MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
Nội dung 2
I- Cơ sở lý luận: 2
1. Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định: 2
2. Phạm trù cái chung và cái riêng: 2
a. Khái niệm: 2
b. Mối quan hệ cái chung, cái riêng: 3
c. Một số kết luận về mặt phương pháp luận: 4
II- Cái chung – cái riêng và vận dụng trong xây dựng nền KTTT ở Việt Nam: 5
1. Những khái niệm cơ bản có liên quan đến KTTT: 5
2. Nền kinh tế thị trường ở các nước trên thế giới: 6
3. Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam: 8
a. Cái chung được vận dụng vào nền KTTT ở Việt Nam: 8
b. Cái riêng được vận dụng vào nền KTTT ở Việt Nam: 9
c. Cái đơn nhất trong mô hình KTTT ở nước ta: 11
d. Những thành tựu: 12
Kết luận 14
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6846 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vận dụng cặp phạm trù cái riêng, cái chung trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội: tăng trưởng kinh tế nhanh, chính trị ổn định, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế…
Cùng với những thành tựu to lớn đó, nét nổi bật là đã có sự đổi mới tư duy, nhất là tư duy về kinh tế, nhận thức về nền kinh tế mới - nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành trong cơ chế thị trường. Với những kiến thức triết học thu nhập từ trước cùng sự tham khảo sách báo tôi thấy việc vận dụng phép biện chứng duy vật, học thuyết tổng quát về sự phát triển là hết sức cần thiết. Chính vì tôi viết bài tiểu luận triết học với đề tài: “Vận dụng cặp phạm trù cái riêng, cái chung trong việc xây dựng nền KTTT ở Việt Nam”. Hơn nữa với bà tiểu luận này, tôi cũng mong muốn góp một tiếng nói ủng hộ đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng. Do trình độ và khả năng hiểu biết còn hạn chế, việc vận dụng các tri thức triết học chưa được triệt để nên bài tiểu luận này chưa được thật hoàn chỉnh, sâu sắc tôi mong muốn nhận dược sự thông cảm của độc giả. Dẫu vậy tôi mong muốn bài tiểu luận này sẽ là một tài liệu tham khảo nho nhỏ khi độc giả nghiên cứu đến chủ đề này.
Cuối cùng tôi xin trân trọng cảm ơn cô giáo Lưu Ngọc Hà đã góp ý, chỉ dẫn cho tôi trong quá trình thực hiện bài tiểu luận này.
Hà Nội, tháng 1 năm 2005
Nội dung
I- Cơ sở lý luận:
1. Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định:
Mỗi bộ môn khoa học đều có một hệ thống phạm trù riêng của mình phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến thuộc phạm trù khoa học đó nghiên cứu.
Các phạm trù trên đây chỉ phản ánh những mối liên hệ chung trên một lĩnh vực nhất định của hiện thực thuộc phạm trù nghiên cứu của môn khoa học chuyên nghành. Khác với điều đó, các phạm trù của phép biện chứng duy vật như vật chất, “ý thức”, “ vận động”, “ đứng im”, “mâu thuẫn”…là những khái niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất không phải chỉ của một lĩnh vực nhất định nào đấy của hiện thực, mà toàn bộ thế giới hiện thực, bao gồm cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân xuất hiện, đều có quá trình vận động, biến đổi, đều có mâu thuẫn, có nội dung và hình thức. Nghĩa là đều có những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ được phản ánh throng các phạm trù của phép biện chứng duy vật.
2. Phạm trù cái chung và cái riêng:
a. Khái niệm:
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định. Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lập lại throng nhiều sự vật hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính chỉ có ở một kết cấu vật chất, nhất định và không lặp lại ở bất kỳ một kết cấu vật chất nào.
b. Mối quan hệ cái chung, cái riêng:
Trong lịch sử triết học có hai quan điểm trái ngược nhau về mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung:
Phái duy thực cho rằng, “cái riêng chỉ tồn tại tạm thời, thoáng qua, không phải là cái tồn tại vĩnh viễn, chỉ có “cái chung” mới tồn tại vĩnh viễn, thật sự độc lập với ý thức của con người. Cái chung không phụ thuộc vào “cái riêng”, mà còn sinh ra “cái riêng”. Theo Platôn, cái chung là những ý niệm tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những cái riêng chỉ có tính chất tạm thời, cái riêng do cái chung sinh ra.
