MỤC LỤC
A- ĐẶT VẤN ĐỀ 2
B- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
I. NGUYÊN TẮC NHÂN DÂN LAO ĐỘNG THAM GIA ĐÔNG ĐẢO VÀO QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC. 2
1, Cơ sở pháp lý. 2
2, Biểu hiện của nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước. 3
II- VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC NHÂN DÂN LAO ĐỘNG THAM GIA ĐÔNG ĐẢO VÀO QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC. 5
1. Mặt tích cực. 5
2. Mặt hạn chế. 8
III- NGUYÊN NHÂN DẪN TỚI HẠN CHẾ TRONG VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC NHÂN DÂN LAO ĐỘNG THAM GIA ĐÔNG ĐẢO VÀO QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC. 9
IV- VẤN ĐỀ NÂNG CAO PHÁP LUẬT ĐỂ ĐẢM BẢO NHÂN DÂN LAO ĐỘNG THAM GIA ĐÔNG ĐẢO VÀO QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC. 10
1. Về vấn đề pháp luật. 10
2. Vấn đề thực hiện tổ chức có hiệu quả các quy định của pháp luật trong việc đảm bảo tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý hành chính nhà nước. 11
12 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6049 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vận dụng nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phải được ghi nhận và đảm bảo thực hiện như là một nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước. Điều 3 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) khẳng định: “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân”. Quyền được tham gia vào quản lý các công việc của Nhà nước và xã hội là quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận và trên thực tế nó đã bảo đảm thực hiện thông qua hàng loạt các hoạt động cụ thể.
Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước khẳng định vai trò quan trọng của nhân dân lao động trong quản lý hành chính nhà nước, đúng như nguyên lý khoa học “Nhân dân là gốc của quyền lực nhà nước” mà chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra và thực tiện lịch sử đã chứng minh. Mặt khác, nó cũng xác định những nhiệm vụ mà nhà nước phải thực hiện trong việc đảm bảo những điều kiện cơ bản để nhân dân lao động tham gia vào quản lý hành chính nhà nước.
2, Biểu hiện của nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước.
Trong quản lý hành chính nhà nước, nguyên tắc này thể hiện ở những hình thức tham gia vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước của nhân dân lao động. Đây là những hình thức được pháp luật ghi nhân và đảm bảo thực hiện bằng các phương tiện của nhà nước.Các hình thức tham gia vào quản lý hành chính nhà nước của nhân dân lao động bao gồm:
Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Các cơ quan trong bộ máy nhà nước là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước. Vì vậy, tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước là hình thực tham gia tích cực, trực tiếp và có hiệu quả của người lao động vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Người lao động nếu đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu mà pháp luật quy định đều có thể tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước để trực tiếp hay gián tiếp thực hiện công việc quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trước hết, người lao động có thể tham gia vào cơ quan quyền lực nhà nước với tư cách là thành viên của cơ quan này- những đại biểu được lựa chọn thông qua con đường bầu cử. Ở cương vị này, người lao động trực tiếp xam xét và quyết định các vấn đề quan trọng của nhà nước, của từng địa phương, trong đó có các vấn đề về quản lý hành chính nhà nước.
Bên cạnh đó, nhân dân lao động có thể tham gia vào hoạt dộng của các cơ quan nhà nước khác (cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan kiểm sát, cơ quan xét xử) với tư cách là những cán bộ, công chức. Là cán bộ, công chức của Nhà nước, nhân dân lao động sẽ sử dụng một cách trực tiếp quyền lực nhà nước để tiến hành những công việc khác nhau của quản lý hành chính nhà nước, thể hiện vai trò người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội của mình. Họ sẽ có đầy đủ các điều kiện để biến ý chí, nguyện vọng của mình thành hiện thực nhằm “Xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện” (Điều 3 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)).
Ngoài ra, những người lao động có thể gián tiếp tham gia vào vào hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua việc thực hiện lựa chọn những đại biểu xứng đáng thay mặt mình vào cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương hay địa phương. Đây là cách thức rộng rãi nhất để nhân dân lao động có thể tham gia vào quản lý các công việc của Nhà nước.
Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội.
Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân lao động có thể tham gia một cách tích cực vào hoạt động của các tổ chức xã hội. Nhà nước ban hành nhiều quy định liên quan tới vị trí, vai trò, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức xã hội trong quản lý hành chính nhà nước nói riêng và của quản lý nhà nước nói chung. Điều 9 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân”. Bên cạnh đó, nhà nước cũng giúp đỡ về vật chất, và tinh thần để cho các tổ chức xã hội thực sự trở thành công cụ đắc lực của nhân dân lao động trong việc thực hiện quyền tham gia quản lý nhà nước của mình. Thông qua các hình thức hoạt động của các tổ chức xã hội, vai trò chủ động sáng tạo của nhân dân lao động được phát huy trong quản lý hành chính nhà nước. Trên thực tế, các tổ chức xã hội đã thu hút một lượng đông đảo quần chúng nhân dân lao động tham gia vào quản lý hành chính nhà nước. Vì vậy, đây là một hình thực hoạt động rất có ý nghĩa đối với việc thúc đẩy và mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
c. Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở.
Ở nơi cư trú, sinh hoạt, làm việc, nhân dân lao động thường xuyên thực hiện các hoạt động mang tính chất tự quản. Đây là những hoạt động do chính nhân dân lao động tự thực hiện và chúng có mối liên quan chặt chẽ với các công việc khác nhau của quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Các hoạt động tự quản ở cơ sở như an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, tổ chức đời sống công cộng…. đều rất gần gũi và thiết thực đối với cuộc sống của mỗi người dân. Thông qua những hoạt động mang tính chất tự quản mà người dân lao động là những chủ thể tham gia tích cực, quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của người dân là pháp luật đã quy định thực sự được tôn trọng và đảm bảo thực hiện. Nhà nước đã tạo những điều liện cần thiết về vật chất và tinh thần để phát huy vai trò chủ động, tích cực của nhân dân lao động trong việc tham gia những hoạt động mang tính tự quản nêu trên.
d. Trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lý hành chính nhà nước.
Điều 53 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) đã quy định công dân có quyền “Tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Để thực hiện quyền cơ bản này, pháp luật đã quy định các quyền và nghĩa vụ cụ thể của công dân trong các lĩnh vực khác nhau của quản lý hành chính nhà nước. Những quyền, nghĩa vụ này của công dân có thể thực hiện thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội (như đã phân tích ở phần trên) hoặc cũng có thể được chính người dân trực tiếp thực hiện. Việc trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ này cũng chính là một hình thức tham gia vào quản lý hành chính nhà nước của nhân dân lao động. Cùng với sự phát triển của xã hội, các quyền và nghĩa vụ của công dân ngày càng được tôn trọng và đảm bảo thực hiện một cách đầy đủ hơn. Do vậy, đây là một hình thức có ý nghĩa quan trọng để nhân dân lao động phát huy vai trò làm chủ của mình.
II- VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC NHÂN DÂN LAO ĐỘNG THAM GIA ĐÔNG ĐẢO VÀO QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
1. Mặt tích cực.
a. Tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Nhân dân trực tiếp tham gia vào quản lý nhà nước chủ yếu với tư cách là cán bộ, công chức. Do đó, để đáp ứng cho nhân dân có thể tham gia vào quản lý nhà nước với tư cách này, nhà nước đã đưa ra luật cán bộ công chức, nêu ra rõ nhiệm vụ, chức năng của cán bộ, công chức trong quản lý hành chính nhà nước. Luật Cán bộ, công chức (CB-CC) có hiệu lực từ ngày 01/01/2010. Theo những quy định của luật này, thì làm một người CB-CC sẽ không hề đơn giản. Để tham gia vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước được tốt, nhà nước cũng yêu cầu cán bộ, công chức phải là những người có cả phẩm chất đạo đức tốt và năng lực làm việc cao.
