MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU 3
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Lịch sử vấn đề 4
3. Giới hạn đề tài 6
4. Phương pháp nghiên cứu 7
NỘI DUNG 8
Chương I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 8
I.1. VẬT CHẤT 8
I.2. Ý THỨC 8
I.2.1. Bản chất của ý thức 8
I.2.2. Kết cấu của ý thức 9
I.3. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC 10
I.3.1. Vai trò quyết định của vật chất với ý thức 10
I.3.2. Sự tác động trở lại của ý thức với vật chất 10
I.3.3. Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức 11
Chương II. VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC TRONG ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN 12
II.1. VẬT CHẤT QUYẾT ĐỊNH Ý THỨC – THỰC TẾ KHÁCH QUAN, QUY LUẬT KHÁCH QUAN QUYẾT ĐỊNH PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC 12
II.1.1. Nhân tố vật chất và ý thức trong hoạt động dạy học 12
II.1.2. Vai trò quyết định của nhân tố vật chất với nhân tố ý thức trong lịch sử dạy học văn ở nhà trường nước ta 14
II.2. Ý THỨC CÓ SỰ TÁC ĐỘNG TRỞ LẠI VỚI VẬT CHẤT 20
Chương III. ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT BÌNH PHÚ, Q.6, TP HCM 22
III.1. NHÂN TỐ VẬT CHẤT 23
III.1.1. Thực tế khách quan 23
III.1.2. Quy luật khách quan 24
III.2. NHÂN TỐ Ý THỨC 24
III.2.1. Mục tiêu và nội dung dạy học môn Ngữ văn 25
III.2.2. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường THPT Bình Phú 25
KẾT LUẬN 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
31 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 11843 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vận dụng mối quan hệ vật chất – ý thức trong định hướng đổi mới phương pháp dạy học môn ngữ văn ở trường THPT hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khách quan qui định, chứ không thể xuyên tạc thế giới khách quan.
Thứ ba, ý thức mang bản chất xã hội. Ý thức gắn liền với các mối quan hệ xã hội đan xen chằng chịt với nhau. Chính bản chất xã hội của ý thức là tiêu chuẩn cơ bản để phân biệt ý thức của con người với tâm lý của động vật.
Kết cấu của ý thức
Kết cấu chiều ngang
Tri thức là yếu tố quan trọng nhất. Theo Mác, tri thức là phương thức tồn tại của ý thức.
Tình cảm là những rung động của con người trong các quan hệ với hiện thực. Nhờ có tình cảm mà tri thức mới có sức mạnh và là cơ sở cho hành động.
Niền tin là một trong nhưng hoạt động tinh thần định hướng hoạt động của con người.
Ý chí biểu hiện sức mạnh của con người giúp vượt qua nhưng khó khăn, trở ngại để thực hiện mục đích của mình.
Tình cảm, niềm tin, ý chí là quan trọng nhưng không được tuyệt đối hóa nó. Nếu tuyệt đối hóa nó thì sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan duy ý chí.
Kết cấu chiều dọc
Tự ý thức là ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài.
Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng gần như đã trở thành bản năng, thành kĩ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng.
Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm chưa có sư truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí.
MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Vai trò quyết định của vật chất với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức, còn ý thức là sự phản ánh vật chất vào trong bộ óc con người. Các Mác đã chỉ ra rằng: “Ý niệm chẳng qua chỉ là vật chất đã được chuyển vào bộ óc con người và được cải biến trong đó”.
Biểu hiện của mối quan hệ này trong đời sống xã hội là tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội (lĩnh vực vật chất quyết định lĩnh vực tinh thần). Cụ thể là nhân tố vật chất (điều kiện khách quan, quy luật khách quan) quyết định nhân tố tinh thần (tư tưởng, đường lối, quan điểm, lý luận, đường lối chính sách, mục tiêu, phương pháp, biện pháp, giải pháp,…). Vật chất quyết định ý thức thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: không có vật chất thì sẽ không có ý thức (có thực mới vực được đạo, có bột mới gột nên hồ,…).
