Tiểu luận Vận dụng lý luận và thực tiễn về thương mại quốc tế, phân tích hóa quá trình toàn cầu hóa kinh tế và quan điểm chủ động hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam: liên hệ thực tiễn

Cơ cấu tổng thể nhà nước ở các nước đều do Hiến pháp các nước đó quy định và chủ thể quản lý vĩ mô nền kinh tế cũng thuộc cơ cấu tổ chức và cơ chế phân bổ quyền lực do Hiến pháp quy định. Ở các nước theo chế độ tư bản chủ nghĩa đều theo nguyên tắc tam quyền phân lập: quyền lập hiến - lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ba quyền này phân lập theo chức năng của các cơ quan trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước. Do đó, việc xác định chủ thể quản lý nhà nước về kinh tế nói chung, về thương mại nói riêng không phức tạp - đó là Chính phủ. Cơ quan quản lý nhà nước về thương mại là cơ cấu của Chính phủ, người đứng đầu cơ quan, bộ trưởng, là thành viên trong Chính phủ.

 

doc11 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3218 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vận dụng lý luận và thực tiễn về thương mại quốc tế, phân tích hóa quá trình toàn cầu hóa kinh tế và quan điểm chủ động hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam: liên hệ thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiểu luận Môn: Kinh tế thương mại Đề tài: Vận dụng lý luận và thực tiễn về thương mại quốc tế, phân tích hóa quá trình toàn cầu hóa kinh tế và quan điểm chủ động hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam: Liên hệ thực tiễn. Hà Nội - 2006 Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế lớn, khách quan của thế giới đương đại đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực đời sống nhân loại cũng như mỗi quốc gia, xu thế đó làm cho mối liên hệ quốc tế, khu vực ngày càng chặt chẽ với những hình thức ngày càng đa dạng. Sự hình thành và phát triển tổ chức thương mại thế giới (WTO) là sự thực hiện của xu thế toàn cầu hóa đồng thời thúc đẩy sự phát triển xu thế đó. Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu lớn lao, đưa đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu nói trên, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra đường lối, chính sách vừa phát triển sức mạnh toàn dân tộc, vừa tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại. Việc Việt Nam gia nhập WTO phản ánh một xu thế lớn của thời đại và khẳng định chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang tổ chức hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là: Xu hướng đi tới sự hình thành một nền kinh tế thế giới thống nhất trên phạm vi toàn cầu, trong đó có sự tham gia của hầu hết quốc gia trên thế giới, các quốc gia liên kết chặt chẽ và phụ thuộc lẫn nhau trong sự phân công và hợp tác kinh tế, có sự lưu thông các luồng hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ, nhân lực... dưới sự điều tiết của những nguyên tắc chung mang tính toàn cầu. Toàn cầu hóa kinh tế, là giai đoạn phát triển cao của quốc tế hóa tự nó cùng chứa đựng nhiều mâu thuẫn vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh giữa các quốc gia, giữa các vùng và giữa các tầng lớp dân cư trong cùng một quốc gia. Quan hệ kinh tế quốc tế là mua bán theo thông lệ trong mối quan hệ thương mại quốc tế, chính sách phát triển và quản lý thương mại quốc tế phải đảm bảo quan điểm chỉ đạo. Nhà nước thống nhất quản lý ngoại thương, có chính sách mở rộng giao lưu hàng hóa với nước ngoài trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, khuyến khích các thành phần kinh tế sản xuất hàng xuất khẩu và tham gia xuất khẩu theo quy định của pháp luật, có chính sách ưu đãi để đẩy mạnh xuất khẩu, tạo các mặt hàng xuất khẩu có sức cạnh tranh, tăng xuất khẩu dịch vụ thương mại, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước đã sản xuất được và có khả năng đáp ứng nhu cầu, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, ưu tiên nhập khẩu vật tư thiết bị, công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại để phát triển sản xuất. Để khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, hướng nhập khẩu phục vụ tốt sản xuất và tiêu dùng, bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước, nâng cao