MỤC LỤC
Trang
I. Đặt vấn đề 1
II. Giải quyết vấn đề 4
A. Phần lí luận 4
1. Hoàn cảnh ra đời của chính sách Kinh tế mới. 4
a. Hoàn cảnh nước Nga khi áp dụng chính sách cộng sản thời chiến(1917-1920). 4
b. Nội dung của chính sách Cộng sản thời chiến. 4
c. Sau cuộc nội chiến, yêu cầu đặt ra là phải có một chính sách Kinh tế mới để thay thế chính sách Cộng sản thời chiến đã không còn phù hợp vơí nước Nga. 6
2. Nội dung chính sách Kinh tế mới –NEP. 8
a. Thay chế độ trưng thu lương thực thừa bằng chính sách thu thuế lương thực. 9
b. Phát triển quan hệ hàng hoá tiền tệ, phát triển thị trường. 9
c. Phát triển nhiều thành phàn kinh tế và chủ trương mở rộng quan hệ kinh tế với các nước phương Tây để tranh thủ vốn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại. 11
3. Biện pháp thực hiện và kết quả. 12
a. Trong nông nghiệp. 12
b. Đối với công nghiệp. 14
c. Đối với thương nghiệp. 14
4. Ý nghĩa. 15
a. Đối với nước Nga. 15
b. Đối với các nước Xã hội chủ nghĩa. 16
c. Đối với Việt Nam. 17
B. Vận dụng chính sách Kinh tế mới ở việt nam. 18
1. Thực chất của Chính sách kinh tế mới là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. 18
a. Thành phần kinh tế nhà nước. 19
b. Thành phần kinh tế tập thể. 21
c. Thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ. 23
d. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân. 24
e. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước. 25
f. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. 26
2. Sự phát triển sáu thành phần kinh tế trên dựa các hình thức sở hữu sau: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân,sở hữu hỗn hợp, sở hữu cá thể. 27
3. Hiện nay Đảng và nhà nước ta đang chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. 30
a. Sử dụng các quy luật kinh tế. 30
b. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 31
c. Phát triển đồng bộ hệ thống thị trường trong thời kỳ hiện nay. 33
d. Trong điều kiện nước ta hiện nay, vận dụng chính sách kinh tế mới để phát triển xây dựng các chính sách phát triển kinh tế là một tất yếu. 34
4. Kết quả. 36
III. Kết luận 38
1. Những tư tưởng trong chính sách kinh tế mới thể hiện một tư tưởng lớn của thời đại 38
2. Vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I. Lênin về chính sách kinh tế mới ở nước ta là hoàn toàn đúng đắn. 39
Tài liệu tham khảo 40
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1590 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vận dụng chính sách Kinh tế mới ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng, ngân hàng… phải hỗ trợ, tác động hữu hiệu đến thương nghiệp xã hội chủ nghĩa bằng các biện pháp tham dự đầu tư. Do đó Lênin rất quan tâm xây dựng chính sách tài chính quốc gia và cải cách tiền tệ. Người chỉ rõ “bất kể thế nào chúng ta cũng phải thực hiện bằng được những cải cách vững chắc về mặt tài chính nhưng chúng ta nên nhớ rằng nếu chính sách tài chính của chúng ta không thu được thắng lợi thì mọi cải cách triệt để của chúng ta cũng sẽ thất bại” (V.I.Lênin. Toàn tập. Nxb, tiến bộ, tập 43,trang 274).
Theo Lênin nếu Đảng có chính sách tài chính đúng đắn, có hệ thống ngân hàng hoạt động có hiệu quả với đồng tiền có giá thì mối quan hệ kinh tế từ trung ương đến địa phương, giữa các ngành sẽ được thiết lập một cách bình đẳng trên thi trường thông qua quan hệ hàng hoá tiền tệ và quan hệ ngoại thương –tức mối quan hệ giữa thị trường trong nước và thế giới cũng được thiết lập. Để thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước chuyên chính vô sản, Lênin đặc biệt quan tâm đến công cuộc cải tổ bộ máy nhà nước. Người luôn coi trọng vai trò của nhà nước trong việc quản lý kinh tế và phát triển kinh tế đất nước.