Phái duy danh cho rằng, chỉ có cái riêng tồn tại thực sự, còn cái chung là những tên gọi trống rỗng, do tư tưởng con người bịa đặt ra, không phản ánh cái gì trong hiện thực. Quan điểm này không thừa nhận nội dung khách quan của khái niệm. Chẳng hạn như: họ cho khái niệm con người, giai cấp, đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc không có ý nghĩa gì trong cuộc sống của con người, chỉ là những từ trống rỗng, không cần thiết phải bận tâm tìm hiểu. Như vậy ranh giới giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật bị xoá nhoà và con người không cần phải quan tâm đến cuộc đấu tranh giữa quan điểm triết học nữa.
Cả quan điểm của phái duy thực và phái duy danh đều sai lầm ở chỗ họ đã tách rời cái riêng khỏi cái chung, tuyệt đối hoá cái riêng, phủ nhận cái chung, hoặc ngược lại. Họ không thấy sự tồn tại khách quan và mối liên hệ khăng khít giữa chúng. Phép biện chứng duy vật cho rằng cái riêng cái chung đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Nghĩa là không có cái chung thuần tuý tồn tại bên ngoài cái riêng. Chẳng hạn không có cái cây nói chung tồn tại bên cạnh cây cam cây quýt cây đào cụ thể. Nhưng cây cam cây quýt nào cũng có rễ, có thân, có lá, có quá trình đồng hoá, dị hoá để duy trì sự sống. Những đặc tính chung này lặp lại ở những cái cây riêng lẻ, và được phản ánh trong khái niệm cây. Đó là cái chung của những cái cây cụ thể. Rõ ràng cái chung tồn tại thực sự, nhưng không tồn tại ngoài cái riêng mà phải thông qua cái riêng.
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có caí riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung. Thí dụ, nền kinh tế của mỗi mỗi quốc, dân tộc với tất cả những đặc điểm phong phú của nó là một cái riêng. Nhưng nền kinh tế nào cũng bị chi phối bởi quy luật cung cầu, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đó là cái chung. Như vậy sự vật, hiện tượng riêng nào cũng bao hàm cái chung.
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm chung cái riêng còn có cái đơn nhất.
Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định, tất nhiên ổn định, tất nhiên lặp lại ở cái riêng cùng loại. Do vậy cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng.
c. Một số kết luận về mặt phương pháp luận:
Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu thị sự tồn của mình nên chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người bên ngoài cái riêng. Thí dụ, muốn nhận thức được quy luật phát triển của nền sản xuất của một nước nào đó, phải nghiên cứu, phân tích, so sánh quá trình sản xuất thực tế ở những thời điểm khác nhau và ở những khu vực khác nhau, mới tìm ra được những mối liên hệ chung tất nhiên, ổn định của nền sản xuất đó.
Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng, nên nhận thức phải nhằm tìm ra cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cái tạo cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn nếu không hiểu biết những nguyên lý chung (không hiểu biết lý luận), sẽ không tránh khỏi rơi vào tình trạng hoạt động một cách mò mầm, mù quáng. Chính vì vậy sự nghiệp đổi mới của chúng ta đòi hỏi trước hết phải đổi mới tư duy lý luận. Mặt khác, cái chung lại biểu hiện thông qua cái riêng, nên khi áp dụng cái chung phải tuỳ theo từng cái riêng cụ thể để vận dụng cho thích hợp hơn.
II- Cái chung – cái riêng và vận dụng trong xây dựng nền KTTT ở Việt Nam:
1. Những khái niệm cơ bản có liên quan đến KTTT:
Thị trường:
Thị trường là nơi diễn ra quá trình trao đổi, thoả thuận giữa người mua và người bán nhằm đi tới một thống nhất về giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ được mua bán. Thị trường cũng có thể hiểu là bất kỳ khung cảnh nào trong đó có diễn ra việc mua bán các loại hàng hoá và dịch vụ.
Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá, thị trường ngày càng phát triển đa dạng. Ngày nay, với sự tiến bộ của công nghệ thông tin và thương mại điện tử thì không nhất thiết phải có một thực thể vật chất tương ứng với thị trường, hay nói cách khác không gian của thị trường là vô tận và thời gian là 24h/ngày.
Kinh tế thị trường:
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Throng nền kinh tế này sản xuất ra cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai – tất cả đều do thị trường quyết định.Như vậy nói đến kinh tế thị trường về thực chất là nói tới cơ chế thị trường. Vậy cơ chế thị trường là gì ?
Cơ chế thị trường:
Cơ chế thị trường là cơ chế mà throng đó tổng thể các nhân tố, các quan hệ cơ bản vận động dưới sự chi phối của quy luật thị trường, throng môi trường cạnh tranh vì mục tiêu lợi nhuận.
2. Nền kinh tế thị trường ở các nước trên thế giới:
Kinh tế thị trường là sản phẩm hoạt động kinh tế của con người đã trải qua nhiều thời đại. KTTT đã xuất hiện từ xa xa throng lịch sử kinh tế nhưng KTTT chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ, phong phú throng vài trăm năm gần đây. Hầu hết các nước trên thế giới ngày nay đều theo mô hình KTTT với những đặc trưng riêng của từng nước. KTTT của các nước Tây Âu có những nét đặc trưng riêng, không giống mô hình của Mỹ, Nhật Bản. Trung Quốc ngày nay cũng theo mô hình KTTT nhưng cũng không hoàn toàn giống các nước phương Tây mà mang “màu sắc Trung Quốc”. Nước Nga ngày nay cũng đã rẽ hẳn theo hướng KTTT của các nước phương Tây, nhưng mấy năm qua với những “liệu pháp sốc”, nền kinh tế của nước này điêu đứng, lao đao, có lúc lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, xã hội sâu sắc, đến nay chưa định hình trong việc lựa chọn mô hình kinh tế Mỹ, Nhật Bản hay Tây Âu.
Song trên bình diện tổng quát, KTTT của các nước đều có điểm tương đồng : vừa có “bàn tay vô hình” của thị trường tác động, tự điều chỉnh, vừa có sự can thiệp, quản lý của nhà nước với KTTT. Thực tiễn cuộc sống cũng đã chỉ rõ sự cần thiết phải có “bàn tay” của nhà nước đối với KTTT, dù phát triển theo khuynh hướng nào, mục tiêu nào.Mặt khác, một điều cần phải công nhận là, mô hình kinh tế của các nước trên thế giới ngày nay, dù phát triển hoàn hảo đến mức nào, cũng không phải là thiên đường mà vẫn có khuyết tận nhất định. Ngay các nhà kinh tế của các nước phương Tây cũng phải thừa nhận nhược điểm trong các mô hình kinh tế của các nước: bất kham, không kiểm soát được hay tính chất “hoang dã”, “man rợ” của nó.
Theo thời gian KTTT ngày càng bộc lộ nguyên hình những mặt trái của nó: nạn thất nghiệp, bất công xã hội, tình trạng tội phạm sự phân hoá giai cấp sâu sắc …. và từ đó cho thấy, kinh tế thị trường không phải là thiên đường trên thế giới ngày nay.
Trong số các nước châu Âu, mô hình kinh tế Thuỵ Điển có những nét đặc trưng đáng lưu ý. Đó là nền kinh tế của một nước vốn là nước nông nghiệp nghèo nàn ở Bắc Âu, sau một thế kỷ trải qua KTTT trở thành một nước công nghiệp phồn vinh, một nước phúc lợi điển hình ở châu Âu. Trung Quốc và Nga là 2 throng số các nước XHCN trước đây chuyển từ cơ chế quan liêu bao cấp sang KTTT, nhưng thành quả đạt được rất khác nhau. Trung Quốc tuy phải trải qua thời kỳ kinh tế “quá nóng” (1989 – 1991) và một số khó khăn nhất định (nạn thất nghiệp, tham nhũng, tình trạng tội phạm …) nhưng nhìn chung kinh tế phát triển ổn định, đạt tốc độ khá cao (vào loại hàng đầu thế giới). Còn nước Nga, mặc dù đã rẽ hẳn theo KTTT của thế giới phương Tây, nhưng nền kinh tế của nước này đã gặp nhiều khó khăn lâm vào tình trạng trì trệ suy giảm, thậm chí có thời kỳ lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc … và đến nay chưa định hình được mô hình kinh tế cho mình.