hiệu quả sản xuất, nhập khẩu, mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài, góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời để quản lý hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, Nhà nước phải ban hành những văn bản quy định cụ thể nhằm thúc đẩy quá trình phát triển thương mại quốc tế. Theo tinh thần cơ bản của những quy định pháp lý, nhà nước quản lý thống nhất mọi hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu bằng luật pháp và các chế độ chính sách có liên quan, mở rộng hơn nữa quyền kinh doanh của các doanh nghiệp và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu hoạt động đúng hướng, đạt hiệu quả cao. Nhà nước quản lý các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu bao gồm những hình thức cơ bản sau: - Xuất nhập khẩu trực tiếp hàng hóa, dịch vụ. - Tạm nhập để tái xuất, tạm xuất để tái nhập, chuyển khẩu, quá cảnh hàng hóa. - Gia công, chế biến hàng hóa và bán thành phẩm cho nước ngoài hoặc thuê nước ngoài gia công, chế biến. - Đại lý bán hàng hóa, ủy thác và nhận ủy thác xuất khẩu, nhập khẩu cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Nhà nước khuyến khích và có chính sách hỗ trợ đối với các doanh nghiệp phát triển và mở rộng thị trường mới và xuất khẩu những mặt hàng mà nhà nước khuyến khích xuất khẩu. Hiện nay ở nước Lào, giá hàng nhập khẩu thường rẻ hơn, chất lượng tốt hơn hàng hóa sản xuất trong nước. Nhưng nếu ỷ lại vào nhập khẩu sẽ không mở mang được sản xuất thậm chí còn làm cho sản xuất trong nước bị trì trệ. Vì vậy, cần tính toán và tranh thủ các lợi thế của đất nước trong từng thời kỳ để tập trung đầu tư sản xuất một số mặt hàng thực sự có đủ khả năng cạnh tranh tại thị trường trong nước và thị trường khu vực, tạo ra nguồn hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường ngoài nước. Nhưng phải có các công cụ quản lý thương mại là hình thức vận động và biểu hiện cụ thể của các phương pháp quản lý thương mại, được chủ thể quản lý vĩ mô sử dụng để tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên các quá trình thương mại hoặc điều chỉnh hoạt động của các chủ thể kinh tế tham gia vào lĩnh vực thương mại. Hệ thống các công cụ quản lý thương mại bao gồm: công cụ pháp luật thương mại, công cụ kế hoạch hóa phát triển thương mại, các công cụ tài chính (lãi suất, thuế, thuế quan, tỷ giá hối đoái, giá cả, tín dụng, các loại quỹ...). Các công cụ của các chính sách thương mại, các công cụ tổ chức hành chính thương mại. Công cụ pháp luật thương mại là những đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển thương mại đã được pháp luật hóa. Trong đó, trước hết và chủ yếu là quy định rõ địa vị pháp lý của các thương nhân, quy định các điều kiện, thủ tục thành lập, giải thể, phá sản của doanh nghiệp; xác định các định chế về hình thức hoạt động thương mại, điều chỉnh hành vi thương mại của các thương nhân; quy định các cơ quan tài phán để xử lý các tranh chấp trong hoạt động kinh doanh thương mại, bảo vệ lợi ích chính đáng của các thương nhân, của người tiêu dùng... Công cụ kế hoạch hóa định hướng phát triển thương mại được chủ thể quản lý kinh tế vĩ mô sử dụng để hướng dẫn thị trường và hoạt động thương mại của các thương nhân, hướng thị trường và các quá trình thương mại trong nước và nước ngoài tiến tới thế cân bằng mới theo yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Đồng thời, công cụ này cũng định hướng hoạt động của các thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, thông qua sử dụng các đòn bảy kinh tế và lực lượng vật chất để đảm bảo tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế quốc dân, xác lập thể chế cân bằng hợp lý trong cán cân thương mại quốc tế. Các công cụ tài chính được nhà nước sử dụng để quản lý và định hướng phát triển thương mại theo các phương diện và mục tiêu như: các công cụ lãi suất ngân hàng, lãi suất đầu tư và sử dụng vốn vay ưu tiên phát triển các ngành hàng định hướng xuất khẩu hoặc thay thế nhập khẩu, các ngành hàng thiết yếu và có tác động đến những cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định thị trường trong nước. Công cụ ngân sách nhà nước được sử dụng trực tiếp đầu tư hoặc gián tiếp đầu tư bằng chi tiêu