Kết quả: thương nghiệp được phát triển mạnh mẽ. Đối với ngoại thương Liên xô đã có quan hệ với hơn 40 quốc gia trên thế giới. Tổng mức luân chuyển hàng hoá năm 1926 đã gấp hai lần năm 1924. Ngân sách nhà nước đã được củng cố lại: Năm 1925-1926, thu nhập của Nhà nước tăng lên gấp 5 lần so với năm 1922-1923. Giá trị đồng Rup được tăng lên đáng kể, có tác dụng rõ rệt trong việc áp dụng chế độ hạch toán kinh tế góp phần khôi phục nhanh chóng nền kinh tế.
4. ý nghĩa.
a. Đối với nước Nga.
Nhờ thông qua tổ chức và những biện pháp tổ chức quan trọng mà quan điểm lý luận của Lênin về chính sách Kinh tế mới được thực hiện để tạo điều kiện cải biến nước Nga tư bản kém phát triển, nền kinh tế tiểu nông còn khá phổ biến thành nước Nga Xã hội chủ nghĩa.
Chính sách kinh tế mới của Lênin có vai trò cực kỳ quan trọng, nó đã khôi phục được nền kinh tế sau chiến tranh. Chỉ trong một thời gian ngắn đã biến nước Nga từ một nước Nga đói nghèo thành một nước Nga có nguồn lương thực dồi dào. Từ đó đã khắc phục được tình trạng khủng hoảng kinh tế chính trị, củng cố lòng tin cho nhân dân vào sự thắng lợi tất yếu và bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội theo những nguyên lý mà lênin dã vạch ra. Nó góp phần củng cố khối liên minh công nông và sự ra đời của nhà nước công nông nhiều dân tộc là Liên Xô.
Mô hình kinh tế này đã tạo ra những thành tựu quan trọng cả về kinh tế và xã hội. Đồng Rup, và chế độ tài chính được ổn định; thắng được nạn đói và bội thu thuế lương thực mà hoàn toàn không phải dùng chế độ cưỡng bức, nông dân hài lòng, công nghiệp nhẹ đang trên đà phát triển, đời sống công nhân được cải thiện, công nghiệp nặng tuy còn khó khăn nhưng đã có sự cải thiện đáng kể vì đã tạo ra được một số vốn nhất định, chính quyền XôViết ngày càng vững vàng.
Chính sách Kinh tế mới không chỉ có ý nghĩa ngay tại thời điểm đó mà nó còn tạo điều kiện cho sự phục hồi kinh tế sau này của Liên Xô sau khi bị chiến tranh thế giới thứ hai tàn phá nặng nề và đã đưa Liên Xô trở thành một cường quốc lớn trên thế giới.
b. Đối với các nước Xã hội chủ nghĩa.
Chính sách kinh tế mới không chỉ có ý nghĩa với riêng nước Nga mà còn có ý nghĩa quan trọng với nhiều nước phát triển theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đó là việc xách định và sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế. Qua đó đã cho thấy rằng: trong điều kiện một nền kinh tế có sự tồn tại của nhiều trình độ khác nhau thì việc cho phép tồn tại nhiều loại hình sản xuất kinh doanh (nhiều thành phần kinh tế) sẽ cho phép huy động mọi khả năng để khôi phục và phát triển kinh tế
Việc kết hợp giữa kế hoạch và thị trường trong điều tiết kinh tế bằng sự tồn tại của quan hệ hàng hoá- tiền tệ như là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế. Tại Liên Xô thì bộ phận sản xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế tư bản chủ nghĩa hoạt động trên thị trường được nhà nước điều tiết bằng chính sách và pháp luật.
Vấn đề vận dụng quy luật giá trị cùng với các quy luật của sản xuất, quy luật lưu thông tiền tệ. Cho thấy rằng nếu một nền kinh tế muốn phát triển mà không giải quyết vấn đề tiền tệ thì sẽ gây khó khăn về mọi mặt. Việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thành thị và nông thôn bằng giải quyết mối quan hệ giữa hai giai cấp công nhân và nông dân. Tạo lên mối liên hệ chặt chẽ giữa hai giai cấp bằng trao đổi buôn bán.
c. Đối với Việt Nam.
Những tư tưởng cơ bản trong chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin về việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, thi hành chế độ hợp tác xã, cho phép tự do buôn bán trao đổi hàng hoá, cho phép tư nhân được tự do kinh doanh dưới sự điều tiết của nhà nước vẫn có ý nghĩa to lớn trong công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới của đất nước đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế.