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức: nội dung của ý thức mang tính khách quan, do thế giới khách quan quy định.
Thứ ba, vật chất quyết định bản chất của ý thức: bản chất sáng tạo và bản chất xã hội của ý thức cũng phải dựa trên những tiền đề vật chất nhất định.
Thứ tư, vật chất quyết định phương thức tồn tại và kết cấu của ý thức.
Sự tác động trở lại của ý thức với vật chất
Ý thức có sự tác động trở lại với vật chất bởi vì: ý thức là ý thức của con người, gắn liền với tính tích cực, năng động của con người (nhân tố chủ quan); ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo của thế giới khách quan.
Nếu ý thức phản ánh phù hợp với vật chất thì nó sẽ thúc đẩy các quá trình vật chất phát triển. Nếu ý thức phản ánh không phù hợp với vật chất thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của các quá trình vật chất.
Tự bản thân ý thức không thể có sức mạnh để tác động vào vật chất mà phải thông quan hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức quyết định sự thành công hay thất bại của con người trong thực tiễn. Vì mọi hoạt động của con người, đặc biệt là hoạt động thực tiễn, đều được diễn ra dưới sự chỉ đạo của ý thức. Nếu ý thức phản ánh đúng bản chất của các quy luật khách quan, con người xác định mục tiêu, phương hướng một cách đúng đắn, đề ra biện pháp, giải pháp một cách phù hợp thì hoạt động thực tiễn của con người sẽ thành công. Ngược lại, nếu ý thức phản ánh sai, con người đề ra biện pháp, giải pháp không phù hợp, không đúng đắn thì con người sẽ thất bại.
Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn đòi hỏi xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng nguyên tắc khách quan, tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan.
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động, chủ quan, nghĩa là cấn phải phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức.
Thứ ba, chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí cũng như bệnh bảo thủ, trì trệ.
Thứ tư, khi giải thích bất kì một hiện tượng xã hội nào đều phải tính đến cả những điều kiện vật chất lẫn những nhân tố tinh thần, phải tính đến cả những điều kiện khách quan lẫn những nhân tố chủ quan, phải tính đến vật chất và ý thức.
Chương II. VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC TRONG ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN
VẬT CHẤT QUYẾT ĐỊNH Ý THỨC – THỰC TẾ KHÁCH QUAN, QUY LUẬT KHÁCH QUAN QUYẾT ĐỊNH PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
Nhân tố vật chất và ý thức trong hoạt động dạy học
Nhân tố vật chất trong hoạt động dạy học
Trong hoạt động thực tiễn, nhân tố vật chất là thực tế khách quan, quy luật khách quan trong miền hoạt động của con người.
Thực tế khách quan trong hoạt động dạy học bao gồm một số yếu tố cơ bản sau: Điều kiện kinh tế - xã hội ở địa phương nơi diễn ra hoạt động dạy học; cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng phục vụ cho hoạt động dạy học; trình độ tâm sinh lý của học sinh;…
Ở đây, người viết xin được tập trung làm rõ về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học và trình độ tâm sinh lý của học sinh, bởi đây là những yếu tố có ảnh hưởng quyết định hơn cả đến việc đổi mới, lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp.
Cơ sở vật chất của trường học là tất cả các phương tiện vật chất được giáo viên và học sinh sử dụng nhằm thực hiện có hiệu quả các chương trình giáo dục, giảng dạy. Khác với trước kia, nhà trường chỉ lấy việc dạy chữ làm mục đích chủ yếu, nhà trường chỉ là một hệ thống phòng học. Ngày nay, mục đích đó đã thay đổi, tất yếu nhà trường phải có một cấu trúc tương ứng. Trường lớp là bộ phận quan trọng của cơ sở vật chất nhà trường, đó là tập hợp những tòa nhà, mặt bằng, không gian… nơi thực hiện quy trình công nghệ của hoạt động giáo dục đào tạo.
