Tiểu luận Vận dụng nguyên tắc toàn diện của sự nhận thức khoa học để phân tích nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

MỤC LỤC

 LỜI MỞ ĐẦU

I. Một số vấn đề lí luận cơ bản về kinh tế thị trường.

 1. Khái niệm thị trường

 2. Các quá trình phát triển của kinh tế thị trường.

 2.1. Quá trình chuyển từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa giản đơn.

 2.2. Quá trình chuyển từ kinh tế hàng hóa giản đơn sang kinh tế thị trường.

 3. Những đặc trưng của kinh tế thị trường.

II. Nội dung cơ bản về quan điểm toàn diện của triết học Mác - LêNin

 1. Quan điểm siêu hình về môi quan hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng trong thế giới

 2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng trong thế giới .

 2.1. Cơ sở lý luận của quan điểm.

 2.2. Nội dung quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng.

 3. Ý nghĩa việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật hiện tượng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.

III. Quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay.

 1. Sự cần thiết khách quan phải phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

 2. Bản chất, đặc điểm của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

 3. Những thành tựu đã đạt và những yếu kém còn tồn tại.

 3.1. Thành tựu.

 3.2. Yếu kém.

4. Những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội ở Việt Nam.

 KẾT LUẬN

 

