Tiểu luận Vận dụng nguyên lí mối liên hệ phổ biến về xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ của nước ta

MỤC LỤC

Lời giới thiệu 1

Chương I 2

Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến - cơ sở lí luận cho mọi hoạt động thực tiễn. 2

1.1. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến: 2

1.1.1.Phép biện chứng là gì? 2

1.1.2.Nội dung nguyên lí về mối liên hệ phổ biến: 2

1.1.3.ý nghĩa phương pháp luận : 3

Chương II 5

Vận dụng nguyên lí mối liên hệ phổ biến về xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ của nước ta . 5

2.1. những khái lược chung: 5

2.1.1. Kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế: 5

2.1.2. Nội dung cơ bản của hội nhập kinh tế quốc tế . 6

2.1.3. Bốn nguyên tắc cơ bản của hội nhập kinh tế Quốc tế 6

2.2. Theo quan điểm lịch sử cụ thể thì xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập Hội nhập kinh tế Quốc tế là tất yếu 7

2.2.1. Tất yếu phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ: 7

2.2.2 Tình hình thế giới thúc đẩy các nước nói chung và Việt nam nói riêng phải hội nhập kinh tế quốc tế: 9

2.3. Quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế Quốc tế là mối quan hệ biện chứng: 11

2.3.1. Hội nhập kinh tế Quốc tế tác động đến tự chủ về kinh tế : 12

2.3.2.Tác động về xây dựng nền kinh tế tự chủ với hội nhập kinh tế Quốc tế: 14

2.4. Biện pháp xây dựng kinh tế tự chủ gắn liền với hội nhập kinh tế Quốc tế nhằm khắc phục những yếu kém trong nền kinh tế 16

2.4.1. Nâng cao sức cạnh tranh. 16

2.4.2. Đào tạo bồi dưỡng và sử dụng toàn bộ cán bộ,cải cách hệ thống pháp luật. 17

2.5. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ,mở rộng kinh tế đối ngoại đã mang lại nhiều thành quả quan trọng 19