hoặc mua sắm của Chính phủ cũng như phát triển các dịch vụ công hỗ trợ hoạt động thương mại của các thương nhân. Thuế và thuế quan vừa là công cụ tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước vừa là công cụ để điều chỉnh kinh tế vĩ mô, điều tiết kinh doanh, lưu thông hàng hóa trong nước và điều tiết xuất nhập khẩu, công cụ phân phối thu nhập được nhà nước sử dụng để phân phối lợi nhuận trên cơ sở tôn trọng quyền tự chủ của các thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế. Công cụ giá cả được nhà nước sử dụng để quy định mức giá hoặc khung giá, giá giới hạn (giá trần, giá sàn) đối với một số hàng tiêu dùng và tư liệu sản xuất thiết yếu, là yếu tố đầu voà như điện, nước, xăng dầu, cước phí bưu chính viễn thông, cước phí giao thông... đồng thời công cụ này cũng được nhà nước sử dụng để trợ giá, bù giá cho các doanh nghiệp khi gặp rủi ro hoặc khó khăn. Công cụ tỷ giá hối đoái được sử dụng để ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định thị trường trong nước, kích thích xuất khẩu, xác lập cán cân thương mại hợp lý trong từng thời kỳ. Các công cụ của chính sách thương mại: Để thực hiện chính sách thương mại, nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ, biện pháp khác nhau, công cụ của chính sách thương mại là các mô thức đã được lượng hóa để thể hiện và thực hiện các nội dung và mục tiêu cụ thể của chính sách thương mại. Theo tính chất có thể chia thành công cụ và biện pháp mang tính chất kinh tế, hành chính và kỹ thuật. Theo mục đích sử dụng có thể chia thành các công cụ, biện pháp nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho phát triển thương mại, kích thích thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện. Đối với các công cụ của chính sách ngoại thương, thông thường người ta chia thành công cụ thuế quan (biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu) và các công cụ, biện pháp phi thuế. Các công cụ thường được sử dụng để thực hiện chính sách và quản lý thương mại là: - Công cụ thuế, bao gồm các loại biểu thuế như biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu, biểu thuế VAT, biểu thuế tiêu thụ đặc biệt và biểu thuế thu nhập doanh nghiệp. - Công cụ hành chính bao gồm quy định giấy phép, điều kiện kinh doanh, hạn chế kinh doanh và hạn chế xuất nhập khẩu (hạn ngạch xuất khẩu hoặc hạn ngạch nhập khẩu). - Các đòn bảy kinh tế gồm các biện pháp hỗ trợ đầu tư, tín dụng ưu đãi, trợ giá, thưởng xuất khẩu, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, quản lý ngoại hối và các loại quỹ khác. - Các biện pháp kỹ thuật gồm các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuủân chất lượng, quy định về bao bì, về mẫu mã, nhãn mác, các tiêu chuẩn và quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường sinh thái... Phương pháp quản lý kinh tế là những cách thức khác nhau được chủ thể quản lý kinh tế vĩ mô lựa chọn sử dụng để tổ chức và quản lý các quá trình kinh tế và tổ chức phối hợp hoạt động của các chủ thể kinh tế theo các hướng phát triển và mục tiêu xác định, đảm bảo cho nền kinh tế vận hành theo sự quản lý thống nhất của nhà nước. Trong lĩnh vực quản lý thương mại, nhà nước sử dụng các phương pháp pháp chế, hành chính, kinh tế, giáo dục, tuyên truyền. Để đảm bảo quản lý thống nhất nền kinh tế, nhà nước sử dụng tổng hợp các phương pháp này. Trong nền kinh tế thị trường, quản lý nhà nước về kinh tế bằng phương pháp pháp chế cơ bản, phương pháp hành chính có xu hướng giảm thiểu sử dụng, phương pháp kinh tế ngày càng được sử dụng phổ biến. ở trong mỗi nước còn có những hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước đặc thù riêng tùy theo quy định của Hiến pháp và luật pháp của từng nước, đồng thời, tùy thuộc vào thiết chế và thể chế chính trị và hành chính của Chính phủ từng quốc gia. Tuy nhiên, điểm chung giữa các nước là đều có Chính phủ, đứng đầu là thủ tướng (hoặc tổng thống ở một số nước). Với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất nắm quyền hành pháp. Chính phủ ở hầu hết các nước đều có chức năng cơ bản là thống nhất việc quản lý thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước, lập quy để thực hiện các luật do quyền lập pháp định ra, quản