Nếu như trước đây, vấn đề đạo đức và văn hóa giao tiếp của CB-CC chủ yếu được quy định dựa trên quy chế của cơ quan, đơn vị, thì với Luật CB-CC nhằm thực hiện chủ trương xây dựng và quản lý đội ngũ công chức có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ vấn đề đạo đức và văn hóa giao tiếp đã được đưa thẳng vào luật (Điều 15, 16,17 Luật CB-CC). Ví dụ như với nhân dân, theo Luật CB-CC phải gần gũi, có tác phong, thái độ lịch sự, nghiêm túc, khiêm tốn; ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc và tuyệt đối không được hách dịch, cửa quyền, gây khó khăn, phiền hà cho nhân dân khi thi hành công vụ. Trong tình trạng cán bộ công chức “đánh mất nụ cười” khi tiếp dân như hiện nay thì những quy định này có thể nói là tương đối cần thiết và sát thực.
Và tất nhiên, nếu CB-CC vi phạm các quy định này thì sẽ bị xử lý bằng pháp luật. Có thể nói, Luật đã khá “mạnh tay” xử lý CB-CC kém đạo đức, văn hóa thông qua việc phân định lại hình thức kỷ luật áp dụng cho từng đối tượng Bên cạnh những hình thức xử lý kỷ luật cũ như: khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, cách chức, buộc thôi việc, thì có bổ sung thêm hình thức giáng chức. Tuy nhiên, việc giáng chức, cách chức chỉ áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý. Mặt khác, luật có quy định thời hiệu xử lý kỷ luật là 24 tháng, kể từ thời điểm có hành vi vi phạm (trước đây là 03 tháng). Với việc kéo dài thời hiệu như vậy, vấn đề xử lý kỷ luật CB-CC vi phạm sẽ được tiến hành triệt để và nghiêm minh hơn.
Việc tuyển dụng CB-CC vào của nước ta hiện nay còn khá nhiều bất cập và kẽ hở vì nhiều lý do khách quan, chủ quan nên đã tạo ra ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của đội ngũ CB-CC. Có thế nói, không có một cơ quan, tổ chức nào hiện nay có may mắn sở hữu được một đội ngũ công chức vừa hồng lại vừa chuyên, và ở đâu đó vẫn còn những “con sâu làm rầu nồi canh”. Thực trạng này đặt ra yêu cầu phải đánh giá công chức và quan trọng hơn là kết quả đánh giá phải được phục vụ cho chính công cuộc cải tổ đội ngũ công chức.
Theo Luật CB-CC, công chức được đánh giá 6 tiêu chí như: chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong và lề lối làm việc; năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ… Ngoài ra, công chức lãnh đạo, quản lý còn được đánh giá theo kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao lãnh đạo, quản lý; năng lực lãnh đạo, quản lý; năng lực tập hợp, đoàn kết công chức. Việc đánh giá công chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên quản lý trực tiếp thực hiện và nhất thiết phải được tiến hành hàng năm, trước khi bổ nhiệm, quy hoạch, điều động, đào tạo, bồi dưỡng, khi kết thúc thời gian luân chuyển, biệt phái. Kết quả đánh giá công chức (xếp theo các mức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; hoàn thành tốt nhiệm vụ; hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực; không hoàn thành nhiệm vụ) được lưu vào hồ sơ công chức và thông báo đến công chức được đánh giá.
Đáng chú ý sẽ là yếu tố năng lực rất được xem trọng trong hoạt động đánh giá công chức. Vì vậy, từ kết quả đánh giá, nếu công chức có 2 năm liên tiếp hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực hoặc có 2 năm liên tiếp, trong đó 1 năm hoàn thành nhiệm vụ nhưng hạn chế về năng lực và 1 năm không hoàn thành nhiệm vụ thì cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền bố trí công tác khác. Còn công chức 2 năm liên tiếp không hoàn thành nhiệm vụ thì cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền giải quyết thôi việc.