Kết luận 20

tài liệu tham khảo 22

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 14448 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vận dụng nguyên lí mối liên hệ phổ biến về xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ của nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
úng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người vì con người bao giờ Cũng phản ánh đợc một số lượng hữu hạn những mối liên hệ. Bởi vậy ,tri thức đạt được về sự vật cũng chỉ là tương đối không đầy đủ không trọn vẹn. Mặt khác , mọi sự vật đéu tồn tại trong không gian và thời gian nhất định . Do vậy chúng ta cần quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét và giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra.Vận dụng quan điểm lịch sử-cụ thể vào việc nghiên cứu xem xét và giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra đòi hỏi chúng ta phải chú ý đúng mức tới hoàn cảnh lịch sử cụ thể làm phát sinh chúng,tới sự ra đời của chúng,tới bối cảnh hiện thực cả khách quan lẫn chủ quan.Khi xem xét một quan điểm , một luận thuyết cũng phải đặt nó trong những mối quan hệ như vậy.Chân lý sẽ trở thành sai lầm nếu nó bị đẩy ra ngoài giới hạn tồn tại của nó. Trong hoạt dộng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ gắn liền với hội nhập ta cần xem những lí luận trên đây là nền tảng, là cốt lõi mọi suy luận là kim chỉ nam cho mọi hành động. Chương II Vận dụng nguyên lí mối liên hệ phổ biến về xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ của nước ta . 2.1. những khái lược chung: 2.1.1. Kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế: Qua các văn kiện của Đảng ta đa ra về chủ trương” xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ “trong quá trình đổi mới, mở rộng quan hệ đối ngoại. Vậy thế nào là nền kinh tế độc lập tự chủ? “Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc vào các nước khác,người khác hoặc vào một tổ chức kinh tế nào đó về đường lối chính sách phát triển; cũng không bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh tế , tài chính , thương mại viện trợ …để áp đặt khống chế , làm tổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc… Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế trước những biến động của thị trường ;trớc sự khủng hoảng của nền kinh tế tài chính bên ngoài , nó vẫn có những khả năng cơ bản duy trì sự ổn định và phát triển; trước sự bao vây cô lập và chống phá của các thế lực thù địch, nó vẫn có những khả năng đứng vững , không bị sụp đổ , không bị rối loạn ’’. Vậy hội nhập kinh tế quốc tế là gì ? Hội nhập kinh tế quốc tế là việc các nớc đi tìm kiếm một số điều kiện nào đó mà họ có thể thống nhất được với nhau kể cả dành cho nhau những ưu đãi , tạo ra những điều kiện công bằng , có đi có lại trong quan hệ hợp tác ….nhằm khai thác các khả năng lẫn nhau , phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của mình . 2.1.2. Nội dung cơ bản của hội nhập kinh tế quốc tế . Nội dung cơ bản của hội nhập kinh tế quốc tế mà nước ta cần và có thể tham gia từng bước là mở cửa thị trường về thương mại , đầu tư và dịch vụ . Hội nhập kinh tế quốc tế có cả hình thức đa phương và song phương , vừa tham gia các tổ chức và diễn đàn kinh tế thế giới và khu vực , vừa thiết lập quan hệ thương mại đầu tư , khoa học kĩ thuật với từng nước . Các quan hệ kinh tế đa phương không chỉ giới hạn ở các quan hệ lợi ích kinh tế ,thương mại trực tiếp cụ thể , mà còn có những lợi ích khác như: liên kết các khối các nước đang phát triển cùng nhau đấu tranh bảo vệ lợi ích chung trên các diễn đàn Quốc tế ,chống laị những áp đặt không công bằng không bình đẳng của các nuớc phát triển . 