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1716 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vận dụng nguyên tắc toàn diện của sự nhận thức khoa học để phân tích nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. trong đó qui luật giá trị là quan trọng nhất. Kinh tế thị trường không hoàn toàn đối lập với kinh tế kế hoạch hoá ; lấy thị trường làm căn cứ quan trọng, kế hoạch có vai trò hướng dẫn nhất định. Trong kinh tế thị trường, quan hệ cung cầu phản ánh mối quan hệ giữa hai chủ thể mua bán. Trạng thái cân bằng cung cầu luôn biến đổi, tác đông, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nhân tố : qui mô, giá cả, điều kiện sản xuất, khả năng thanh toán của người mua... Đồng thời còn có quá trình tự điều tiết để tạo ra sự cân bằng giữa các yếu tố đó. Kinh tế thị trường tạo điều kiện phát huy mọi tiềm năng, nâng cao ý thức trách nhiệm cá nhân, thúc đẩy tính chủ động sáng tạo, nhanh nhạy nắm bắt thị trường, thường xuyên cải tiền phương pháp quản lí, áp dụng tiến bộ khoa học-kĩ thuật, làm cho nền kinh tế năng động hiệu quả. 2. Các quá trình phát triển của kinh tế thị trường. 2.1. Quá trình chuyển từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa giản đơn. Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa là hai hình thức tổ chức kinh tế-xã hội đã tồn tại trong lịch sử. Hai hình thức này được hình thành trên cơ sở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, trình độ phân công lao động xã hội, trình độ phát triển và phạm vi của quan hệ trao đổi. Trong nền kinh tế tự nhiên, người sản xuất cũng đồng thời là người tiêu dùng. Tự sản xuất tự tiêu dùng là đặc điểm nổi bật của kinh tế tự nhiên. Mục đích của sản xuất là tạo ra những giá trị sử dụng nhằm thõa mãn nhu cầu tiêu dùng của chính bản thân người sản xuất, vì thế có thể nói quá trình sản xuất của nền kinh tế tự nhiên chỉ có hai khâu : sản xuất –tiêu dùng. Các quan hệ trong nền kinh tế tự nhiên đều mang hình thái hiện vật. Do tính chất của sản xuất nhỏ nên kỹ thuật sản xuất lạc hậu, dựa trên lao động thủ công và kinh nghiệm cổ truyền, chậm được cải tiến nên năng suất lao động thấp, sản phẩm thặng dư ít, tái sản xuất giản đơn là chính. Bên cạnh đó việc sản xuất cũng chủ yếu hướng vào giá trị sử dụng, tỉ suất hàng hóa thấp, lưu thông hàng hóa chưa phát triển, thị trường nhỏ hẹp mang tính chất địa phương. Bước đi tất yếu của sản xuất tự cung tự cấp là tiến lên sản xuất hàng hóa giản đơn. Trong nền kinh tế hàng hóa, mục đích của sản xuất là trao đổi hay là để bán. Mục đích đó được xác định trước quá trình sản xuất và có tính khách quan. Sản xuất và toàn bộ quá trình tái sản xuất đều gắn với thị trường. 2.2. Quá trình chuyển từ kinh tế hàng hóa giản đơn sang kinh tế thị trường. Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường chỉ khác nhau về trình độ phát triển. Kinh tế thị trường chính là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hóa. Kinh tế hàng hóa phát triển, điều đó có nghĩa là phạm trù hàng hóa phạm trù tiền tệ và thị trường được phát triển và được mở rộng. Hàng hoá không chỉ bao gồm những sản phẩm đầu ra của sản xuất mà còn bao gồm cả các yếu tố đầu vào của sản xuất. Dung lượng thị trường và cơ cấu thị trường được mở rộng và hoàn thiện. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hoá. Khi đó người ta gọi kinh tế hàng hóa là kinh tế thị trường Trong nền kinh tế thị trường do sự phát triển cao của phân công lao động xã hội cho nên sản xuất được chuyên môn hóa ngày càng cao, thị trường ngày càng mở rộng. Điều đó tạo điều kiện phát huy lợi thế so sánh của mỗi vùng mỗi đơn vị sản xuất thúc đẩy việc cải tiến công cụ lao động nâng cao trình độ kĩ thuật , mở rộng phạm vi sản xuất thúc đẩy sản xuất phát triển . Những điều kiện để chuyển từ kinh tế hàng hóa giản đơn sang kinh tế thị trường là: Thứ nhất là sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động và thị trường sức lao động. Trước hết cần khẳng định sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động là một tiến bộ lịch sử. Người lao động được tự do, anh ta có quyền làm chủ khả năng của mình và chủ thể bình đẳng