Cái cốt lõi của cơ sở vật chất trường học chính là thiết bị dạy học. Nhận định về thiết bị dạy học, V.P.Golov viết: “Phương tiện dạy học là một trong những điều kiện quan trọng nhất để thực hiện nội dung giáo dưỡng, giáo dục và phát triển học sinh trong quá trình dạy học”. Thiết bị dạy học là công cụ lao động của người giáo viên; là công cụ nhận thức của học sinh như N.M.Sacmaep đã nói: “Đối với học sinh, thiết bị dạy học là công cụ mà nhờ đó các em hiểu biết được thế giới xung quanh chúng”. Chính vì vậy, Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đổi mới giáo dục phổ thông đã nêu rõ: “Đổi mới nội dung chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy và học phải thực hiện đồng bộ với việc nâng cấp và đổi mới trang thiết bị dạy học”.
Quy luật khách quan trong hoạt động dạy học bao gồm một số quy luật: quy luật nhận thức, quy luật tâm lý, quy luật xã hội,…
Ta biết rằng, bản chất của quá trình dạy học là hoạt động nhận thức độc đáo của học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Lênin đã xác định con đường biện chứng của nhận thức là: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng lại đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan.” Đối với học sinh phổ thông, quá trình nhận thức có đặc điểm riêng: Từ chỗ quan sát và tri giác trực tiếp để hình thành các biểu tượng và khái niệm khoa học; học sinh tri giác các hình ảnh của các vật và các hiện tượng, lúc này hiện tượng thực tiễn đã được trừu tượng hóa một bước, để thực hiện con đường này cần trang bị cho nhà trường mô hình, bản đồ, tranh ảnh, các phương tiện nghe nhìn; học sinh nhận thức được hiện thực xung quanh qua ngôn ngữ và kí hiệu, để thực hiện con đường này cần có sách vở, báo chí, biểu đồ.
Như chúng ta đã biết, quá trình học được thực hiện thông qua những hoạt động tâm sinh lý của người học; cũng như vậy, quá trình dạy phải thông qua những hoạt động tâm sinh lý của người dạy. Những hiện tượng tâm lý về các mặt nhận thức như cảm giác, tri giác, biểu tượng, ký ức, tưởng tượng, tư duy, ngôn ngữ, chú ý, về mặt tình cảm và xúc cảm, say mê, xúc động, về mặt ý chí và hành động, kỹ năng kỹ xảo, lý tưởng, niềm tin… là những hiện tượng tâm lý thường xuyên xảy ra trong quá trình dạy học. Những quy luật tâm lý đóng vai trò quan trọng, cơ bản trong việc xây dựng các quy tắc về dạy học, đặc biệt là phương pháp dạy và học.
Trong quá trình giáo dục, xảy ra những mối quan hệ xã hội như quan hệ giữa thầy và trò, giữa trò và trò, giữa thầy và thầy, giữa cá nhân với tập thể, giữa tập thể này với tập thể kia. Các mối quan hệ đó chịu sự chi phối của những quy luật xã hội và đương nhiên nó chi phối lại sự vận động quá trình giáo dục.
Nhân tố ý thức trong hoạt động dạy học
Nhân tố ý thức trong hoạt động thực tiễn của con người là tri thức, tình cảm, ý chí, lý tưởng của con người (chủ thể hoạt động). Trong hoạt động dạy học, nhân tố ý thức bao gồm: mục tiêu của hoạt động dạy học; phương hướng, chủ trương của hoạt động dạy học; phương pháp dạy học; cách thức tổ chức dạy học,…
Vai trò quyết định của nhân tố vật chất với nhân tố ý thức trong lịch sử dạy học văn ở nhà trường nước ta
Thực tế khách quan nói chung và cơ sở vật chất, thiết bị dạy học nói riêng là một trong những điều kiện quan trọng trong thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở trường phổ thông..