KTTT của Mỹ có đặc trưng là, do tiềm lực kinh tế và năng lực cạnh tranh mạnh mẽ nên mức độ nhà nước can thiệp vào kinh tế có phần “mềm” hơn. Nhưng nhà nước lại can thiệp tích cực, mạnh mẽ vào lĩnh vực kinh tế đối ngoại, một mặt bảo hộ thị trường throng nước mặt khác hỗ trợ mạnh mẽ cho các công ty Mỹ throng việc xâm nhập vào thị trường ngoài nước, KTTT Mỹ cũng bộc lộ khá rõ nét mặt trái và những khuyết tật của nó. KTTT ở các nước đang phát triển ở châu á và Đông Nam á cũng có nét đặc trưng rất lưu ý: ở các nước này đều có sự can thiệp tích cực, mạnh mẽ của nhà nước vào kinh tế (Hàn Quốc, Indonesia, Philippin, Malaysia, Thai Lan). Chính phủ Thái Lan chủ trương xây dựng một nền kinh tế riêng biệt của Thái Lan (xoá bỏ độc quyền throng kinh tế người Hoa). Chính phủ Hàn Quốc theo đuổi nền KTTT do chính phủ quản lý, hướng đạo với những định hướng, mục tiêu khá rõ ràng throng các thời kỳ phát triển kinh tế throng ba thập kỷ qua.
Chính phủ Indonesia, Philippin, Malaysia … và các nước khác trong khu vực cũng đã tích cực can thiệp vào KTTT như một tất yếu, cần thiết. Lý do xuất hiện lúc ban đầu là do quá trình “quốc hữu hoá” một số tài sản của đế quốc và tay sai để lại, về sau là do nhà nước trực tiếp đầu tư vào các ngành sản xuất then chốt, quan trọng của nền kinh tế quốc dân, throng khi nền kinh tế tự nhiên ở các nước này còn non yếu về nhiều mặt (vốn liếng, năng lực kinh doanh …). ở giai đoạn hiện nay, KTTT hiện đại được hiểu trọn vẹn, đầy đủ hơn. KTTT hiện đại phát triển vào khoảng những năm năm mươi của thế kỷ hai mươi, với đặc trưng nhà nước can thiệp tích cực, mạnh mẽ vào kinh tế throng nước và tích cực mở rộng giao lưu kinh tế nước ngoài. Throng khi ở giai đoạn trước đó (cuối thế kỷ thứ mười tám đầu thế kỷ thứ mười chín), KTTT tự do phát triển theo tinh thần tự do, nhà nước không can thiệp vào kinh tế mà chỉ làm các chức năng truyền thống của nhà nước pháp quyền. Chung quy lại, trên thế giới hiện nay, không có nhà nước nào không can thiệp vào kinh tế, chỉ khác nhau ở biện pháp mục tiêu và kết quả đạt được.
3. Mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam:
a. Cái chung được vận dụng vào nền KTTT ở Việt Nam:
Quá trình phát triển mô hình KTTT mỗi quốc gia đều có màu sắc riêng in đậm nét, những điều kiện đặc thù về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá … Bên cạnh đó nhất thiết phải có những đặc điểm chung, mang tính quy luật mà khi theo mô hình kinh tế này, đất nước ta cũng buộc phải trải qua.
Một đặc điểm chung cơ bản dễ nhận ra đó là cũng như mọi nước khác, chúng ta cũng chịu sự phân công lao động theo nhiều ngành nghề, có sự khác biệt về sở hữu tài sản và đặc biệt lợi nhuận là động lực cho sự phát triển.
Bên cạnh đó sự thay đổi vai trò của nhà nước, từ vai trò là bà đỡ, là người lính gác trở thành một tác nhân quyết định một yếu tố nội tại của mô hình kinh tế. Đồng thời nền kinh tế của chúng ta cũng vận động theo những quy luật vốn có của nền KTTT đó là quy luật cung – cầu, quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ .. và phát triển phong phú các loại thị trường như thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, thị trường khoa học công nghệ … đây là những đặc điểm tốt mà KTTT mang lại.