Người lao động có thể gián tiếp tham gia hoạt động vào cơ quan nhà nước thông qua thực hiện quyền lựa chọn những đại biểu xứng đáng thay mặt mình vào cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương hay địa phương. Vì vậy, nhân dân đã tích cực thực hiện quyền bầu cử của mình. Đã có tới 95% cử tri đi bỏ phiếu để bầu ra người xứng đáng thay mặt mình vào cơ quan quyền lực nhà nước.
b. Tham gia vào hoạt động của các tổ chức xã hội.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển của các tổ chức xã hội có ý nghĩa quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Là bộ phận của hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội đã góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Các tổ chức xã hội rất đa dạng về hình thức và tên gọi như: Liên hiệp hội, tổng hội, liên đoàn, hiệp hội. Ví dụ, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, hội cựu chiến binh, Hội nhà văn, Hội nhà báo… Các tổ chức xã hội này đã thu hút được số lượng lớn nhân dân tham gia. Chúng ta có lấy ví dụ như ở Hội liên hiệp phụ nữ đã thu hút được gần 11 triệu hội viên. Các tổ chức xã hội có vai trò quan trọng trong việc giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, trước hết là các thành viên trong đó. Thông qua những quy định trong điều lệ hoạt động của tổ chức xã hội, thông qua hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật thường xuyên đối với các thành viên, các tổ chức xã hội luôn hướng tới nâng cao ý thức cho nhân dân. Đồng thời hoạt động của các tổ chức này còn nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các thành viên.
c. Tham gia vào hoạt động tự quản ở cơ sở.
Trong các phong trào hoạt động tự quản của nhân dân ở cơ sở, chúng ta phải kể tới phong trào toàn dân tham gia phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật ở cơ sở. Phong trào toàn dân tham gia phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật đã thu được những kết quả tốt. Thực tế những năm qua cho thấy, nhiều vụ việc tiêu cực, tham nhũng trong bộ máy nhà nước cũng như các vụ án nghiêm trọng đã kịp thời được phát hiện và xử lý từ nguồn tin được quần chúng cấp báo.
Chúng ta có thể kể ra được một số mô hình nhân dân tham gia phòng, chống tội phạm đạt được kết quả tốt như: "Thôn, xóm, bản, làng, khu dân cư không có tội phạm và tệ nạn xã hội” ở Thanh Hóa; "Hộ tự quản, số nhà tự phòng", "Ba quản, bốn giữ" ở thành phố Hà Nội; "thanh niên tình nguyện phòng chống tội phạm ma túy", "phường, xã, ấp, tổ dân phố không có tội phạm ẩn nấp" ở TP.HCM; "Giáo xứ, họ giáo không có tội phạm, không ma túy, không tệ nạn xã hội" ở Nam Định...
d. Trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công dân trong quản lý hành chính nhà nước.
Hoạt động kiểm tra, giám sát trực tiếp của nhân dân đối với bộ máy nhà nước, đặc biệt ở các cấp cơ sở đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Quyền kiểm tra, giám sát trực tiếp đối với hoạt động của mọi cơ quan và nhân viên trong bộ máy nhà nước là một quyền hiến định của công dân. Mặc dù cho đến nay vẫn chưa có được một cơ chế pháp lý hiệu quả để nhân dân thực hiện rộng rãi và đầy đủ quyền này nhưng trong thời gian qua việc kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức nhà nước, đặc biệt là tại các cấp cơ sở đã có nhiều hình thức hợp lý và đã đạt được những kết quả nhất định. Thông qua việc kiểm tra, giám sát nhiều người dân đã mạnh dạn tố cáo khi phát hiện thấy những hành vi vi phạm pháp luật cũng như đạo đức công vụ của các cán bộ, công chức nhà nước trong các cơ quan thẩm quyền.