Tuy nhiên trong lịch sử giáo dục nước ta, vấn đề cơ sở vật chất kĩ thuật của công tác giáo dục, mặc dù là không thể thiếu nhưng chưa được xem là một trong những vấn đề cơ bản, ngang hàng với những vấn đề mục tiêu, nội dung, phương pháp,… Sở dĩ như vậy là vì từ thời xa xưa, hễ có thầy có trò và một ít giấy bút để viết là có thể tổ chức được công việc giáo dục; nội dung và phương pháp giáo dục là ở thầy, còn chỗ học có thể là trong nhà, ngoài sân, một mái chùa…Về sau, với sự phát triển của xã hội, nhu cầu về cơ sở vật chất kĩ thuật cho công tác giáo dục tăng lên không ngừng. Ngày nay, cơ sở vật chất kĩ thuật còn mở ra những khả năng đưa đến những thay đổi lớn trong phương pháp giáo dục.
Bên cạnh đó, chúng ta đang sống trong thế giới tràn ngập thông tin, học sinh thời nay dễ dàng tiếp cận với những nguồn tri thức mới, phong phú, ngoài trường học nên đặc điểm tâm sinh lý cũng có nhiều thay đổi so với thế hệ học trò ngày trước. Điều này cũng có tác động quan trọng đến việc đổi mới và lựa chọn phương pháp dạy học thích hợp. Tất cả đó đều thể hiện rõ vai trò quyết định của nhân tố vật chất đến nhân tố ý thức trong hoạt động dạy học.
Nhà trường phong kiến
Dưới chế độ phong kiến trì trệ hàng ngàn năm, thực tại khách quan và quy luật khách quan không tác động nhiều đến phương pháp dạy học, hình mẫu lớp học phổ biến là thầy đồ, cái tráp, con roi, chiếc phản (hay chiếu); học sinh nằm bò ra viết hay ngồi ê a theo nhịp roi của thầy.
Mục tiêu của giáo dục phong kiến là nhằm đào tạo lớp sĩ phu theo lý tưởng Nho học để trở thành những người làm chính sự phục vụ cho giềng mối đất nước. Văn chương thời phong kiến lấy tư tưởng Nho giáo, đạo Khổng Tử làm chân lý để thầy và trò cùng hướng tới, vì vậy cách học này đã hạn chế tính độc lập và sáng tạo của người học. Nhà trường thời phong kiến đã tồn tại các hình thức dạy học như:
Lối giảng sách: thầy giải nghĩa các từ khó, câu khó, trò học thuộc.
Lối làm văn: rèn luyện trí nhớ cho người học để thuộc luật làm văn, làm thơ theo khuôn mẫu có sẵn.
Lối bình văn, bình thơ: cách cảm thụ văn chương, phân tích, đánh giá nội dung, nghệ thuật tác phẩm văn học của người xưa.
Nhà trường phong kiến đã hình thành phương pháp dạy học: nghe thầy giảng – học thuộc lòng – nhớ suốt đời.
Nhà trường Pháp – Việt
Từ cuối thế kỷ XIX và gần nửa thế kỷ XX, trong hơn 80 năm nước ta bị thực dân Pháp xâm lược. Dưới chế độ thuộc địa, nền giáo dục Nho học được thay thế dần bằng nền giáo dục Pháp - Việt, chủ yếu để đào tạo người phục vụ cho bộ máy cai trị của thực dân.
Cái nghiên mực tàu, cái bút lông, giấy bản được thay thế nhanh chóng ào ạt bởi những vật liệu, phương tiện học hành hiện đại hơn. Lớp học có bàn ghế, bảng treo, trống điểm giờ hay chuông báo. Các môn học được xây dựng có quy củ theo chương trình, có kế hoạch từng môn khác nhau.
Môn Văn thời kì này trở thành một môn học có tính khoa học và nghệ thuật rõ rệt, sâu sắc hơn, phương pháp dạy học cũng có sự thay đổi hợp lý. Người ta chú ý đến sự phối hợp giữa ba phân môn: ngữ pháp, giảng văn, làm văn để học sinh có kiến thức văn chương đầy đủ và khoa học.