Cuối cùng là những vấn đề tiêu cực mà KTTT mang lại đó là: có sự phân hoá giàu nghèo sâu sắc, nạn thất nghiệp gây khó khăn cho cuộc sống của nhiều người, các tệ nạn xã hội cũng gây sức ép to lớn cho nền kinh tế đất nước, làm cho nền kinh tế phát triển mất cân đối.
b. Cái riêng được vận dụng vào nền KTTT ở Việt Nam:
Chúng ta đều thống nhất rằng mô hình KTTT là mô hình kinh tế chung của nhiều đất nước khác nhau. Nhưng KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam chính là cái cội rễ, cái cốt lõi của xã hội Việt Nam, đó là một nét riêng. Hơn nữa đi sâu vào phân tích ta sẽ thấy được các đặc điểm riêng của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
Sau ngày giải phóng hoàn toàn đất nước, Đảng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế tập trung. Thực chất nền kinh tế này cũng đã được vận dụng ở miềm Bắc Việt Nam throng những năm 1954 – 1975 và cũng đã gặt hái được những thành tựu đáng kể, xây dựng một hậu phương vững chắc cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến. Nhưng nền kinh tế này lại không đạt được những thành quả như chúng ta mong muốn ở thời bình. Sau 1975 toàn thể nhân dân ta ngập tràn throng niềm vui của kẻ chiến thắng, lúc này ta thấy CNXH là tối ưu, xây dựng nền kinh tế tập trung theo mô hình của Liên Xô là đúng đắn. Chỉ vài năm sau nền kinh tế này đã bộc lộ được những hạn chế to lớn: nền kinh tế đi vào khủng hoảng sâu sắc. Lúc này chúng ta là một throng những nước nghèo nhất trên thế giới. Mãi cho đến Đại hội Đảng lần thứ VI Đảng ta mới mạnh dạn đổi mới cơ chế kinh tế của nước ta sang nền KTTT. Chuyển sang KTTT với điểm mốc xuất phát thấp kém chúng ta đã gặp không ít những khó khăn. Một số cơ sở hạ tầng mà đề quốc đã xây dựng được trước đó đều bị chúng ta phá, đội ngũ những nhà quản lý trình độ thấp hầu hết là các bộ đội xuất ngũ chưa được đào tạo qua nghiệp vụ về quản lý. Đặc biệt đội ngũ công nhân qua đào tạo gần như không có. Trình độ tay nghề của công nhân kém, trình độ quản lý của cán bộ thấp, lại quen với thói độc quyền về sản xuất hàng hoá nên khả năng cạnh tranh của chúng ta còn rất kém. Hiện nay chúng ta chỉ có 5 loại thị trường: Thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường khoa học và công nghệ. Throng đó còn có thị trường phát triển còn rất mới mẻ như thị trường chứng khoán.
Mặt khác theo quy luật thông thường nền KTTT ở các nước trải qua các giai đoạn: KTTT giản đơn đến KTTT tư bản rồi mới đến KTTT hiện đại. Trong khi đó nền KTTT ở nước ta đi lên từ một điểm xuất phát thấp lại bỏ qua một hình thái kinh tế rất quan trọng – nền KTTB chúng ta đi thẳng từ KTTT giản đơn lên KTTT hiện đại. Không chỉ có điểm xuất phát thấp, sự đi tắt, nước ta còn xây dựng nền KTTT throng sự ảnh hưởng rất sâu sắc của các yếu tố như: truyền thống lịch sử, truyền thống văn hoá, lịch sử hào hùng hoành tráng nhưng đáng tiếc chúng ta không có truyền thống xây dựng kinh tế. Trước đây chúng ta xây dựng XHXN chúng ta không chấp nhận KTTT vì coi nó đi đôi, gắn liền với CNTB, chúng ta không chấp nhận chế độ tư hữu, chúng ta chỉ chấp nhận tập thể, tập trung đó cũng là cơ sở để giải thích vì sao chúng ta làm kinh tế kém hiệu quả. Đó là những đặc điểm riêng nhưng cũng là những khó khăn bước đầu mà chúng ta gặp khi chuyển đổi nền kinh tế.