2.1.3. Bốn nguyên tắc cơ bản của hội nhập kinh tế Quốc tế - Công bằng :các nước dành cho nhau quy chế ưu đãi cao nhất của mình và chung cho mọi nước . -Tự do hoá thương mại :Mỗi nước chỉ được sử dụng công cụ bảo hộ cho nền sản xuất của mình là thuế, các biện pháp phi thuế không được sử dụng . -Làm ăn hay thương lượng nhau phải trên cơ sở lợi ích kinh tế -Công khai mọi chính sách thương mại và đầu tư . Về mặt lí thuyết xây dựng kinh tế tự chủ có vẻ đơn giản nhưng lại vô cùng phức tạp.Bởi lẽ mọi mặt trong đời sống kinh tế - chính trị-xã hội …trên thế giới đều tác động qua lại lẫn nhau muôn hình muôn vẻ.Ta không thể đồng nhất giữa độc lập kinh tế với khép kín, “tự cung tự cấp’’kinh tế .Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đặt trong mối quan hệ giao lưu, hợp tác cạnh tranh…gói gọn trong một phạm trù :”Hội nhập Quốc tế ’’.trong mọi chủ trương xây dựng nền kinh tế luôn phải xác định rằng nền kinh tế mỗi quốc gia là một bộ phận của nền kinh tế thế giới . mối liên hệ ấy là mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng, thông qua cái riêng mà cái chung mới được biểu hiện.Nhưng mỗi quốc qia đều có những đặc điểm khác nhau được gọi là “cái đơn nhất”.Nhìn theo một góc độ nào đấy quốc gia nào càng tự chủ về kinh tế đợc bao nhiêu thì quốc gia ấy càng có “nhân cách’’bấy nhiêu.Vậy xây dựng nền kinh tế tự chủ và chủ động hội nhập vốn có mối quan hệ biện chứng . Trong quá trình xây dựng nền kinh tế tự chủ không được tách rời phương châm chủ động hội nhập. 2.2. Theo quan điểm lịch sử cụ thể thì xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập Hội nhập kinh tế Quốc tế là tất yếu 2.2.1. Tất yếu phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ: Trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế , tất cả các nước tham gia hội nhập kinh tế đều xuất phát từ mục tiêu bên trong phục vụ cho yêu cầu lợi ích quốc gia . Toàn cầu hoá ,tự do hoá làm cho nền kinh tế phụ thuộc đan xen vao nhau , tuy nhiên sự ràng buộc đó không mang tính thuần tuý , vô điều kiện mà phải vì lợi ích kinh tế .Do đó phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,phát triển bằng chính nội lực đất nước. Hiện nay,cần nhận thấy rằng ,toàn cầu hoá còn một mặt khác nữa.Nó là sản phẩm của nền kinh tế thị trường hiện đại và của một yếu tố đợc tính là các nước phát trển , nhất là Hoa Kỳ . Không phải ngẫu nhiên mà maorel, ngời Anh , chủ tịch một trong những công ty truyền thông lớn nhất thế giới đã phải thốt lên rằng “thế giới không phải đang toàn cầu hoá,mà đang được Mỹ hoá ’’1 . Điều này không chỉ được minh chứng về sức mạnh trong lĩnh vực kinh tế và thơng mại của nớc Mỹ mà còn có thể đợc minh chứng bằng ưu thế khác như trong số 20 trường lớn nhất thế giới thì có 17 trờng của Mỹ với khoảng 450000 sinh viên nớc ngoài đang du học ở Mỹ.Mỹ từng khẳng định rằng :”Toàn cầu hoá chỉ đợc chấp nhận khi nó phụ thuộc vào sức mạnh của Mỹ . Toàn cầu hoá sẽ đợc chấp nhận khi nó có ý áp đặt lên trật tự pháp lý Mỹ một trật tự khác cao hơn’’1.Vòng đàm phán thiên niên kỷ,Nxb chính trị quốc gia,Hà nội 2000,tr124. .Hay “Mỹ muốn mở rộng tự do hoá thơng mại trên thế giới và làm cho xu thế nay trở lên không thể đảo ngược , nhưng họ lại đòi cho mình rất nhiều ngoại tệ’’(1) Một trong những bài học kinh nghiêm sâu sắc mà một số nước Châu á rút ra sau khi bị rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ nặng nề năm 1997-1998,là sự phụ thộc của nền kinh tế nhất là về vốn , công nghệ , thị trường nước ngoài và sự đầu cơ trục lợi của những nhà kinh doanh tiền tệ qua thị trường chứng khoán và các luồng vốn ngắn hạn . Các nền kinh tế ấy vợt qua giai đoạn khó khăn , nhanh chóng phục hồi một phần rất quan trọng theo đánh giá của các nhà kinh tế nớc ngoài ,là do nền kinh tế Mỹ mấy năm qua có sự phục hồi .Tuy nhiên , hiện nay khi nền kinh tế Mỹ đang ngập trong khó khăn , nhất là sau sự kiện 11-9-2001 vừa qua người ta dự đoán rằng nền kinh tế một số nước Châu á khó bề vươn dậy vì đã dựa quá nhiều về xuất khẩu , không tranh thủ thời cơ tiến hành những cải cách trong nước nhằm đảm bảo sự ổn định trong nền kinh tế của mình . Hơn nữa , nợ nần và những hậu quả nghiêm trọng bất ổn định chính trị , bạo loạn lật đổ, đảo chính chiến tranh giữa các phe phái đặc biệt là nạn đói… Đây là những minh chứng cho thấy không tự chủ đợc nền kinh tế. Nói tóm lại, nớc ta phát triển kinh tế để đi lên Chủ nghĩa Xã hội thì tự chủ kinh tế là tất yếu trước bối cảnh Quốc tế còn nhiều phức tạp, các lực lượng chống đối chủ nghĩa xã hội thường xuyên tìm cách ngăn cản và chống phá sự nghiệp xây dựng chế độ chủ nghĩa xã hội ở nớc ta. Chỉ có xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ mới tạo ra được cơ sở kinh tế, vật chất-kĩ thuật của chế độ chính trị độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất để đảm bảo cho sự độc lập tự chủ bền vững về chính trị. Không thể có độc lập tự chủ về chính trị nếu bị lệ thuộc về kinh tế. Độc lập tự chủ về kinh tế cùng các mặt khác sẽ tạo ra sức mạnh của một Quốc gia. 2.2.2 Tình hình thế giới thúc đẩy các nước nói chung và Việt nam nói riêng phải hội nhập kinh tế quốc tế: Nghị quyết 7 - NQ/TƯ của Bộ chính trị tại Đại hội Đảng toàn Quốc lần thứ IX (27/11/2001) về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường…”(1) So với văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII thì văn kiện Đại hội Đảng lần IX đã có những đường nối chính sách mới về việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội VII năm 1991 đã thông qua định hướng: Đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã quyết định: “Đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”; “Tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán hiệp định thương mại với Mĩ, gia nhập APEC và WTO; có hoạch định cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA”. Những văn kiện của Đại hội Đảng đã khẳng định hội nhập kinh tế quốc tế là đòi hỏi khách quan đối với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá của Việt Nam và tham gia hội nhập kinh tế quốc tế đang là đòi hỏi cấp bách. Hội nhập được xác định rất sớm, tháng 12/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ chính sách đối ngoại của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trong đó có luận điểm đến nay vẫn bất hủ: “ Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”.trước hết xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá trên cơ sở lợi ích kinh tế. kinh tế của các bên tham gia đã trở thành nhân tố góp phần ổn định khu vực, tạo điều kiện cho các nước giảm bớt các khoản chi về an ninh, quốc phòng để tập chung các nguồn lực cho việc phát triển kinh tế, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Đồng thời sự ổn định về kinh tế, chính trị xã hội chính là biểu hiện liên kết để thu hút đầu tư nước ngoài. Qua mối quan hệ giao lưu quốc tế ngày càng rộng mở, Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm trong việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế của các nớc đI trớc nhất là về quản lí kinh tế từ đó tránh đợc những sai sót, tìm các biện pháp để rút ngắn thời gian thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đát nước. Hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo diều kiện để Việt Nam dần điều chỉnh chính sách và chế độ chính sách phù hợp chuẩn mực của các tổ chức và định chế kinh tế quốc tế tạo môi trường chuyển giao công nghệ kĩ thuật cao rút ngắn khoảng cách, đuổi kịp các nước trong khu