trong việc thương lượng với người khác. Chủ nghĩa tư bản đã thực được biến tiến bộ lịch sử đó trong khuôn khổ lợi dụng tính chất của hàng hóa sức lao động để phục vụ túi tiền của các nhà tư bản. Vì vậy đã làm nảy sinh mâu thuẫn giữa tư bản với lao động làm thuê. Trong điều kiện lịch sử mới – thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội – không phải mọi người có sức lao động đem bán đều là những người vô sản. Do sự chi phối lợi ích kinh tế và của chi phí cơ hội, những người lao động vẫn có thể bán sức lao động của mình cho người khác nếu như họ cảm thấy việc làm này có lợi hơn so với việc tổ chức quá trình sản xuất . Để hình thành kinh tế thị trường thì một điều quan trọng là phải tích lũy được một số tiền nhất định và số tiền đó phải trở thành vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích có lợi nhận. Và do tính chất quan trọng của thị trường trong nền kinh tế thị trường nên cần phải có hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng tương đối phát triển. Không thể có kinh tế thị trường nếu như hệ thống tài chính, ngân hàng còn quá yếu ớt, hệ thống tín dụng còn quá giản đơn không dáp ứng được nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh Bên cạnh đó phải không ngừng tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước. Đối với nước ta đây là điều kiện then chốt để hình thành kinh tế thị trường. Nhà nước đã tạo ra môi trường và hành lang cho thị trường phát triển lành mạnh. Đồng thời nhà nước sử dụng những biện pháp hành chính cần thiết để phát huy những ưu thế và hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường. Nhà nước thực hiện chính sách phân phối và điều tiết theo nguyên tắc kết hợp công bằng xã hội với hiệu quả kinh tế xã hội. Nhà nước còn thực hiện sự điều tiết nhằm xử lí hài hoà quan hệ giữa tăng trưỏng kinh tế và công bằng xã hội. 3. Những đặc trưng của kinh tế thị trường. Trên thế giới đã có nhiều quốc gia phát triển nền kinh tế của mình theo mô hình kinh tế thị trường. Chẳng hạn mô hình kinh tế thị trường – xã hội của cộng hoà Liên bang Đức, kinh tế thị trường của Thụy Điển, kinh tế thị trường mang màu sắc Trung Quốc v v ...Nếu gác lại những đặc điểm riêng cá biệt của những mô hình kể trên, chỉ tính đến những đặc điểm chung nhất, vốn có của kinh tế thị trường, có thể nêu những đặc trưng mang tính phổ biến như sau: Đặc trưng thứ nhất: cạnh tranh là động lực phát triển kinh tế, đồng thời làm phân hóa những nhà doanh nghiệp. Kinh tế thị trường gắn với sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Nếu không có sự cạnh tranh thì cũng không có nền kinh tế thị trường. Đặc trưng thứ hai: tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất và kinh doanh của mình. Các chủ thể kinh tế được tự do liên kết, liên doanh, tự do tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh theo luật định. Đây là đặc trưng rất quan trọng của kinh tế thị trường. Đặc trưng thứ ba : Trên thị trường hàng hóa rất phong phú. Người ta tự do mua, bán hàng hóa. Trong đó người mua chọn người bán người bán tìm người mua. Họ gặp nhau ở giá cả thị trường. Đặc trưng này phản ánh tính ưu việt hơn hẳn của kinh tế thị trường so với kinh tế tự nhiên Đặc trưng thứ tư : trong nền kinh tế thị trường thì giá cả được hình thành ngay trên thị trường. Giá cả thị trường vừa là biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hóa và dịch vụ. Trên cơ sở giá trị thị trường, giá cả là kết quả của sự thương lượng giữa người mua và người bán. Đặc trưng thứ năm: kinh tế thị trường lầ hệ thống kinh tế mở và mang tính chất quốc tế hóa. Do vậy các quan hệ kinh tế và đầu tư luôn luôn thực hiện theo nguyên tắc đa phương hóa và đa dạng hóa, các bên cùng có lợi. Điều này đã tạo điều kiện cho các nước dễ dàng tiếp thu công nghệ mới của nhau, cùng phát triển lực lượng sản xuất, đặc biệt là các ngành mũi nhọn của tiến bộ khoa học công nghệ tạo cơ hội cho những bước “đột biến” trong phát triển kinh tế. II. Nội dung cơ bản về quan điểm toàn diện của triết học mác - Lênin 1. Quan điểm siêu hình về môi quan hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng trong thế giới . Phương