Đó là xóa bỏ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tổng kết của quá trình 15 năm đổi mới bên cạnh những thành tựu đáng kể nước ta vẫn còn có nhiều yếu kém, khuyết điểm :Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả kinh tế thấp, mức sống của phần lớn nhân dân còn thấp …
Nước ta hiện nay đang phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một biểu hiện rõ rệt của việc áp dụng chính sách kinh tế mới của Lênin trong điều kiện tình hình hoàn cảnh của nước ta hiện nay là hoàn toàn phù hợp. Điều nàyđã thể hiện nhận thức đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
B. Vận dụng chính sách Kinh tế mới ở việt nam.
1. Thực chất của Chính sách kinh tế mới là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Sau chiến tranh nước ta tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, hiện nay đang trong thời kì quá độ, mà đặc điểm to lớn nhất của nước ta trong thời kỳ này là nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ “Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.”[Đảng cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX-Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2001-trang87] với mục tiêu hàng đầu của sự phát triển kinh tế thị trường nước ta là giải phóng sức sản xuất, động viên mội nguồn lực trong và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng cơ sở, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội cải thiện từng bước đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp gắn liền với xoá đói giảm nghèo.
Để đạt được những mục tiêu trên, trong điều kiện của nước ta hiện nay là một vấn đề khá khó khăn. Nền kinh tế chưa thật sự phát triển cao, lực lượng sản xuất có nhiều trình độ khác nhau ứng với nó là có nhiều kiểu quan hệ sản xuất khác nhau phù hợp với trình độ của từng lực lượng sản xuất. Nhưng với nhưng nhận thức đúng đắn, và việc áp dụng một cách thích hợp những đặc điểm chủ yếu, tích cực của Chính sách Kinh tế mới phù hợp với hoàn cảnh của nước ta hiện nay sẽ giúp chúng ta vượt qua được những khó khăn trước mắt va đạt được thành công trong tương lai. Điều này được thể hiện trong những tư tưởng và chính sách của Đảng và nhà nước ta đó là chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước Xã hội chủ nghĩa.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI và lần thứ VII đã xác định nền kinh tế nước ta có năm thành phần kinh tế. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX Đảng ta đã xác định lại là trong điều kiện nước ta hiện nay nước ta tồn tại sáu thành phần kinh tế là: thành phần kinh tế nhà nước; thành phần kinh tế tập thể; thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ; thành phần kinh tế tư bản tư nhân; thành phần kinh tế tư bản nhà nước; thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Sáu thành phần kinh tế này cùng tồn tại và phát triển trong một nền kinh tế thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
a. Thành phần kinh tế nhà nước.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất là sử hứu toàn dân và sở hữu nhà nước. Kinh tế nhà nước được quan niệm là phần tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Bao gồm: tài nguyên, khoáng sản, đất đai,..là tài sản quốc gia do nhà nước đại diên toàn dân làm chủ sở hữu các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước, chịu sự quản lí trực tiếp của nhà nước. Thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta, là lực lượng quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Chúng ta nhận thức sâu sắc rằng nhà nước là nhà nước của dân, do dân và vì dân mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Thực hiện vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước vừa là một biểu hiện vừa là một điều kiện kiên quyết của định hướng Xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân. Không củng cố và tăng cường kinh tế nhà nước thì không thể hướng tới chủ nghĩa xã hội. Trong việc củng cố và tăng cường kinh tế chúng ta phải thực hiện tốt nhất nhiệm vụ cấp bách trước mắt là sắp xếp tổ chức lại nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.Đồng thời phát triển thêm doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc có cổ phần chi phối ở một ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Làm cho các doanh nghiệp nhà nước, bộ phận quan trọng nhất của nền kinh tế, thực sự phải đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất và chất lượng hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp nhận pháp luật.
Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước phải được thực hiện theo những hướng sau:
Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Khẩn trương cải thiện tình hình tài chính và lao động của các doanh nghiệp nhà nước, củng cố và hiện đại hoá một bước các tổng công ty nhà nước.
Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu đối với những doanh nghiệp mà nhà nước không cần phải nắm giữ 100% vốn và quyền kiểm soát.
Giao, bán, cho thuê,…các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà nhà nước không cần nắm giữ.
Sát nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và không thực hiện các biện pháp trên.
Về mặt quản lý kinh tế, Nhà nước phải phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của các doanh nghiệp. Thực hiện chế độ quản lý công ty với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là nhà nước và công ty cổ phần có vốn nhà nước, giao cho hội đồng quản trị doanh nghiệp quyền đại diện trực tiếp chủ sở hữu gắn liền với quyền tự chủ kinh doanh. Quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng xoá bỏ triệt để bao cấp, doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường; tự chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi. Thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp. Có cơ chế phù hợp về kiểm tra, kiểm soát, thanh tra của doanh nghiệp nhà nước.