vực và thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra những mối quan hệ kinh tế-chính trị đa dạng, đan xen , phụ thuộc lẫn nhau góp phần nâng cao vị thế quốc tế và tạo điều kiện để Việt Nam tham gia bình đẳng trong giao lưu và quan hệ kinh tế quốc tế. Nó tạo điều kiện để mở rộng, đa dạng hoá thị trường quốc tế, tránh lệ thuộc tập chung vào một số thị trường, giữ độ an toàn hơn cho nền kinh tế. Từ đó có điều kiện bảo vệ lợi ích và độc lập tự chủ của nớc ta. Sự giảm dần các hàng rào thuế quan tạo cho các công ty lớn các nền kinh tế lớn mà còn cho các công ty nhỏ, các nền kinh tế nhỏ tham gia bình đẳng và rộng rãi vào guồng máy kinh tế thế giới. Cộng đồng thế giới đang đứng trớc những vấn đề toàn cầu như nghèo đói, thất nghiệp, bất bình đẳng, tội phạm , tệ nạn xã hội khủng bố, … Các vấn đề xuyên quốc gia không của riêng lẻ quốc gia nào. Nó cần có sự hợp tác đa phương. Lại nhìn từ góc độ triết học về mối liên hệ giữa cái chung-cái riêng thì thông qua “cái chung ’’(tức là vấn đề chung của thế giới) mà “cái riêng” ( Tức là vấn đề riêng của từng quốc gia ) được bộc lộ (tức là lợi ích của mỗi nước được thoả mãn và theo như LêNin nói “ cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng , thông qua cái riêng ’’(1) thật vậy, chỉ khi nào những vấn đề chung nảy sinh ở hầu hết các nước mà các nước ấy liên hệ chặt chẽ với nhau thì mới hình thành vấn đề mang tính toàn cầu. 2.3. Quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế Quốc tế là mối quan hệ biện chứng: Để xây dựng được nền kinh tế mạnh trên mọi mặt thì phải nghiên cứu mọi mặt giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế . Theo Lênin: “Cần phải xem xét tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và cứng nhắc”1 (1)V.Ilênin:”Toàn tập”,Nxb,Tiến bộ,matxcơva,1981,tr42,tr364. .Tránh xa những giải pháp chỉ liệt kê thuần tuý các mặt mà không đặt chúng trong mối liên hệ phổ biến.Đó là những “quan điểm phiến diện “. Có khi vẫn là phiến diện nếu chúng ta đánh giá ngang nhau những thuộc tính những quy định khác nhau của sự vật hiện tượng .Như vậy , trong mối quan hệ kinh tế tự chủ và kinh tế hội nhập tới nhau như thế nào ? Sự tác động nào là chủ yếu ? Bản chất mối quan hệ âý tác động của con ngời vào mối quan hệ khách quan ấy như thế nào là phù hợp ?.Chỉ có như vậy ta mới giải quyết đợc vấn đề. 2.3.1. Hội nhập kinh tế Quốc tế tác động đến tự chủ về kinh tế : Huân chương nào cũng có mặt trái của nó .Ngoài những tác động mang tính tất yếu của Hội nhập kinh tế Quốc tế vừa trình bày, thì quá trình hội nhập vẫn con nhiều những tác động xấu trong tình hình thế giới hiện nay .Mà thể hiện rõ nhất là tính phụ thuộc ,dễ bị tổn thương của nền kinh tế vào bên ngoài . Toàn cầu hoá làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các Quốc gia trên nhiều lĩnh vực,từ đó làm giảm độc lập tự chủ về kinh tế của các nước theo quan niệm truyền thống. Sau một số năm tham gia toàn cầu hoá,nợ lần của các nớc đang phát triển càng thêm chồng chất ,một số nước xảy ra khủng hoảng nợ là ghánh nặng kéo lùi tốc độ tăng trưởng kinh tế .Theo báo cáo của WB về kinh tế tài chính toàn năm 1999 nợ nớc ngoài so với GNP của Braxin là 24% Inđônêxia la 65%; Philíppin là 53%... Tốc độ tăng trởng kinh tế nhiều nước đang phát triển phụ thuộc phần lớn vào xuất khẩu ,nhưng khối lượng xất khẩu lại phụ thuộc phần lớn vào các nước phải nhập khẩu .Nguyên nhân là do các nước kinh tế phát triển áp dụng “luật chơi”gây nhiều bất lợi cho các nước đang phát triển trong đó có Việt nam. Khoa học kĩ thuật phát triển ,việc sử dụng công nghệ cao hiện đại đang là xu thế mới .Sự lớn mạnh của kinh tế tri thức mới mang lại sự giàu có , những cái được coi là lợi thế của các