pháp siêu hình phổ biến rộng rãi trước hết trong khoa học tự nhiên và sau đó là trong triết học suốt thế kỷ XVII , XVIII. Khi nghiên cứu và bàn luận về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng trong thế giới, phương pháp siêu hình coi các sự vật hiện tượng trong thế giới tồn tại trong trạng thái biệt lập, tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia, hết cái này đến cái kia. Giữa chúng không có mối lien hệ ràng buộc, quy định và chuyển hoá lẫn nhau, nếu có, chỉ là những liên hệ có tính nhẫu nhiên, hời hợt bên ngoài . Như vậy, những quan niệm trên đây của phương pháp siêu hình đã phủ nhận hoàn toàn mối liên hệ phổ biến của các sự vật, đồng thời cũng dẫn đến những sai lầm về thế giới quan triết học, dựng lên những ranh giới giả tạo giữa các sự vật và hiện tượng, đối lập một cách siêu hình giữa các ngành nghiên cứu khoa học. Chính bởi sự hạn chế của trình độ khoa học tự nhiên ở phương pháp sưu tập tài liệu, nghiên cứu tách rời từng bộ phận riêng rẽ, phương pháp siêu hình không có khả năng phát hiện ra cái chung, cái bản chất và quy luật của sự vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. 2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng trong thế giới . 2.1. Cơ sở lý luận của quan điểm. Trong các học thuyết triết học duy vật trước Mác, vật chất được coi là vật thể, cơ sở đầu tiên bất biến của tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Chỉ có một thế giới duy nhất tồn tại là thế giới vật chất ,không thể có thế giới tinh thần ở ngoài hoặc bên cạnh thế giới thế giới vật chất. Vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình bằng vận động, hay nói cách khác vận động là phương thức tồn tại của vật chất, vật chất thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình . Là thuộc tính không tách rời của vật chất, nên không thể có vật chất nếu không có vận động và ngược lại. F.Ăng-Ghen trong "Biện chứng của tự nhiên" đã viết :"Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy". Giữa các sự vật để sự vận động thì sự vật phải tác động và ràng buộc lẫn nhau, tức là phải có liên hệ. Mọi mối liên hệ đều là sự tác động của các sự vật hiện thực của thế giới vật chất, các mối liên hệ đó được con người phản ánh dưới hình thức các khái niệm, phạm trù. Như vậy con người không thể sáng tạo ra các mối liên hệ mà nó là cái vốn có của thế giới vật chất, liên hệ là khách quan, nó không phải do thượng đế sinh ra hay ngẫu nhiên mà có, không phải là sự thể hiện của bất cứ một ý niệm tuyệt đối nào. Thế giới vật chất là muôn hình muôn vẻ tồn tại dưới nhiều dạng cụ thể khác nhau, nhưng không tách rời biệt lập mà liên hệ thống nhất với nhau. Tất cả các sự vật và hiện tượng tồn tại bằng cách tác động nhau, ràng buộc nhau, quy định và chuyển hoá lẫn nhau. F.Ăng-ghen đã viết : "Tất cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên cứu được là một hệ thống, một tập hợp gồm các vật thể khăng khít với nhau...Việc các vật thể ấy đều có liên hệ qua lại với nhau đã có nghĩa là các vật thể này tác động lẫn nhau và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động. 2.2. Nội dung quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng. Căn cứ vào thực tiễn đời sống xã hội và sự phát triển của khoa học ,triết học Mác - Lê Nin đã khẳng định : Bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Mọi sự vật, hiện tượng, bộ phận khác nhau của thế giới đều có sự liên hệ vật chất với nhau, nhưng không cái nào tồn tại riêng lẻ, biệt lập, mà hợp thành một chỉnh thể, một hệ thống thống nhất và tồn tại một cách khách quan, vĩnh hằng. Không có sự vật nào lại không có mối liên hệ với các sự vật và hiện tượng khác, ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì vẫn phải có sự tác động, liên hệ và ràng buộc lẫn nhau giữa các mặt và các yếu tố. Sự vật có vô vàn mối liên hệ. Mối liên hệ tồn tại trong cả thế giới vĩ mô và vi mô, cả trong thế giới vô cơ và hữu cơ, cả trong tự nhiên,xã hội và tư duy. Ví dụ, trong tự nhiên, giữa động vật và thực vật, giữa cơ thể sống và môi trường có mối quan hệ với nhau. Trong đời sống xã hội, giữa các cá nhân và tập đoàn người, giữa