Vì vậy phải thực hiện tốt và đầy đủ những biện pháp trên thì mới đảm bảo được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Mà kinh tế nhà nước có được vai trò chủ đạo thì mới có thể đảm bảo được định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường.
b. Thành phần kinh tế tập thể.
Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn, cùng kinh doanh, tự quản lý theo nguyên tắc tập trung, bình đẳng, cùng có lợi. Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động các hộ sản xuất kinh doanh vừa và nhỏ, không giới hạn quy mô lĩnh vực và địa bàn. Phát triển hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học công nghệ, nắm bắt thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, giải quyết nợ tồn đọng. Khuyến khích việc tích luỹ, phát triển có hiệu quả vốn tập thể trong hợp tác xã. Tổng kết chuyển đổi và phát triển hợp tác xã theo luật hợp tác xã.
Thành viên kinh tế tập thể bao gồm cả tư nhân và pháp nhân, cả người có ít vốn và người có nhiều vốn. Họ cùng góp vốn và góp sức trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ. Nguyên tắc phân phối là phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chủ yếu, bao gồm: lợi ích của các thành viên, lợi ích của các tập thể, lợi ích xã hội, góp phần xoá đói giảm nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành viên và cho cả xã hội. Phát triển kinh tế tập thể theo phương châm tích cực vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tế đi từ thấp đến cao, đạt hiệu quả thiết thực, vì sự phát triển của sản xuất.
Thực tiễn những năm đổi mới cho thấy, nước ta quá độ nên chủ nghĩa xã hội từ nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, nông dân chiếm đại bộ phận dân cư, vì vậy chúng ta không thể không phát triển kinh tế hợp tác xã. Vấn đề đặt ra ở chỗ, từ những tư tưởng cơ bản của Lênin về “chính sách Kinh tế mới” và quan điểm của ông về chế độ hợp tác xã trong nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta phải coi kinh tế hợp tác xã là một tế bào của kinh tế thị trường. Từ đó cho ta thấy: từ một nước nông nghiệp lạc hậu như nước ta quá độ nên chủ nghĩa xã hội, chúng ta chủ có thể thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng một loạt các biện pháp quá độ đặc biệt, gián tiếp chứ không thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội được. Khi chúng ta chưa có nền công nghiệp đủ lớn, chưa có một nền sản xuất nông nghiệp đủ lớn thì sự tồn tại của thành phần kinh tế hợp tác là hoàn toàn khách quan, và là một tất yếu cần thiết.
Hiện nay có nhiều loại hình hợp tác xã ra đời do nhu cầu khách quan của sản xuất trên cơ sở các hộ xã viên tự nguyện tham gia và góp cổ phần, lời ăn lỗ chịu. Vì vậy đã huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân, giải quyết có hiệu quả hơn những việc mà cá nhân một gia đình xã viên không thể giải quyết được. Trong những năm qua ở nước ta, nét nổi bật của các hợp tác xã là chú trọng chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh; từng bước khắc phục những thiếu sót trong tổ chức và trong hoạt động. Các hợp tác xã đã xác định lại tài sản, vốn quỹ, thu đủ hoặc tăng thêm vốn góp của xã viên, chấm dứt tình trạng chỉ có ghi vốn trên sổ sách, tích cực thu nợ để bổ sung vốn, quản lý vốn tốt hơn. Nhiêu hợp tác xã đã hoàn thiện phương án sản xuất kinh doanh, mở thêm ngành nghề và lĩnh vực hoạt động, kết hợp giữa dịch vụ và kinh doanh tổng hợp. Không ít hợp tác xã đã đầu tư lớn, áp dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại, tạo ra giá trị sản phẩm hàng tỷ đồng, sản xuất nhiều hàng xuất khẩu, giải quyết việc làm cho người lao động. Một số loại hình hợp tác xã mới ra đời mang tính đa dạng bắt nguồn từ yêu cầu khách quan của các kinh tế nông hộ trong nông nghiệp. Nhiều mô hình hợp tác xã mới đã đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Kinh tế hợp tác ngày càng phát triển, góp phần làm tăng thu nhập cho nhân dân.