Ngoài ra để tăng cường hiệu lực kiểm tra giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức nhà nước tại cơ sở, thực hiện nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 7/7/2003 của chính phủ, nhiều địa phương đã tổ chức rộng rãi việc lấy phiếu tín nhiệm đối với chức danh chủ tịch hội đồng nhân dân và chủ tịch ủy ban nhân dân tại các xã, phường, thị trấn. Thông qua hoạt động này, người dân đã có nhiều cơ hội hơn để góp ý, phê bình, chất vấn và thực hiện sự tín nhiệm của mình đối với các chức danh chủ chốt của chính quyền cơ sở. Thông qua việc bỏ phiếu tín nhiệm của cử tri, các chức danh chủ chốt của chính quyền xã có tỉ lệ số phiếu tín nhiệm thấp dưới 50% số người tham gia thì sẽ bị hội đồng nhân dân xã đưa ra bãi nhiệm theo quy định của pháp luật.
Nền dân chủ trong nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải thiết lập được cơ chế giám sát hữu hiệu từ bên ngoài bộ máy nhà nước, trước hết là cơ chế giám sát thường xuyên, thực chất và có hiệu quả từ phía nhân dân - chủ thể quyền lực nhà nước đối với các cơ quan và cán bộ thực thi quyền lực nhà nước, kể cả đối với cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất do nhân dân trực tiếp bầu ra. Giám sát xã hội đối với tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước có tác dụng hỗ trợ cho giám sát mang tính quyền lực nhà nước. Cùng với xu hướng dân chủ hóa đời sống xã hội, giám sát xã hội đối với tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước ngày càng được tăng cường và mở rộng, bảo đảm sự vận hành của tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước có hiệu quả, khoa học, nhằm mục đích xây dựng và hoàn thiện pháp quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Quan hệ đa chiều thể hiện ở việc chủ thể quyền lực nhà nước quản lý tác động đến khách thể là nhân dân, các tổ chức trong xã hội. Nhưng với bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân, các tổ chức có quyền giám sát, kiểm tra, kiểm soát chủ thể trong việc thực hiện pháp luật, khách thể tác động trở lại đối với chủ thể quyền lực nhà nước thông qua giám sát, chế ước, phản hồi đối với tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Pháp luật dân chủ không quy định cho nhà nước quyền cho hay không cho, hoặc buộc khách thể cầu xin những quyền được hưởng, mà chủ yếu là chứng nhận, xác nhận về mặt nhà nước - nghĩa là xác nhận vốn được ủy quyền từ phía nhân dân, nhằm bảo đảm trật tự, ổn định và phát triển xã hội, đồng thời, pháp luật dân chủ phải quy định quyền hạn của công dân chế ước quyền lực nhà nước theo nguyên tắc công dân có thể làm tất cả những gì mà luật không cấm, nhà nước chỉ làm những gì mà luật cho phép và quyền lực nhà nước phải được chế ước và giám sát bởi chủ thể đích thực của nó là nhân dân.
Việc giám sát xã hội đối với tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước đã hình thành và phát triển từ khi nhà nước dân chủ nhân dân được thiết lập cho đến nay. Hệ thống giám sát đó với nhiều hình thức, công cụ và không ngừng được củng cố, hoàn thiện nhằm tạo điều kiện để nhân dân có khả năng giám sát một cách có hiệu quả, khoa học đối với tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước.
Ngoài ra, người dân cũng đã mạnh dạn đề xuất các kiến nghị, và đồng thời cũng đã đưa ra các giải pháp góp phần đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước.
Khi được nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý, người dân đã tham gia nhiệt tình tham gia, đóng góp ý kiến xây dựng nhà nước.
2. Mặt hạn chế.
Ý thức, thái độ của nhiều người dân trong việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo còn nhiều bất cập.
Trong những người tham gia khiếu nại, tố cáo còn nhiều trường hợp vì thiếu hiểu biết hoặc cố chấp mà cố tình khiếu nại kéo dài, vượt cấp, tố cáo sai sự thật… thậm chí, một số phần tử quá khích coi thường pháp luật, ngang nhiên thách đố, xâm phạm trụ sở cơ quan công quyền, xúc phạm, đe dọa và hành hung những người thi hành công vụ.
Về phía nhà nước, cơ quan, công chức nhà nước còn thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Thậm chí còn có tình trạng cố tình bao che, dây dưa kéo dài trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo gây bất bình trong dư luận và làm giảm sút niền tin và tâm huyết của nhân dân đối với việc tham gia quản lý hành chính nhà nước.