các quốc gia có quan hệ với nhau. Trong lĩnh vực nhận thức tư duy, giữa các hình thức của nhận thức, giữa các giai đoạn của nhận thức cũng có quan hệ với nhau... Mối quan hệ của các sự vật và hiện tượng trong thế giới là đa dạng và nhiều vẻ. Mỗi sự vật khác nhau có mối liên hệ khác nhau, mỗi một mối liên hệ lại có vị trí,vai trò khác nhau trong sự vận động của sự vật. Lại tiếp tục căn cứ vào vai trò, tính chất và phạm vi các mối liên hệ người ta lại chia thành các mối liên hệ sau: liên hệ không gian, liên hệ thời gian ; liên hệ trực tiếp, liên hệ gián tiếp ; liên hệ bên trong, liên hệ bên ngoài; liên hệ chủ yếu, liên hệ thứ yếu ; liên hệ cơ bản, liên hệ không cơ bản ; liên hệ chung nhất và liên hệ đặc thù ... Mặc dù sự phân loại các liên hệ này chỉ có ý nghĩa tương đối, song sự phân loại các mối liên hệ lại rất cần thiết, vì rằng vị trí của từng mối liên hệ trong việc quy định sự vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng không hoàn toàn như nhau. Những hình thức riêng biệt, cụ thể của từng mối liên hệ là đối tượng nghiên cứu của từng ngành khoa học cụ thể. Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất, phổ biến nhất của thế giới, tác động trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Các nhà khoa học cụ thể khác nhau nghiên cứu các mối liên hệ đặc thù.Vì thế ,F.Ăng-ghen viết :"Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến ." 3. ý nghĩa việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật hiện tượng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Như ta đã biết, các sự vật và hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến và nhiều vẻ, bởi vậy muốn nhận thức và tác động vào chúng, chúng ta phải có quan điểm toàn diện, khắc phục quan điểm phiến diện một chiều. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi phân tích sự vật phải đặt nó trong mối quan hệ với sự vật và hiện tượng khác, phải xem xét tất cả các mặt, các mắt trung gian , gián tiếp, các yếu tố cấu thành nên sự vật, đồng thời cũng phải xác định được vai trò của các mối liên hệ trong hệ thống các mối liên hệ của sự vật Trong hoạt động thực tiễn, quan điểm toàn diện giúp chúng ta tránh những sai lầm và sự cứng nhắc, chống lại quan điểm siêu hình coi sự vật là cái gì riêng lẻ, biệt lập. Tuy nhiên, quan điểm toàn diện không có nghĩa là các xem xét cào bằng, tràn lan, mà phải thấy được vị trí của từng mối liên hệ, từng mặt, từng yếu tố trong tổng thể của chúng. Có như thế chúng ta mới thực sự nắm được bản chất của sự vật. Vì vậy, quan điểm toàn diện, bản thân nó đã bao hàm quan điểm lịch sử, cụ thể. III. Quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay. 1. Sự cần thiết khách quan phải phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sự tồn tại của kinh tế hàng hóa là một tất yếu khách quan. Bởi vì trong nền kinh tế nước ta lực lượng sản xuất xã hội còn rất thấp, đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau, sự phân công lao động xã hội gắn với sự tồn tại nhiều chủ sở hữu khác nhau như các chủ thể kinh tế độc lập. Trong điều kiện đó, việc trao đổi sản phẩm giữa các chủ thể kinh tế với nhau không thể thực hiện theo nguyên tắc nào khác là nguyên tắc trao đổi ngang giá, tức là thực hiện sự trao đổi hàng hóa thông qua thị trường, sản phẩm phải trở thành hàng hóa ở nước ta, trong thời kì quá độ muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất thì phải xã hội hóa và chuyên môn hóa lao động. Quá trình ấy chỉ có thể diễn ra một cách thuận lợi trong một nền kinh tế hàng hóa. Sản xuất càng xã hội hóa, chuyên môn hóa thì càng đòi hỏi phát triển sự hiệp tác và trao đổi hoạt động trong xã hội, càng phải thông qua sự trao đổi hàng hóa giữa các đơn vị để đảm bảo những nhu cầu thiết yếu của các loại hoạt động sản xuất khác nhau. Phát triển sản xuất hàng hóa có thể đào tạo ngày càng nhiều cán bộ quản lí có trình độ cao, vì để thu được nhiều lợi nhuận họ cần phải vận dụng nhiều biện pháp để quản lí kinh tế, thúc đẩy tiến bộ kĩ thuật, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh tế. Qua cuộc cạnh tranh trên thị trường, những nhân tài quản lí kinh tế và lao động thành thạo xuất hiện ngày càng nhiều và đó là một dấu hiệu quan trọng của tiến bộ kinh tế. Thực tiễn những năm đổi mới chỉ ra rằng, việc chuyển sang mô hình kinh tế hàng hóa là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất trong xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, góp phần quyết định bảo đảm nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm trong là 7-7,5%. 