Nền KTTT ở Việt Nam là nền KTTT định hướng XHCN dưới sự dẫn dắt và lãnh đạo của Đảng. Chính nền KTTT định hướng XHCN đảm bảo cho mọi loại hình doanh nghiệp, mọi tổ chức dân cư, mỗi gia đình, mỗi người dân được bình đẳng về kinh tế, chính trị, xã hội. Trong đường lối mà Đảng ta đã đề ra Đảng chủ trương xây dựng nền KTTT phải được dựa trên cơ sở đa dạng hoá hình thức sở hữu, đa dạng hoá hình thức kinh tế. Hiện nay ở nước ta có tới 6 thành phần kinh tế phát triển đồng thời, dưới sự quản lý của nhà nước: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Sáu thành phần kinh tế này được nhà nước đảm bảo cho sự phát triển một cách công bằng.
ở Việt Nam KTTT định hướng XHXN, mặc dù phân bố các nguồn lực cho các nhu cầu sử dụng khác nhau chủ yếu được quyết định bởi thị trường, nhưng nhà nước XHCN đóng một vai trò quan trọng throng việc điều tiết vĩ mô, bảo đảm giữ vững các cân đối khách quan của nền KTQD một cách tự giác. Bằng cách đó hệ thống kinh tế này có thể hạn chế và khắc phục một số khuyết điểm hay nhứng khuyết tật của KTTT đảm bảo đạt tới các mục tiêu phát triển của một nền kinh tế định hướng XHCN.
KTTT định hướng XHCN là sự tìm tòi thể hiện mới cả về lý luận lẫn thực tiễn của CNXH trong thời đại ngày nay. Tại Đại hội Đảng IX, Đảng ta đã xác định những nội dung lớn trong việc xây dựng nền KTTT ở nước ta trong những năm tới là tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước.
Thúc đẩy sự hình thành và phát triển, từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng XHCN, đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán … Như vậy cùng với sự hoàn thiện và thích ứng dần của hệ thống kinh tế mới, thuật ngữ KTTT định hướng XHCN cũng đang ở throng quá trình hoàn thiện về nhận thức.
Theo lý luận của chủ nghĩa Mac – Lenin chúng ta đã biết: cái riêng phong phú hơn cái chung, cái riêng bao hàm cái chung. ở đây KTTT theo định hướng XHCN là cái riêng throng nền KTTT, nó vận hành theo những quy luật chung của KTTT và ngoài ra còn có những nét riêng, đặc trưng mà chúng ta đã nói ở trên.
c. Cái đơn nhất trong mô hình KTTT ở nước ta:
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ có nền kinh tế phát triển chậm dựa trên lực lượng sản xuất còn yếu kém và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, có nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, ở đó con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, ở đó mọi người có quyền làm chủ bản thân mình và làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Người dân có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc trong khuôn khổ pháp luật, có điều kiện để phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Nước ta có quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước trên toàn thế giới theo Mac, XHCN phải ra đời từ các nước tư bản văn minh có nền kinh tế phát triển cao, song Việt Nam trước đây đã phải chịu sự thống trị của chế độ thực dân Pháp, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và đã lãnh đạo được nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc, đưa đất nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội vì vậy, Việt Nam từ một nước có nền kinh tế lạc hậu đi lên CNXH, định hướng XHXN ở nước ta ngày càng được giữ vững và không ngừng phát triển.