Nhà trường Pháp – Việt phân cấp cụ thể, mỗi cấp học có một yêu cầu riêng:
Tiểu học cao đẳng: học sinh được tập đọc, viết chữ biểu hiện tư tưởng tình cảm với tác phẩm, phát biểu đại ý, bố cục, xác định giá trị tác phẩm. Ở bậc cao đẳng tiểu học, cách học chủ yếu là học thuộc lòng, chú ý đến những hình tượng nghệ thuật, tiết tấu bài thơ hoặc bài văn vần nhằm phát triển óc quan sát và khả năng phán xét của học sinh. Bên cạnh đó học sinh còn được học về từ ngữ, ngữ pháp nhằm rèn luyện cho học sinh cách sử dụng câu, chữ trong khi nói, viết. Khi học hai năm cuối của bậc cao đẳng tiểu học, học sinh học những bài văn khó hơn như: những bài văn nghị luận, trữ tình, anh hùng ca,… đồng thời làm quen với khuynh hướng văn học ở các giai đoạn.
Trung học: vẫn trên cơ sở dạy học ở bậc cao đẳng tiểu học nhưng được mở rộng về chương trình, thể loại môn học… Công trình biên soạn lần đầu bằng tiếng Việt đề cập đến công việc của giảng văn là cuốn “Quốc văn trích diễm” của Dương Quảng Hàm (1928). Nội dung sách gồm những kiến thức tổng quát về văn học sử, thể loại văn học, tác phẩm văn học được tuyển chọn trong chương trình… với cấu trúc bài giảng theo trình tự:
Giới thiệu tiểu sử tác giả
Hoàn cảnh ra đời tác phẩm
Xuất xứ, đại ý, bố cục
Giải nghĩa về tiếng, ý tưởng và pháp văn
Xác định giá trị tác phẩm
Kết luận.
Công việc chuẩn bị của thầy và trò trước khi lên lớp:
Xem xét chú thích và tra cứu chữ khó, điển tích
Trả lời câu hỏi sách giáo khoa về ý tưởng và lời văn của tác phẩm văn chương.
Mục tiêu cao nhất của phương pháp này là “chớ nên biện nạn đến nỗi nói sai hoặc nói quá nguyên ý tưởng của tác giả”. Lối giảng văn này độc tôn trong nhà trường Pháp – Việt và còn ảnh hưởng đến ngày nay.
Nhà trường thời kì sau Cách mạng tháng Tám
Nhà trường Việt Nam kể từ sau Cách mạng tháng Tám đã có những thay đổi về mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục.
Giai đoạn 1945-1975
Đến Cách mạng tháng Tám, cùng với sự đổi đời của dân tộc, một nền văn hóa mới được xây dựng trên đất nước ta. Nền giáo dục thực dân phong kiến từng bước được thay thế bằng nền giáo dục cách mạng.
Non nửa thế kỉ, chúng ta phải đương đầu với hai đế quốc đầu sỏ. Mọi nghị lực tinh thần và vật chất phải huy động cho lẽ sống còn của dân tộc “Giảng văn trong nhà trường không còn chỉ là câu chuyện chữ nghĩa, văn chương mà trở thành vũ khí chính trị có tác dụng cổ vũ giáo dục tinh thần yêu nước đánh giặc, xây dựng cuộc sống mới”.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp đã thay đổi nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Nhiệm vụ chính của cả nước lúc này là: xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất đất nước. Nền giáo dục dân chủ có nền móng vừa xây dựng qua chặng đầu là điểm tựa vững chắc tạo điều kiện cho nhà trường phát triển. Mục tiêu, nội dung và phương thức đào tạo ngày càng xác định cụ thể, thích hợp, quy mô giáo dục từng bước được mở rộng, đội ngũ giáo viên tăng cường hơn trước cả về số lượng lẫn chất lượng, số học sinh tăng nhanh,… Nhiều công trình nghiên cứu phục vụ cho việc giảng văn xuất hiện, mở đầu cho công việc xây dựng khoa giảng dạy Văn học ở trường phổ thông. Đội ngũ giáo viên dần dần nắm được đường lối phương hướng giáo dục đúng đắn của Đảng. Chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy sát hợp với hoàn cảnh đất nước. Một số hội thảo lớn chuyên đề về dạy văn đã thu hút được nhiều giáo viên đi vào cải tiến nội dung và phương pháp giảng dạy. Đồng thời các nguyên tắc dạy Văn như: trực quan, phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh, giảng dạy Văn gắn với đời sống đã được chú ý vận dụng.