nước đang phát triển nh tài nguyên ,lao động dồi dào, chi phí lao động rẻ …chúng ngày càng bị nu mờ đi .Một nền kinh tế mở thì phải chấp nhận những cạnh tranh gay gắt .Từ đó dễ làm cho các Quốc gia bỏ rơi những nghành lĩnh vực có hiệu quả kinh tế thấp , chạy theo lĩnh vực có hiệu quả cao . Nước ta đi lên từ một nền kinh tế lạc hậu thuần nông ,thực lực kinh tế kém xa các nớc Tư bản .Trong nền kinh tế thị trờng sân chơi chung cho mọi quốc gia thì nền kinh tế Việt nam cha đủ sức chịu đựng được cái gọi là “ chu kì kinh doanh”.Hơn nữa toàn cầu hoá làm tăng lu chuyển của các nguồn vốn mà Chính phủ không dễ kiểm soát .Này nay FDI chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia cung cấp , chúng có thế lực hùng mạnh, gây khuynh đảo kinh tế chính trị của nhiều nước. Một mặt rất quan trọng nữa là hội nhập kinh tế Quốc tế tạo ra những cơ hội và thách thức đối với giá trị truyền thống trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay .Vì mặt văn hoá hợp tác, hội nhập Quốc tế và toàn cầu hoá đã tạo cơ hội và khả năng tiếp xúc, giao lưu xích lại gần nhau và hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc qua đó góp phần nâng cao dân trí và tự khẳng định mình trớc cộng đồng quốc tế. Trước đây nhiều người trên thế giới mới biết đến Việt Nam như một nước chiến tranh liên miên và dân tộc việt nam đã giành nhiều thắng lợi trong các cuộc chiến tranh đó. Ngày nay, nhờ mở rộng giao lưu mà thế giới biết đến Việt nam như một đất nước yêu chuộng hoà bình, yêu độc tự do, tôn trọng công lí, khoan dung đầy năng động với một kho tàng và các giá trị văn hoá đầy bản sắc riêng. Tuy nhiên một khi các giá trị nhân loại chung, giá trị toàn cầu tăng lên thì theo lẽ tự nhiên các giá trị khác mang tính khu vực hoặc mang tính dân tộc sẽ không tránh khỏi suy giảm. Khi tham gia hội nhập tất cả các giá trị truyền thống cuả Việt nam như tinh thần yêu nước, tính hiếu học tính cộng đồng v.v… sẽ có những biến đổi và thực sự đang trở thành những thách thức. Ví dụ: Việc học tập của số đông giới trẻ học để đối phó , để có nhiều tiền sau này. Tương tự như vậy một giá trị khác là sự tôn trọng gia đình và huyết thống dòng tộc; sự gương mẫu với cha mẹ; lòng chung thuỷ vợ chồng đã có từ ngàn xa ở ngời Việt nam nay đã có nhiều điều khác biệt. Do vậy chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác Quốc tế , bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng Xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh Quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc có thể coi là một giải pháp hữu hiệu để phát huy vai trò động lực của các giá trị truyền thống cho sự phát triển và tiến bộ xã hội trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay. Tác động của xu thế toàn cầu hoá đối với quan niệm về an ninh và tư duy chiến lược. Dới tác động của xu thế toàn cầu hoá an ninh mỗi Quốc gia đang có những chuyển biến mới cả về nội dung lẫn cơ hội và thách thức. Cơ hội: nhiều nhà nghiên cứu cho rằng qúa trình toàn cầu hoá đã thúc đẩy sự ra đời và góp phần củng cố mạng lới dày đặc các thiết chế quốc tế , nhất là các tổ chức Quốc tế trong mọi lĩnh vực. Điều tạo nhiều khả năng hơn cho việc bảo vệ lợi ích Quốc gia, đồng thời ít bị bất lợi hơn . Toàn cầu hoá không chỉ đơn thuần là một phạm trù kinh tế. Để tiến tới một thị trường hợp nhất, toàn cầu hoá sẽ làm thay đổi kiến trúc thượng tầng của các Quốc gia. Từ đó, tự chủ nền kinh tế cũng còn những biến đổi lớn . Về vấn đề an ninh, trong điều kiện hiện nay an ninh về kinh tế là nội dung trụ cột của an ninh Quốc gia. Mọi vấn đề an ninh khác phải phục vụ cho sự phồn vinh của nền kinh tế . Tóm lại, về lâu dài , quá trình toàn cầu hoá sẽ làm mờ nhạt đi biên giới