lý công việc hàng ngày của nhà nước, quản lý bộ máy hành chính nhà nước và quản lý nhân sự của bộ máy đó, tham gia quá trình lập pháp. Cơ cấu tổng thể nhà nước ở các nước đều do Hiến pháp các nước đó quy định và chủ thể quản lý vĩ mô nền kinh tế cũng thuộc cơ cấu tổ chức và cơ chế phân bổ quyền lực do Hiến pháp quy định. ở các nước theo chế độ tư bản chủ nghĩa đều theo nguyên tắc tam quyền phân lập: quyền lập hiến - lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ba quyền này phân lập theo chức năng của các cơ quan trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước. Do đó, việc xác định chủ thể quản lý nhà nước về kinh tế nói chung, về thương mại nói riêng không phức tạp - đó là Chính phủ. Cơ quan quản lý nhà nước về thương mại là cơ cấu của Chính phủ, người đứng đầu cơ quan, bộ trưởng, là thành viên trong Chính phủ. Vấn đề phân cấp quản lý theo ngành, theo lãnh thổ và vùng là vấn đề phức tạp và luôn luôn là vấn đề thời sự của các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi. Cơ quan nào của nhà nước có vai trò trung tâm quyền lực trong quản lý điều hành nền kinh tế quốc dân. Việc xác định chủ thể tích cực của quản lý nhà nước về kinh tế ở các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi sang kinh tế thị trường là vấn đề phức tạp, xong có ý nghĩa quan trọng. Vì vậy, không phải là vấn đề đơn lẻ mà nó là kết quả của chuyển đổi đồng bộ các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế. Mặc dù có những điểm đặc thù ở mỗi nước nhưng nhìn chung các nước đều có ba vấn đề then chốt của bộ máy quản lý nhà nước về thương mại, đó là hệ thống tổ chức, cơ chế hoạt động và nhân sự cho bộ máy đó. Quốc tế hóa kinh tế là đặc điểm nổi bật của thời đại ngày nay. Thời đại khoa học công nghệ phát triển, về kinh tế đã bước sang một nền kinh tế tri thức, mang tính toàn cầu hóa, thế giới vừa có hòa bình, vừa chiến tranh, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn, vừa hội nhập, hợp tác với nhau vừa cạnh tranh khốc liệt thôn tính lẫn nhau. Trong đó nổi bật nhất là vấn đề thương mại quốc tế. Xu hướng chung của thế giới ngày nay là hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển, đang trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và quốc gia trên thế giới, đồng thời có những diễn biến mới nhanh chóng và phức tạp, vừa tạo ra những thời cơ thuận lợi, nhưng lại vừa có những thách thức khó khăn, nguy cơ thiệt hại. Các nước dành ưu tiên phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế là trọng tâm, có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước. Các quốc gia dù lớn hay nhỏ, sớm hay muộn đều phải tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác khu vực, quốc tế hóa và toàn cầu hóa kinh tế, trong đó thương mại là trọng tâm. Tuy nhiên, trong quá trình đó có lúc, có những điểm, khu vực lại nổi lên những điểm nóng, mâu thuẫn, cạnh tranh càng trở nên gay gắt. Từ những đặc điểm chung của thời đại, làm nổi lên những đặc điểm và xu hướng thương mại quốc tế như sau: Thương mại ngày nay không chỉ là hàng hóa vật thể mà cả hàng hóa phi vật thể. Đối tượng thương mại không chỉ hàng hóa còn bao hàm cả dịch vụ, sở hữu trí tuệ và các yếu tố liên quan đến đầu tư. Khi xem xét chu trình tái sản xuất của C.Mác (sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng) ta coi thương mại diễn ra sau sản xuất, đứng bên ngoài sản xuất. Ngày nay, với nền kinh tế thị trường hiện đại thì thương mại thâm nhập vào mọi khâu của quá trình tái sản xuất, thương mại bắt đầu từ đầu tư, thâm nhập vào sản xuất, hoạch toán đến tận người lao động, đến từng thao tác, đến từng việc làm, thị trường quyết định sản xuất chứ không phải ngược lại. Như vậy, thương mại mở rộng, thâm nhập vào mọi khâu, mọi lĩnh vực của quá trình sản xuất. Thương mại phát triển cả tổng lượng hàng hóa, dung lượng thị trường, kim ngạch buôn bán đặc biệt thương mại nội bộ công ty, nhất là các công ty xuyên quốc gia phát triển mạnh mẽ. Chức năng thương mại ngày càng quan trọng, quyết định sản xuất và tiêu dùng, trở thành động lực phát triển kinh tế, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa kinh tế đất nước, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ thể