Việc đóng góp ý kiến, đề xuất kiến nghị của nhân dân đối với cơ quan nhà nước trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật vẫn còn hạn chế. Trong nhiều năm qua, số lượng các kiến nghị, ý kiến từ phía nhân dân đối với cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương vẫn còn rất ít. Tâm lý chung của người dân nước ta vẫn còn ỷ lại, trông chờ, phó mặc những công việc chung cho nhà nước.
Hệ thống văn bản pháp luật về sự tham gia trực tiếp của nhân dân và quản lý nhà nước còn chưa hoàn thiện và thiếu đồng bộ, đặc biệt là các quy phạm pháp luật quy định về cách thức, trình tự, thủ tục để công dân thực hiện được các quyền và nghĩa vụ của mình đã được hiến pháp và luật quy định.
III- NGUYÊN NHÂN DẪN TỚI HẠN CHẾ TRONG VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC NHÂN DÂN LAO ĐỘNG THAM GIA ĐÔNG ĐẢO VÀO QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
Trước hết, là từ nhận thức của xã hội, của những người quản lý. Mặc dù hiện nay tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân đã được phổ biến trong xã hội, nhưng việc nhận thức đúng về tư tưởng này vẫn còn khoảng cách. Những người quản lý vẫn còn thiếu tin tưởng ở người dân, vẫn coi việc quản lý nhà nước là công việc riêng vốn có của Nhà nước mà không phải là nhiệm vụ của chính nhân dân trong việc quản lý xã hội.
Ngược lại, ý thức một bộ phận không nhỏ nhân dân vẫn là “Đèn nhà ai, nhà nấy sáng”, thờ ơ với các công việc xã hội, chưa thấy sự gắn kết giữa lợi ích của bản thân và gia đình mình với lợi ích của nhà nước và cộng đồng xã hội. Chính người dân cũng coi đó là nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, mà không phải là của mình. Vì lẽ đó, đã làm hạn chế sự tham gia rộng rãi của nhân dân vào hoạt động quản lý nhà nước.
Thứ hai, quy định pháp lý chưa đủ mạnh và rõ để các cơ quan nhà nước, nhất là các cơ quan đại biểu phải thực hiện các nhiệm vụ mà nhân dân ủy quyền và để nhân dân kiểm soát sự ủy quyền của mình, cũng như để nhân dân tham gia trực tiếp nhiều hơn vào các công việc của Nhà nước. Cơ chế đại biểu phải gắn với cử tri bầu ra mình, cơ chế bắt buộc phải tiếp nhận và phản ánh các ý kiến, nguyện vọng của cử tri, hoặc cơ chế công khai, minh bạch... vẫn còn chưa được quy định đủ rõ, đủ mạnh.
Thứ ba, ảnh hưởng của văn hóa hành chính cũ còn khá nặng. Đã có một thời gian dài ở Việt Nam, bộ máy nhà nước được xây dựng và hoạt động theo cơ chế tập trung, bao cấp. Các cơ quan nhà nước được xây dựng theo một mô hình thống nhất chung, đứng ra làm tất cả mọi việc cho nhân dân theo sự chỉ huy tập trung từ bên trên và đã mang lại nhiều kết quả cho người dân, vì thế nhân dân tin tưởng vào Nhà nước. Nhưng cũng từ thực tế đó, lâu dần đã hình thành nên tâm lý và văn hóa hành chính mà theo đó, các cơ quan, công chức coi việc xây dựng luật pháp, chính sách như là đặc quyền riêng của mình và vì thế các công việc của Nhà nước luôn khép kín, còn nhân dân ỷ lại, coi đó là công việc của Nhà nước, ít có quan tâm chung tới hoạt động của Nhà nước và các chính sách, nếu không có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích cá nhân.