không gian kinh tế quốc gia và dần hình thành nên những không gian kinh tế rộng lớn hơn bao gồm nhiều nước và lãnh thổ kinh tế. Ví dụ, hiện nay các nền kinh tế thuộc các thành viên EU đang thực hiên quá trình hội nhập rất cao trong một liên minh kinh tế chung. Trong đó, từng nền kinh tế quốc gia chấp nhận chuyển nhiều thẩm quyền về kinh tế thuộc chủ quyền quốc gia cho một kiểu “nhà nước cộng đồng”…Cũng không kể sẽ đến lúc cả thế giới trở thành một nền kinh tế thống nhất . Với nhận thức như trên về chiều hướng phát triển và tác động lâu dài của toàn cầu hoá, chúng ta cần có sự đổi mới phù hợp hơn về tư duy kinh tế độc lập tự chủ trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế để xác định đúng đắn các chiến lược phát triển kinh tế xã hội . 2.3.2.Tác động về xây dựng nền kinh tế tự chủ với hội nhập kinh tế Quốc tế: Nhìn từ góc độ lí luận, khẳng định rằng mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độ lập tự chủ với hội nhập kinh tế quốc tế là mối quan hệ bên trong -bên ngoàI theo mối liên hệ này thì nền kinh tế độc lập tự chủ là điều kiện đảm bảo cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tạo nên sức mạnh tổng hợp cho nền kinh tế quốc gia. Quá trình hội nhập do nền kinh tế tự chủ quy định và chi phối trong mối quan hệ đối ngoại .Vậy sự tác động khi xây dựng có nền kinh tế độc lập tự chủ tới việc hội nhập như thế nào ? Lí do gì mà xây dựng nền kinh tế tự chủ là yếu tố quyết định ? Trong quá trình hội nhập nền kinh tế , các nớc tham gia hội nhập kinh tế quốc tế đều xuất phát từ mục tiêu bên trong , phục vụ cho những yêu cầu riêng và lợi ích quốc gia . Do đó mỗi một nước cần phải chủ động xây dựng nền kinh tế tự chủ nhằm tạo ra những cơ hội khác nhau trong các quan hệ quốc tế.Những lợi ích có được do hội nhập kinh tế mang lại cũng không phải tự nhiên mà có , nó chỉ dạng tiềm năng ,nó có trở thành hiện thực hay không lại phụ thuộc vào nội lực nền kinh tế . Ví dụ , phát huy được lợi thế so sánh có khả năng tạo ra sức cạnh tranh và hiệu quả trả được nợ tạo được tích luỹ đáp ứng những nhu cầu trong nớc, ngoài nước …Phải có một năng lực nội sinh về khoa học để làm chủ công nghệ nhập khẩu và sáng tạo công nghệ mới của Việt Nam , bảo đảm cho sự trao đổi bình đẳng với bên ngoài , nhất là giai đoạn hiện nay khi sức cạnh tranh ngày càng dựa trên thế mạnh về khoa học công nghệ …Tất cả giải pháp này là để nâng cao sức cạnh tranh - “phạm trù”trong quá trình xây dựng nền kinh tế tự chủ . Lí do quan trọng trên hết, xây dựng nền kinh tế tự chủ lại quyết định đến vấn đề hội nhập thể hiện trong tính tất yếu xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.chỉ với xây dựng nền kinh tế tự chủ, không bị lệ thuộc vào thế lực khác làm cơ sở cho sự bền vững kinh tế, tự thân các thành phần kinh tế trong nớc , tổ chức kinh tế trong nước quyết định đờng lối quan hệ quốc tế thị quan hệ quốc tế mới đúng theo nghĩa của nó. Một nền kinh tế bị phụ thuộc thì cái gọi là “lợi ích kinh tế “ bị xuyên tạc bóp méo. Điều này còn nguy hiểm hơn những “quan điểm phiến diện hay “chủ nghĩa triết trung “. Muốn chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế đòi hỏi phải có các biện pháp đồng bộ thống nhất cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Tư tưởng độc lập tự chủ trong hội nhập kinh tế quốc tế cần đợc thể hiện trớc hết trong việc tự mình quyết định đường lối phát triển kinh tế xã hội của mình. Chỉ tận dụng những nhân tố thuận lợi do hội nhập mang lại và phải lấy tự chủ kinh tế để ứng phó những tiêu cực trong hội nhập đó là những tưduy phương pháp luận rút ra từ nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến . Khẳng định lại rằng, quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế Quốc tế là mối quan hệ biện chứng chúng là hai mặt của một vấn đề xây dựng kinh tế mạnh toàn diện. 2.4. Biện pháp xây dựng kinh tế tự chủ gắn liền với hội nhập kinh tế Quốc tế nhằm khắc phục những yếu kém trong nền kinh tế 2.4.1. Nâng cao sức cạnh tranh. Sức cạnh tranh của một số doanh nghiệp nhà nớc còn nhiều yếu kém. Hàng hoá, dịch vụ còn thấp chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu nguyên nhân là do máy móc, cả thiết bị cũ nhưng tốc độ đổi mới chậm , việc đa tiến bộ kĩ thuật vào sản xuất chưa đồng bộ, các doanh nghiệp và người lao động chỉ chú ý đến chỉ tiêu số lượng, chủ nghĩa hình thức, ít chú ý đến chất lượng và giá cả. Như vậy, sức cạnh tranh của hàng hoá thấp, theo kết quả điều tra giữa năm 1998 chỉ có 26,9% số doanh nghiệp dành đợc ưu thế, chiếm lĩnh thị trường chưa vững chắc, 14,3% doanh nghiệp không có sự cạnh tranh, chỉ có 23,1% có hàng hoá xuất khẩu, 13,7% có triển vọng xuất khẩu, 62% hàng hoá không có khả năng xuất khẩu. Do vậy, cần tổ chức lại doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Doanh nghiệp là chủ thể thực hiện hội nhập, là động lực quan trọng và then chốt của nền kinh tế. Yêu cầu rất cấp bách là đẩy mạnh hơn nữa việc xắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước chuyển mạnh sang cổ phần hoá, thực hiện chủ trương giao bán, khoán , cho thuê các loại hình doanh nghiệp nếu xét thấy cần thiết. Hướng chung là mở rộng và kiện toàn quản lí các doanh nghiệp trong cả nước theo hướng huy động tối đa năng lực của toàn dân. Xây dựng những doanh nghiệp và ngành nghề mới có hàm lượng khoa học kĩ thuật cao, đi đối với việc xắp xếp , cải cách doanh nghiệp về kinh tế kĩ thuật. 2.4.2. Đào tạo bồi dưỡng và sử dụng toàn bộ cán bộ,cải cách hệ thống pháp luật... Trong quan hệ kinh tế ràng buộc phức tạp thì sự lãnh đạo của Đảng ,nhà nước là quan trọng nhất.để đảm bảo tính bền vững trong phát triển kinh tế , bảo đảm cho hội nhập đúng hướng và thành công.Theo tinh thần ấy coi hội nhập là một trong những lĩnh vực then chốt .Từ đó có chơng trình kế hoạch cụ thể chỉ đạo thống nhất từ TW đến địa phương, bảo đảm sự phối hợp đồng bộ giữa cán bộ nghành trong việc hoạch định chủ tưrơng chính sách … Tổ chức Đảng các cấp thường xuyên công tác hội nhập kinh tế quốc tế .Các cấp,doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc những nguyên tắc ,mục tiêu hội nhập kinh tế quốc tế . Kết hợp chặt chẽ chính trị đối ngoại ,cần thúc đẩy quan hệ chinh trị song phương và đa phương. Đổi mới cơ chế quản lý ,tăng cường kiện toàn bộ máy pháp lý để đấp ứng những nhu cầu phát triển của nền kinh tế ,đồng thời phù hợp với yêu cầu hội nhập ,tiếp tục xây dựng khung thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Mà trước hết cần xây dựng hệ thống luật pháp đến nay còn nhiều hạn chế. Phát triển giáo dục -đào tạo, khoa học và công nghệ ,phát triển giáo dục .Các cấp phải biết chú trọng giáo dục hướng nghiệp ,đào tạo đội ngũ cán bộ tri thức có đủ năng lực và phẩm chất , đáp ứng những nhu cầu cấp bách vủa hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.Nguồn lao động trẻ được giáo dục đào tạo tốt là lợi thế so sánh rất quan trọng của nước ta .Đào tạo cán bộ gắn liền với quy hoạch sử dụng cán bộ .Đây là khâu cốt yếu cần khắc phục .Vấn đề trọng tâm là căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh cán bộ để phân loại ,lên chương trình đào tạo ở các cấp và kế hoạch sử dụng sau đào tạo . Những biện pháp trên đây là rất phù hợp vì những biện pháp ấy luôn đặt trong mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVận dụng nguyên lí mối liên hệ phổ biến về xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ của nước ta.Doc
Tài liệu liên quan