ở khu vực nông nghiệp và nông thôn, phát triển kinh tế tập thể phải dựa trên cơ sở đảm bảo quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại, hỗ trợ đắc lực cho kinh tế hộ trang trại, phát triển gắn liền với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, không ngừng nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sự phát triển của kinh tế tập thể trong điều kiện nước ta hiện nay rất cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự hỗ trợ của Nhà nước. Bởi vậy, phải tăng cường lãnh đạo chỉ đạo, chỉ đạo và có chính sách khuyến khích, ưu đãi, giúp đỡ kinh tế hợp tác phát triển có hiệu quả. Thực hiện tốt luật hợp tác xã.
c. Thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ.
Kinh tế cá thể là thành phần kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và khả năng lao động của bản thân người lao động và gia đình. Kinh tế cá thể tiểu chủ là hình thức kinh tế dựa trên tư hữu nhỏ về tư tiệu sản xuất nhưng có thuê mướn lao động, tuy nhiên thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào sức lao động và vốn của bản thân gia đình.
Kinh tế cá thể tiểu chủ là thành phần đang có vị trí rất quan trọng trong nhiều ngành, nghề ở nông thôn và thành thị, có điều kiện phát huy nhanh và hiệu quả tiềm năng về vốn sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Do đó, việc mở rộng sản xuất, kinh doanh của kinh tế cá thể và tiểu chủ cần được khuyến khích.
Hiện nay, ở nước ta, thành phần kinh tế này phần lớn hoạt động dưới hình thức hộ gia đình, đang là một bộ phận đông đảo, có tiềm năng to lớn, có vị trí quan trọng, lâu dài. Đối với nước ta, cần phát triển mạnh mẽ thành phần kinh tế này để góp phần tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, vừa giải quyết nhiều việc làm cho người lao động- một vấn đề bức bách hiện nay của đời sống kinh tế, vừa giải quyết được nhiều việc làm cho đời sống xã hội. Trong những năm qua, thành phần kinh tế này phát triển nhanh chóng trong nông, lâm, ngư nghiệp tiểu thủ công nghiệp và thương mại dịch vụ. Nó đã góp phần quan trọng vào các thành tựu kinh tế- xã hội. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, kinh tế các thể tiểu chủ cho dù cố gắng đến bao nhiêu cũng không thể loại bỏ được những hạn chế vốn có như: tính tự phát, manh mún, hạn chế về kỹ thuật. Do đó Đảng ta chỉ rõ: cần giúp đỡ kinh tế cá thể tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học công nghệ, về thị trường tiêu thụ sản phẩm “nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển, khuyến khích các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển hơn nữa” [Đảng cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX-Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội,2001-trang98].
d. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê. Trong thời kỳ quá độ nên chủ nghĩa xã hội ở nước ta nhiện nay thành phần kinh tế này có vai trò rất quan trọng xét về phương diện phát triển lực lượng sản xuất, xã hội hoá sản xuất cũng như về phương diện giải quyết các vấn đề xã hội. Đây cũng là thành phần kinh tế năng động nhạy bén với kinh tế thị trường, do đó sẽ có những đóng góp không nhỏ vào quá trình phát triển kinh tế đất nước. Hiện nay kinh tế tư bản tư nhân bước đầu có sự phát triển, nhưng phần lớn tập trung vào lĩnh vực thương mại dịch vụ và kinh doanh bất động sản; đầu tư vào sản xuất còn ít và chủ yếu là quy mô vừa và nhỏ. Chính sách của Đảng và Nhà nước ta là khuyến khích tư bản tư nhân bỏ vốn phát triển sản xuất, đáp ứng các nhu cầu của dân cư. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của họ; xoá bỏ định kiến và tạo điều kiện thuận lợi về tín dụng, về khoa học công nghệ …cho thành phần kinh tế này. Tuy nhiên đây là thành phần kinh tế có tính tự phát rất cao. Đầu cơ, buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả…là những hiện tượng thường xảy ra ở thành phần kinh tế này. Điều đó đòi hỏi phải tăng cường quản lý đối với thành phần kinh tế này. Như chính sách của Đảng ta là:“khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động.” [Đảng cộng sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX-Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội,2001-trang98,99]. Kinh tế tư bản tư nhân phải được tạo điều kiện khuyến khích tồn tại phát triển lâu dài trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay.