Thứ tư, trình độ dân trí, nhất là trình độ về pháp luật, của người dân còn rất hạn chế. Hiện nay không chỉ kiến thức pháp luật của người dân còn thấp mà sự chấp hành, ý thức, tinh thần pháp luật của người dân không cao. Chính vì vậy, khi tham gia vào các công việc quản lý nhà nước, người dân rất lúng túng.
Thứ năm, việc tổ chức các hình thức, phương thức tham gia của người dân được các cơ quan nhà nước thực hiện cũng chưa thật sự khoa học. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật được tổ chức xin ý kiến của người dân chưa thật sự hướng vào các đối tượng bị điều chỉnh. Việc tiếp thu giải quyết các vấn đề mà nhân dân nêu ra chậm và luôn bị tránh, né làm giảm lòng tin và nhiệt tình của người dân.
Thứ sáu, trình độ sử dụng công nghệ thông tin để tham gia góp ý cho các văn bản pháp luật của nhân dân còn thấp. Sự phổ cập báo chí điện tử mới giới hạn ở các thành phố và một số đối tượng - thường đã là cán bộ, công chức nhà nước.
IV- VẤN ĐỀ NÂNG CAO PHÁP LUẬT ĐỂ ĐẢM BẢO NHÂN DÂN LAO ĐỘNG THAM GIA ĐÔNG ĐẢO VÀO QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
1. Về vấn đề pháp luật.
Cần có một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật một cách đầy đủ, hợp lý và thiết thực về sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý hành chính nhà nước.
Trước hết, cấn phải có đầy đủ, đồng bộ các văn bản quy phạm pháp luật quy định về các nội dung và hình thức tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý hành chính nhà nước. Các văn bản cần quy định một cách đầy đủ và cụ thể hóa một cách hợp lý về các quyền và nghĩa vụ, phạm vi, giới hạn và các hình thức tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý hành chính nhà nước. Ngoài ra, cũng cần phải có các văn bản quy phạm pháp luật quy định một cách rõ ràng, hợp lý về cách thức, trình tự, thủ tục và các điều kiện bảo đảm khác để nhân dân có thể thực hiện việc tham gia một cách trực tiếp vào quản lý hành chính nhà nước có hiệu quả trên thực tế. Nói cách khác, phải có một hệ thống pháp luật hoàn thiện cả về nội dung và hình thức, quy định sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý hành chính nhà nước.
2. Vấn đề thực hiện tổ chức có hiệu quả các quy định của pháp luật trong việc đảm bảo tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý hành chính nhà nước.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế, có cơ chế huy động người dân tham gia vào quá trình quản lý của Nhà nước. Cần sửa đổi cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân sao cho những người được bầu phải gắn bó với người dân, phản ánh được ý chí nguyện vọng của người dân, không còn đại diện chung chung, hình thức. Họ phải chịu sự giám sát của nhân dân, gắn trách nhiệm, lợi ích với sự tín nhiệm của nhân dân, khi không hoàn thành được vai trò đại diện quyền lợi và nguyện vọng của cử tri bầu cho thì họ phải bị bãi miễn. Nói một cách ngắn gọn, để sự tham gia quản lý nhà nước qua các cơ quan đại diện của dân có hiệu quả, cần chuyển các đại biểu được bầu của dân sang chế độ hoạt động chính trị chuyên nghiệp. Tách bạch, không để vai trò lập pháp, đại biểu nhân dân và vai trò hành chính do cùng một cá nhân thực hiện. Mở rộng hình thức quyết định trực tiếp - trưng cầu dân ý, để toàn dân có quyền tham gia vào các công việc trọng đại của đất nước, của địa phương.
Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước. Đổi mới cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động của các cơ quan nhà nước, mở rộng sự công khai, minh bạch, tạo cơ hội để người dân nắm được công việc của Nhà nước để tham gia một cách chủ động, thiết thực, hiệu quả. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và của công chức trong việc tiếp thu các ý kiến và nguyện vọng của nhân dân.
Để nâng cao hơn vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý hành chính nhà nước còn cần chứ trọn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nguyên tắc nhân dân lao động tham gia đông đảo vào quản lý hành chính nhà nước.doc