Giai đoạn 1975 đến nay
Sau giải phóng miền Nam, nhân dân ta bắt tay vào xây dựng đất nước, khắc phục mọi hậu quả của chiến tranh. Trong giai đoạn cách mạng mới, giáo dục là nền tảng, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra nguồn lực cho công cuộc xây dựng đất nước. Do đó, nhiệm vụ đặt ra lúc này là nhanh chóng cải tạo hệ thống giáo dục.
Hiện nay, sự đổi mới phương pháp dạy học ở nhà trường THPT không còn mang tính chất tự phát ở một số giáo viên có năng lực và tâm huyết với nghề mà đã trở thành nghĩa vụ công dân của mọi thế hệ giáo viên. Mục tiêu của giáo dục nước ta là “nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”, luật giáo dục cũng nêu rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.
Cùng với sự phát triển của đất nước, cơ sở vật chất, trường lớp ở các địa phương trong cả nước cũng có nhiều thay đổi khác trước, tuy nhiên vẫn còn tình trạng không đồng đều giữa các địa phương nên việc áp dụng đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói riêng ở các địa phương cụ thể, các trường cụ thể cũng khác nhau.
Bên cạnh đó, đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT không thể không chú trọng đến đặc điểm trí tuệ và lối sống của lứa tuổi học sinh từ 16 đến 18 này. Họ là thế hệ thanh niên có hoài bão, được nuôi dưỡng và phát triển khá toàn diện về thể chất và tinh thần. Thế hệ học sinh THPT có vốn văn hóa phong phú, có đầu óc phê phán và biết gắn cuộc sống cá nhân với tương lai và xu thế phát triển của đất nước và thời đại. Họ là những người trẻ tuổi có ý chí và muốn hòa mình vào thử thách. Đó là những điều kiện tốt thuộc nhân tố “vật chất” để thực hiện việc đổi mới phương pháp lên lớp của giáo viên tương thích với cách học của học sinh THPT.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng phương pháp dạy học Văn, chúng ta mắc phải một số khó khăn hạn chế.
Một là, thực tế cơ sở vật chất của nhiều trường phổ thông hiện nay ở nước ta còn nghèo nàn, thiếu thốn, không thể áp dụng “phương pháp dạy học mới” với những máy vi tính, Projector… rất hiện đại nhưng cũng rất tốn kém. Bên cạnh đó, thực tế sĩ số lớp học bình quân ở các trường phổ thông ít gì cũng từ 35 đến 45 học sinh nên giáo viên không thể tổ chức thuyết trình hay seminar theo yêu cầu của “phương pháp dạy học mới” được. Giáo viên không thể nào kiểm soát nổi buổi thuyết trình hay seminar với mấy chục học sinh một cách toàn diện và chu đáo (đó là chưa nói đến yêu cầu của giáo viên phổ thông là phải tìm hiểu nhằm phân loại học sinh yếu, kém để từ đó có phương án bồi dưỡng kèm cặp thêm cho các em).