2. Bản chất, đặc điểm của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung- hành chính- quan liêu – bao cấp sang phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế nước ta trong hiện tại và tương lai. Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta sẽ xây dựng sẽ là nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội hiện đại (xã hội xã hội chủ nghĩa). Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi chúng ta chuyển sang kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường, thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại (do những khiếm khuyết của kinh tế thị trường tự do). Bởi vậy chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua quá độ kinh tế hàng hóa giản đơn và giai đoạn kinh tế thị trường tự do mà đi thẳng vào giai đoạn phát triển kinh tế hiện đại . Đây là nội dung và yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Thứ hai, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong một số lĩnh vực, một số khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nền kinh tế hàng hóa, nền kinh tế thị trường phải là một nền kinh tế đa thành phần. Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần đó là do nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường ở nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế thoát khỏi tình trạng thấp kém, đưa nền kinh tế phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp. Thứ ba, do tính chất toàn cầu hóa hiện nay nên nền kinh tế nước ta đang thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. Quá trình của phát triển kinh tế thị trường đi liền với xã hội hóa nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hóa trên cơ sở của phát triển kinh tế thị trường là không có biên giới quốc gia về phương diện kinh tế. Thứ tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời với việc đảm bảo công bằng xã hội cũng là một nội dung rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Phát triển công bằng và phát triển bền vững là thuật ngữ phổ biến và là xu thế thời đại hiện nạy. Phát triển trong công bằng được hiểu là những chính sách phát triển đảm bảo sự công bằng xã hội, là tạo cho mọi tầng lớp nhân dân đều có cơ hội tham gia vào quá trình phát triển và được hưởng những thành quả tương xứng với sức lực, khả năng và trí tuệ của họ bỏ ra, là giảm khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư và các vùng. 3. Những thành tựu đã đạt và những yếu kém còn tồn tại. Thành tựu. Bức tranh chung của nền kinh tế Việt Nam 10 năm (1976- 1985) trước đổi mới là tăng trưởng thấp (3,7%) một năm làm không đủ ăn và dựa vào viện trợ nước ngoài ngày càng lớn. Thu nhập quốc dân trong nước sản xuất chỉ đáp ứng được 80-90% thu nhập quốc dân sử dụng. Điều đáng lưu ý là tuy nợ nần chồng chất nhưng bội chi ngân sách vẫn lớn và tăng dần. Vậy mà sau năm 1986, với đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, các cơn sốt do hậu quả của cơ chế tập trung quan kiêu bao cấp bị xoá bỏ dần kéo theo sự ra đi của khủng hoảng và suy thoái kinh tế . Trong 5 năm 1986- 1990 nền kinh tế đã từng bước khôi phục và phát triển GDP tăng 3,9%. Kế hoạch 5 năm 1991-1995 kinh tế ra khỏi khủng hoảng và tăng trưởng ổn định : GDP tăng 8,2%. Trong điều kiện các nước ASEAN đang rơi vào cuộc khủng hoảng tiền tệ và suy thoái kinh tế trầm trọng, tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại và giảm sút, thì kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng với tốc độ khá, là một thành tựu lớn, đánh dấu sự phát triển ổn định và bền vững. Trước đổi mới, kinh tế Việt Nam chủ yếu là nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ chiếm tỉ trọng chưa đến 50%GDP. Sau đổi mới với chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hóa