Như vậy định hướng XHCN ở Việt Nam là một cái đơn nhất throng nền KTTT định hướng XHCN duy chỉ ở nước ta mới có định hướng XHCN. Chẳng hạn ở Trung Quốc có nền KTTT XHCN chứ không phải là định hướng XHCN. Đất nước ta bỏ qua giai đoạn TBCN và đi theo xã hội chủ nghĩa theo phương thức kế thừa và phát huy những mặt tiêu biểu, tích cực của xã hội cũ để xây dựng xã hội văn minh, tiến bộ. Sự định hướng XHCN là vô cùng quan trọng và cần thiết. Như hiện nay chúng ta đang mở rộng quan hệ, thành phần kinh tế mới được Đại hội IX của Đảng thông qua – thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhưng không phải vì vậy mà chúng ta lạm dụng vay vốn quá nhiều mà ngược lại phải tận dụng một cách hợp lý có hiệu quả mọi nguồn vốn đầu tư để trên cơ sở đó phát triển kinh tế của đất nước mình. Hơn nữa KTTT bây giờ có nhiều thay đổi lớn, và các nước khác nhau thì mô hình KTTT khác nhau đó là đặc trưng riêng của mỗi nước, Đảng ta đã có định hướng rõ ràng đó là nền KTTT định hướng XHCN.
d. Những thành tựu:
Sau 19 năm đổi mới, bộ mặt nền kinh tế Việt Nam đã có sự thay đổi rõ rệt. Cụ thể nền kinh tế có sự tăng trưởng qua từng năm một: năm 2001 là 6,9%, năm 2002 là 7,04%, năm 2003 là 7,24% và năm 2004 là 7,7%.
Nông, lâm, nghư nghiệp tốc độ tăng trưởng khá và toàn diện cụ thể trong những năm gần đây bình quân giá trị sản lượng tăng là 5,6%. Sản lượng lương thực năm 2000 đạt 34 triệu tấn, Việt Nam từ một nước nhập khẩu lương thực hàng năm trở thành một nước xuất khẩu lương thực đứng thứ 2 trên thế giới.
Về các ngành khác cũng tăng đáng kể throng các năm từ 2000 đến 2003: ngành điện là 26,6 tỷ KWh – 41 tỷ KWh, ngành than 11,6 triệu tấn – 16,5 triệu tấn, dầu khí 16,3 triệu tấn – 17,2 triệu tấn, thép cán 1,6 triệu tấn – 2,8 triệu tấn, công nghiệp cơ khí mỗi năm tăng 17,7%.
Vấn đề bức xúc nhất cũng đã có những chuyển biến tích cực, công tác chăm sóc trẻ em và người già không nơi nương tựa đã có nhiều tiến bộ, số hộ đói nghèo cũng đã giảm rõ rệt.
Những số liệu trên đây cùng với hiện thực cuộc sống cho ta thấy rõ bộ mặt nền kinh tế Việt Nam, điều này càng khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng ta.
Kết luận
Công cuộc đổi mới ở nước ta trên 19 năm nhưng đã thu được những kết quả rõ rệt trên nhiều phương diện, những kết quả này đã khẳng định đường lối chính sách của Đảng là đúng đắn: chuyển đổi sang nền KTTT định hướng XHCN mở cửa hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Sở dĩ có công cuộc đổi mới này là do Đảng ta đã vận dụng chủ nghĩa Mac – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, là do sự nhìn nhận thấu đáo về mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng.
Song đất nước ta còn phải đối mặt với nhiều thách thức, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước throng khu vực và trên thế giới, chệch hướng XHCN, nạn tham nhũng và tệ nạn quan liêu, “diễn biến hoà bình”, “bạo loạn lật đổ” do các thế lực thù địch gây ra, đến nay vẫn còn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen và tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào. Điều cần nhấn mạnh là chủ nghĩa đế quốc, mà đứng đầu là đế quốc Mỹ đang chống phá trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực kinh tế là mũi nhọn, nhất là trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, chúng lợi dụng sự giao lưu, hợp tác kinh tế giữa các quốc gia để xoá nhoà ranh giới giữa cái chung và cái riêng trong nền KTTT định hướng XHCN nhằm làm cho nền kinh tế nước ta đi theo quỹ đạo của nền kinh tế TBCN. Do đó, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã tiếp tục khẳng định: xây dựng nền KTTT định hướng XHCN là một tất yếu, khách quan.
Trong phạm vi bài tiểu luận này, tôi đã đưa ra một số vấn đề mang tính lý luận về mốii quan hệ giữa cái chung và cái riêng của chủ nghĩa Mac – Lênin, từ đó vận dụng vào phân tích cái chung và cái riêng throng xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở nước t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35689.doc