Hai là, có một thực tế mà giáo viên dạy văn ở phổ thông ai cũng sợ là nếu áp dụng “phương pháp dạy học mới” sẽ bị “cháy giáo án” do áp lực thời gian và chương trình dạy. Để tổ chức một buổi thuyết trình hay seminar theo yêu cầu đổi mới là dạy học tương tác, lấy người học làm trung tâm, ngoài việc lớp học phải được trang bị đầy đủ những thiết bị dạy học cần thiết (bàn ghế nhỏ, gọn dễ di chuyển, máy chiếu, máy vi tính…) hay sĩ số học sinh vừa phải thì vấn đề thời gian là một trong những vấn đề cực kì quan trọng. Thế nhưng, thực tế thì thời lượng phân bổ cho chương trình dạy văn ở phổ thông đã được Bộ Giáo dục quy định rất rõ ràng nên nếu áp dụng theo “phương pháp dạy học mới” người dạy sẽ không thể theo đúng theo tiến độ.
Ba là, cũng có số ít giáo viên muốn áp dụng “phương pháp mới” nhưng lại rất lo lắng vì bị thêm một áp lực nữa đó là sợ ảnh hưởng đến kết quả thi tốt nghiệp cuối cấp của học sinh. Có thể nói hiện nay, tuy nhiều nơi buộc giáo viên phải dạy văn theo “phương pháp mới” trong khi quy trình chấm thi môn văn gần như không có thay đổi gì (nếu không muốn nói là vẫn giữ nguyên theo phương pháp dạy học cũ). Tức là, kết quả học tập chung của học sinh vẫn được thực hiện trên cơ sở lấy điểm bình quân kiểm tra và thi cuối học kì, cuối năm là chủ yếu. Đó là chưa kể việc khi chấm thi vẫn giữ nguyên cách chấm “có ý là có điểm” chứ ít chú ý đến “sự sáng tạo” mà theo yêu cầu của “phương pháp dạy học mới” đã đề ra. Từ áp lực này nên có giáo viên phổ thông thậm chí đã cho rằng: “dạy học theo “phương pháp mới” có khi không khéo học sinh không thi đậu tốt nghiệp”.
Về phía học sinh, tồn tại lớn nhất là thói quen thụ động, quen nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì giáo viên đã giảng. Đa phần học sinh chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học. Điều này đã thủ tiêu óc sáng tạo, suy nghĩ của người học, biến học sinh thành những người quen suy nghĩ diễn đạt bằng những ý vay mượn, bằng những lời có sẵn, lẽ ra phải làm chủ tri thức thì lại trở thành nô lệ của sách vở. Người học chưa có hào hứng và chưa quen bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của cá nhân trước tập thể, cho nên khi phải nói và viết, học sinh cảm thấy khá khó khăn.
Ý THỨC CÓ SỰ TÁC ĐỘNG TRỞ LẠI VỚI VẬT CHẤT
Về sự tác động trở lại của nhân tố ý thức với nhân tố vật chất trong định hướng đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn nói riêng và đổi mới phương pháp dạy học nói chung là một công việc cần nghiên cứu, thống kê, tìm hiểu công phu và khoa học. Ta biết rằng thực tế khách quan và quy luật khách quan thể hiện nội dung cũng như phương pháp dạy học, cho nên sự thay đổi về chương trình và phương pháp cũng sẽ làm thay đổi thực tế khách quan và quy luật khách quan. Trong khuôn khổ bài viết nhỏ này, người viết xin chỉ tập trung vào vai trò của quyết định của nhân tố vật chất với nhân tố ý thức trong việc định hướng đổi mới phương pháp, lựa chọn phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THPT.