kinh doanh thương mại mở rộng từ cá nhân đến tổ chức, doanh nghiệp đủ loại, không còn phân biệt giữa doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thương mại. Tất cả các loại hình thương nhân và doanh nghiệp đó hợp lại liên kết với nhau thành mạng lưới kinh doanh thương mại quốc gia, quốc tế sôi động khắp toàn cầu. Trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa thương mại đi đầu trong tự do hóa, hội nhập hình thành nhiều khu vực thương mại tự do, các thỏa thuận tự do thương mại song phương, đa phương phát triển nhanh chóng, thương mại nội địa và ngoại thương ngày càng được mở cửa thông nhau góp phần tích cực phát triển kinh tế. Phương thức kinh doanh, hình thức tổ chức hoạt động thương mại phát triển mạnh mẽ, từ các hình thức truyền thống được cải tiến cho đến siêu thị, trung tâm thương mại, các loại sàn giao dịch, bán lẻ, bán buôn đều phát triển, áp dụng công nghệ thông tin, tự động hóa, hiện đại hóa hoạt động thương mại và dịch vụ. Đặc biệt là thương mại điện tử (E-Commerce) đang phát triển mạnh mẽ. Tất cả điều đó nói lên vai trò thương mại ngày càng quan trọng, hoạt động thương mại ngày càng mở rộng, hình thức thương mại ngày càng văn minh hiện đại, đóng góp của thương mại vào sự nghiệp phát triển kinh tế ngày càng to lớn. Xu thế hội nhập và toàn cầu hóa thương mại quốc tế, bước sang thế kỷ XXI, trong xu thế chung của tự do hóa thương mại trên phạm vi toàn cầu và sự tham gia của các nước và các tổ chức liên kết khu vực và toàn cầu thương mại thế giới đang và sẽ vận động theo một số xu hướng cơ bản và cụ thể là: cải cách thương mại sẽ ít mang tính đơn phương mà thay vào đó các thỏa thuận song phương và đa phương mang tính khu vực hay toàn cầu như: AFTA, APEC, EU, WTO... là xu hướng hàng đầu của thương mại thế giới. Các tranh chấp thương mại sẽ chủ yếu được giải quyết bằng thương lượng, giảm tối đa các biện pháp đe dọa trừng phạt kinh tế, trong đó các cuộc thương lượng giải quyết tranh chấp sẽ được tiến hành theo những nguyên tắc của WTO. Các chính sách thương mại của các thành viên WTO sẽ trở nên rõ ràng hơn và các biện pháp tự do hóa có độ tin cậy cao do có sự ràng buộc bởi các thỏa thuận đa phương và các nguyên tắc của WTO. Xu thế ủng hộ tự do hóa thương mại sẽ phải đấu tranh gay gắt hơn với xu thế bảo hộ; đồng thời nảy sinh nhiều hình thức bảo hộ mới tinh vi hơn, đa dạng hơn. Sự phát triển của các thương hiệu toàn cầu, trong đó có các công ty xuyên quốc gia. Cho nên sản phẩm trở nên đa dạng và chu kỳ sống ngắn hơn so với sự phát triển và tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ. Thương mại dịch vụ đóng vai trò ngày càng quan trọng tư bản thương mại thế giới. Thương mại điện tử nhanh chóng trở nên phổ biến trong hoạt động thương mại thế giới. Tăng cường thương mại nông sản do hàng rào bảo hộ đối với hàng nông sản sẽ tiếp tục được cắt bỏ trong thời gian tới. Buôn bán hàng bán thành phẩm chiếm tỷ trọng ngày càng lớn và ngày càng tăng. Sự xuất hiện các sản phẩm mới trong thương mại quốc tế ngày càng tăng, điều đó nói lên rằng không thể có một quốc gia nào dân tộc nào có thể ngoài cuộc được và vì vậy cần phải đổi mới quản lý nhà nước về thương mại theo hướng cơ chế thị trường, không phải là từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà là biện pháp, là con người để làm cho mục tiêu chủ nghĩa xã hội đi đến thắng lợi nhanh hơn, đó là "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh". Nắm vững đặc điểm thời cơ thuận lợi của quốc tế và lợi thế, khả năng các nguồn lực của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, đặc biệt là về điều kiện kinh tế - xã hội và nhân lực của Lào khi tham gia thương mại quốc tế. Từ đó mới có thể xác định phương hướng chiến lược phát triển thương mại và cơ chế, chính sách quản lý đúng đắn, theo hướng hội nhập, tự do hóa thương mại khu vực và quốc tế. Hội nhập để củng cố thương mại Lào phát triển đi lên, đồng thời nhằm huy động nội lực, khơi dậy và phát huy tinh thần thi đua yêu nước cả phía quản lý nhà nước và phía doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh gay gắt khu vực và toàn cầu hóa.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu luan (4).doc
Tài liệu liên quan