và đa phương hóa nền kinh tế các hoạt động công nghiệp, xây dựng và nhất là hoạt động thương mại, dịch vụ phát triển nhanh hơn nông nghiệp, góp phần quan trọng chuyển dịch nền kinh tế quốc dân theo hướng tiến bộ. Bên cạnh kinh tế quốc doanh thành phần chủ đạo, kinh tế ngoài quốc doanh khởi sắc và chiếm tỉ trọng lớn trong GDP, làm cho nền kinh tế thâm sống động. Quan hệ sản xuất cũng được điều chỉnh phù hợp hơn với yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng. Những thành tựu này đã một lần nữa khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới kinh tế Việt Nam, bắt đầu từ năm 1986. Yếu kém. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được rất to lớn nói trên, hiện nay nước ta cũng đang tồn rất nhiều khó khăn và thách thức lớn. Đất nước ta hiện đang còn nghèo và kém phát triển. Chúng ta lại chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư và phát triển.Cơ sở hạ tầng còn yếu kém, chưa đáp ứng được các yêu cầu phát triển kinh tế hiện tại chưa nói đến tương lai. Thách thức này thể hiện rõ nhất ở hệ thống giao thông, sân bay, bến cảng, thông tin liên lạc, điện. Trong số đường bộ gần 200 nghìn km chỉ có 8,5% đường rải nhựa. Đường sắt có 3259,5km nhưng 80% là đường khổ hẹp, chất lượng thấp. Cảng biển, sân bay vừa thiếu về số lượng vừa kém về chất lượng. Các dịch vụ về bưu điện đã tăng tốc những năm qua, nhưng kết quả đạt được vẫn còn rất khiêm tốn. Trong khi nhu cầu vốn đầu tư phát triển rất lớn và cấp bách, một số cơ quan Nhà nước, Đảng, đoàn thể, tổ chức kinh tế, một số bộ phận cán bộ và nhân dânlại tiêu xài lãng phí, qua mức mình làm ra, chưa tiết kiệm để dồn vốn cho đầu tư phát triển. Quá trình đổi mới và hoàn thiện quan hệ sản xuất còn diễn ra chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất trong các ngành sản xuất và các hoạt động dịch vụ. Trong các doanh nghiệp Nhà nước, quá trình cổ phần hóa diễn ra rất chậm so với yêu cầu. Nhiều doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, thậm chí thua lỗ kéo dài nhưng chưa được sắp xếp lại. Các cơ chế chính sách chưa đủ tầm khuyến khích mạnh mẽ thành phần kinh tế này phát triển mạnh mẽ. Mặt khác, để phát triển và tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, ổn định và bềm vững cùng với vốn cần phải có khoa học và kỹ thuật mới áp dụng vào các ngành sản xuất và dịch vụ. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, công nghiệp hóa và hiện đại hóa từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và lao động thủ công, kỹ thuật lạc hậu thì yêu cầu vận dụng những tiến bộ và công nghệ tiên tiến của thế giới càng trở nên cấp bách và là điều kiện tiên quyết để phát triển sản xuất cả về bề rộng và chiều sâu. Điều đáng tiếc là yêu cầu này trong những năm vừa qua chưa được đáp ứng đầy đủ. Ngoài ra, công tác quản lí của Nhà nước về kinh tế, xã hội còn yếu, hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm. Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả kế hoạch hóa, quản lí đất đai... còn nhiều hạn chế. Quản lí xuất nhập khẩu có nhiều sơ hở tiêu cực, một số trường hợp gây tác động xấu đối với sản xuất. Quản lí Nhà nước đối với các hoạt động khoa học và công nghệ, bảo vệ tài nguyên và môi trường, sinh thái, giáo dục đào tạo, thông tin..chưa tốt. Năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lí, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể chính trị, xã hội chưa nâng lên với đòi hỏi của tình hình. Công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, trẻ hóa cán bộ còn lúng túng chậm trễ. Năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ. 4. Những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Để phát huy những thành tựu đã đạt và khai thác có hiệu quả lợi thế, tiềm năng và cơ hội mới, khắc phục và hạn chế những khó khăn, mâu thuẫn và yếu kém đưa đất nước bước vào thời kì công nghiệp hóa và hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong những năm tới cần phải tập trung vào những giải pháp có tính chiến lược sau: Thứ nhất, thực hiện

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35635.doc
Tài liệu liên quan