Chương III. ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT BÌNH PHÚ, Q.6, TP HCM
Việc thay đổi hay triển khai, áp dụng vào thực tế dạy học một “phương pháp mới” nào đó theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trước hết, phải nhìn thẳng vào thực tế và hoàn cảnh mỗi trường, mỗi vùng, miền… xem có thể áp dụng “phương pháp mới” được hay không? Như đã nói, thực tế hiện nay ở nước ta, ngoài một số trường đại học trọng điểm có cơ sở vật chất tương đối hiện đại (có thể áp dụng “phương pháp dạy học mới” nào đó từ mô hình của các nước có nền giáo dục tiên tiến) thì hầu hết trường và lớp học của chúng ta đều rất khó khăn, thiếu thốn. Việc các “nhà phương pháp” cứ máy móc yêu cầu giáo viên phải áp dụng “phương pháp mới” vào dạy học văn như hiện nay là rất không nên. Học hỏi, tiếp thu những thành tựu, phương pháp dạy học của bạn bè thế giới là cần thiết nhưng không nên rập khuôn theo họ. Không thể nói rằng nước ngoài họ làm vậy, chúng ta cứ áp dụng theo là sẽ thành công. Tại sao chúng ta không nhìn thẳng vào một thực tế là đất nước ta còn nghèo, cơ sở vật chất, trường lớp cho con em chúng ta học còn thiếu thốn mà đề ra một phương pháp dạy học nào đó cho phù hợp? Sao chúng ta không học theo “phương pháp” của cha ông ta ngày xưa đã dạy là “liệu cơm gắp mắm” hay “nhập gia tùy tục”?
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò quyết định của vật chất với ý thức, nhưng để nghiên cứu đầy đủ về mối quan hệ này trên phương diện rộng cần nhiều có sự nghiên cứu công phu và khoa học, ở đây, người viết chỉ tìm hiểu sự tác động của nhân tố vật chất đến việc đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở một trường THPT (trường THPT Bình Phú, Q.6, Tp.HCM) mà người viết đang tham gia giảng dạy.
NHÂN TỐ VẬT CHẤT
Thực tế khách quan
Điều kiện kinh tế - xã hội ở quận 6:
Quận 6 Tp Hồ Chí Minh hiện có 2 trường THPT công lập là Mạc Đĩnh Chi và Bình Phú, 2 trường THPT dân lập là Phan Bội Châu và Phạm Ngũ Lão, ngoài ra còn có trường THKT Phú Lâm và Trung tâm Giáo dục thường xuyên.
Thành phần dân cư đa số là dân lao động, mức độ phân hóa giàu nghèo khá gay gắt. Người Hoa chiếm tỉ lệ khá cao trong dân cư.
Tình hình học sinh bỏ học ngày càng giảm và thấp hơn so với tỉ lệ bỏ học của toàn thành phố.
Các cấp lãnh đạo địa phương ngày càng quan tâm nhiều hơn đến sự nghiệp giáo dục.
Cơ sở vật chất của trường THPT Bình Phú:
Chỉ danh
Số lượng
Diện tích
Qui cách kỹ thuật
Công năng
Phòng học
36
51.8m2
7.2m × 7.2m
Dạy học
Phòng TN Lý
1
51.8m2
7.2m × 7.2m
Thí nghiệm
Phòng TN Hóa
1
51.8m2
7.2m × 7.2m
Thí nghiệm
Phòng TN Sinh
1
51.8m2
7.2m × 7.2m
Thí nghiệm
Phòng TN LHS
0
Phòng TN HS
0
Phòng Lab
1
51.8m2
7.2m × 7.2m
Dạy Anh Văn
Phòng vi tính
2
51.8m2
7.2m × 7.2m
Dạy Tin học
Phòng nghe nhìn
2
51.8m2
7.2m × 7.2m
Thao giảng, dạy học
Hội trường
1
300m2
17.2m × 17.2m
Họp, hội thảo
Thư viện
1
181.3m2
13.4m ×13.4m
Kho sách, đọc sách
Trong đó, nhóm thiết bị phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn gồm có các thiết bị nghe nhìn, máy chiếu được lắp đặt tại 2 phòng nghe nhìn của trường THPT Bình Phú. Nếu giáo viên muốn sử dụng những thiết bị này phải đăng kí trước một tuần, và đến giờ học phải di chuyển cả lớp đến một trong hai phòng này, nên nhìn chung, việc đổi mới phươn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vận dụng mối quan hệ vật chất – ý thức trong định hướng đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn ở nhà trường THPT hiện nay.docx