khẩu nông sản đã kích thích các thành phần kinh tế đầu tư phá rừng để mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp như cà phê, cao su, điều và phá rừng ngập mặn để nuôi tôm cá.
Chủ trương xuất khẩu gỗ tròn kích thích việc khai thác gỗ và hậu quả là nhiều khu rừng đã bị phá huỷ; đến 1996 giá trị xuất khẩu gỗ đã đạt tới 126,5 triệu USD. Có thể thấy những chính sách phát triển kinh tế trong cơ chế thị trường đã có những tác động gây suy thoái ĐDSH là khó tránh khỏi trên phạm vi toàn quốc nếu không có biện pháp hữu hiệu nhằm quản lý, bảo vệ các HST. Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường cần xem xét, kết hợp những vấn đề môi trường trong việc hoạch định chính sách.
Hiệu lực thi hành pháp luật về môi trường.
Công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên và môi trường đã được Nhà nước ta quan tâm từ những năm 1960. Nhiều văn bản pháp luật, các chủ trương, chính sách đã được ban hành, một số chương trình hành động liên quan đến ĐDSH đã được thực hiện. Tuy nhiên, việc thực thi chưa được triệt để và ý thức bảo vệ ĐDSH của nhân dân, nhất là đồng bào miền núi chưa cao. Mặt khác, về phương diện quản lý Nhà Nước, lực lượng kiểm lâm chưa đủ mạnh, chính sách đãi ngộ còn hạn chế, trang bị kỹ thuật yếu, chế tài, luật pháp chưa cụ thể và có khi còn không động viên, khuyến khích lực lượng kiểm lâm và quần chúng tích cực tham gia bảo vệ rừng.
Hình 3.4. Việc vi phạm pháp luật vẫn diễn ra thường xuyên
Chính sách kinh tế cộng đồng.
Chính sách sử dụng đất: Có vai trò quyết định đến phát triển kinh tế xã hội và đời sống của ngườ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_tieu_luan_da_dang_sinh_hoc_4264.doc