Theo tư tưởng của Bác Hồ về nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp ở nước ta thì: Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế của giai cấp tư bản dân tộc. Có bóc lột đối với công nhân nhưng cũng góp phần vào phát triển kinh tế đất nước. Giai cấp tư sản nước ta mới ra đời còn non yếu. Tuy nhiên “về mặt sản xuất so với chế độ phong kiến thì chế độ tư bản là một tiến bộ”. Họ có nhiều kinh nghiệm sản xuất, sử dụng vốn, sử dụng khoa học kỹ thuật … “nên Chính phủ cần trợ giúp họ phát triển. Nhưng phải phục tùng nền kinh tế quốc gia, phải hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân”. Theo nội dung của Chính sách kinh tế mới của Lênin thì phát triển kinh tế tư bản tư nhân không phải là quay về chủ nghĩa tư bản mà chỉ là lợi dụng chủ nghĩa tư bản để phát triển kinh tế đất nước, thực chất là giành lấy những thành tựu vế khoa học kỹ thuật công nghệ, văn hoá, giáo dục của chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy chúng ta phải ta phải tạo mọi diều kiện cho chủ nghĩa tư bản tư nhân phát triển trên mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Nhưng phải đặt sự phát triển của thành phần kinh tế này dưới vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng ta. Nhà nước phải tạo mọi điều kiện để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt hạn chế nhữnh mặt tiêu cực của nó và dần dần có thể cưỡng bức họ phát triển theo con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước. Để làm được điều này đòi hỏi Đảng ta phải có đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo. Nhà nước ta phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý, đặc biệt là quản lý kinh tế; cán bộ, Đảng viên của Đảng phải có phẩm chất, đạo đức lối sống trong sáng, phải xây dựng Đảng thật sự trong sạch vững mạnh.
e. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước.
Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp đó là sự kết hợp giữa nhà nước và các nhà tư bản tư nhân trong và ngoài nước trong các quá trình phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh. Hình thức biêủ hiện của thành phần kinh tế này là các doanh nghiệp liên doanh giữa nhà nước với các nhà tư bản mang lại lợi ích thiết thực cho các bên tham gia đầu tư kinh doanh nhưng phải dưới sự kiểm kê kiểm soát của nhà nước.
Đây là thành phần kinh tế mà Lênin rất coi trọng trong điều kiện một nước kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Theo Lênin thành phần kinh tế này là Nửa xã hội chủ nghĩa và sẽ còn tồn tại lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, ở đó giai cấp công nhân phải chấp nhận để giai cấp tư sản bóc lột để một mức độ nào đó để học tập kinh nghiệm của nó. Lênin coi đó là sự trả học phí cho giai cấp tư sản. Hồ chí minh cũng rất coi trọng thành phần kinh tế này. Theo Bác: Nhà tư bản thì không khỏi bóc lột. Nhưng chính phủ ngăn không cho họ bóc lột quá tay. Chính phủ phải bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân. Điều này dã nói nên sự khác nhau cơ bản giữa nhà tư bản trong chủ nghĩa tư bản với nhà tư bản trong chủ nghĩa xã hội. Nó cũng thể hiện vai trò lãnh đạo của nhà nước đối với thành phần kinh tế này.
Thành phần kinh tế này có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của nước ta trong điều kiện hiện nay. Nó giúp chúng ta tranh thủ được vốn, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý của các nhà tư bản, đặc biệt là tư bản nước ngoài; tạo được việc làm cho người lao động, góp phần làm tăng thu nhập quốc dân và nâng cao đời sống của nhân dân. Thực tiễn của công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay trong những năm qua đã chứng minh rằng: trong bối cảnh quốc tế hiện thời chúng ta không thể có đủ điều kiện để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, mà chỉ có khả năng thực hiện bước quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Với đường lối phát triển đất nước theo định hướng chủ nghĩa xã hội. Đối với nước ta, việc tận dụng chủ nghĩa tư bản trong và ngoài nước, nhất là hướng nó vào con đường phát triển kinh tế tư bản nhà nước, lấy kinh tế tư bản nhà nước làm phương tiện để tăng nhanh lực lượng sản xuất, là một con đường triển vộng nhất và hiện thực nhất.Dưới hình thức kinh tế này chúng ta chúng ta chẳng những thu hút được những nhà tư bản nước ngoài đàu tư vào phát triển kinh tế nước ta mà còn thu hút được các nhà tư bản trong nước hùn vốn liên doanh liên kết và qua đó thúc đẩy kinh tế tư nhân tư bản phát triển hơn nữa. Phát triển thành phần kinh tế này giúp chúng ta tận dụng được cá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35637.doc