Tiểu luận Vận dụng nguyên tắc toàn diện và thực tiễn của phương pháp luận nhận thức khoa học để phân tích vấn đề việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

PHẦN NỘI DUNG 2

Phần thứ nhất: Cơ sở lý luận của những nguyên tắc cơ bản của phương pháp luận nhận thức khoa học 2

I. Nguyên tắc (quan điểm) toàn diện của sự nhận thức khoa học 2

1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc (quan điểm) toàn diện 2

2. ý nghĩa của phương pháp luận 3

II. Nguyên tắc (quan điểm) thực tiễn của sự nhận thức khoa học 4

1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc (quan điểm) thực tiễn 4

2. Yêu cầu của nguyên tắc (quan điểm) thực tiễn 6

Phần thứ hai: Vận dụng nguyên tắc (quan điểm) toàn diện và phát triển để phân tích vấn đề việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp 7

I. Thực trạng việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp 7

II. Nguyên nhân của thực trạng việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp 8

1. Về phía đào tạo 8

2. Từ phía sinh viên 10

3. Về phía doanh nghiệp 10

4. Về phía chính sách của Nhà nước 11

5. Về phía nền kinh tế xã hội 12

III. Giải pháp đối với vấn đề việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp 12

1. Đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo 12

2. Tạo mối liên kết chặt chẽ hơn nữa giữa nhà trường - doanh nghiệp - sinh viên 13

3. Tăng cường hơn nữa mối quan hệ giữa Nhà nước - doanh nghiệp - nhà trường 14

4. Giải pháp từ phía sinh viên 14

5. Chính sách hợp lý của Nhà nước 15

KẾT LUẬN 17

TÀI LIỆU THAM KHẢO 18

 

doc19 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 20465 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vận dụng nguyên tắc toàn diện và thực tiễn của phương pháp luận nhận thức khoa học để phân tích vấn đề việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhau, đa dạng đến đâu thì cũng chỉ là những hình thức tồn tại cụ thể của vật chất, đều chịu sự chi phối của những qui luật của thế giới vật chất. Ngay cả ý thức tinh thần cũng chỉ là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người do đó cũng chịu sự chi phối của qui luật vật chất. Phép biện chứng duy vật chỉ ra rằng mối liên hệ có các tính chất sau: - Tính chất khách quan nghĩa là mối liên hệ không phụ thuộc và ý muốn chủ quan của con người mà chỉ phụ thuộc và bản thân sự vật, hiện tượng. - Tính chất phổ biến chỉ ra rằng mối liên hệ tồn tại trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy, tồn tại ở mọi nơi mọi lúc, mối liên hệ diễn ra ở trong bản thân mỗi sự vật, hiện tượng tức là có liên hệ giữa các mặt, các yếu tố cấu thành sự vật; có liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng với nhau; có liên hệ giữa hiện tại với quá khứ; giữa hiện tại với tương lai; có liên hệ về mặt không gian thời gian. Mối liên hệ còn mang tính đa dạng, phong phú, có liên hệ cơ bản và không cơ bản, bên trong và bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp, nguyên nhân và kết quả, bản chất và hiện tượng, nội dung và hình thức 2. ý nghĩa của phương pháp luận Vì sự vật, hiện tượng nằm trong mối liên hệ phổ biến cho nên muốn nhận thức sự vật đúng như bản thân nó có thì chủ thể nhận thức phải có quan điểm toàn diện trong hoạt động nhận thức của hoạt động thực tiễn Khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật, hiện tượng đó. Khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong mối quan hệ qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, hiện tượng khác. Khi nghiên cứu sự vật hiện phải đặt nó trong mối liên hệ có tính đa dạng, phong phú, nhiều vẻ tức là phải chỉ ra cả liên hệ trực tiếp và gián tiếp, bên trong và bên ngoài, cơ bản và không cơ bản, nguyên nhân và kết quả, nội dung và hình thức. Khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng đòi hỏi xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người, ứng với mỗi người, mỗi thời đại, trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nhất định. Mối liên hệ của sự vật, hiện tượng rất đa dạng, phong phú nhiều vẻ cho nên trong thực tế không ai có thể nhận thức được tất cả các mối liên hệ của sự vật. Trong trường hợp đó ta phải nhận thức được các mối liên hệ bản chất, mối liên cơ bản, liên hệ tất nhiên, liên hệ bên trong, liên hệ trực tiếp, liên hệ chủ yếu như thế tư duy của chúng ta sẽ bớt tính phiến diện đồng thời không phạm phải sai lầm dàn trải, liệt kê. Quan điểm toàn diện đòi hỏi phải chống lại quan điểm phiến diện, siêu hình, dàn trải liệt kê khi xem xét sự vật, hiện tượng. II. Nguyên tắc (quan điểm) thực tiễn của sự nhận thức khoa học 1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc (quan điểm) thực tiễn Là nguyên lý của phép biện chứng duy vật về bản chất của nhận thức và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. a. Quan điểm về bản chất của nhận thức Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người trên cơ sở thực tiễn, không có hoạt động thực tiễn thì không có bất kì sự nhận thức nào. Thừa nhận khả năng nhận thức của con người về thế giới, không có cái gì con người không thể nhận thức được, chỉ có những cái con người chưa nhận thức được mà thôi nhưng cùng với sự phát triển của khoa học và thực tiễn con người sẽ nhận thức được. Nhận thức là một quá trình biện chứng có vận động, biến đổi, phát triển đi từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ chưa đầy đủ đến đầy đủ hơn, từ bản chất cấp 1 đến bản chất cấp 2Nhận thức phải dựa trên cơ sở thực tiễn, lấy thực tiễn làm mục đích của nhận thức, làm cơ sở của nhận thức, làm tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. b. Thực tiễn là gì và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất cảm tính có mục đích mang tính lịch sử xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Hoạt động thực tiễn có 3 đặc trưng sau: Thực tiễn là hoạt động vật chất cảm tính có nghĩa là những hoạt động mà con người phải dùng công cụ vật chất tác động vào các đối tượng vật chất để biến đổi chúng. Hoạt động thực tiễn có tính lịch sử xã hội có nghĩa là hoạt động đó của con người diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông đảo người và trải qua những giai đoạn lịch sử cụ thể nhất định. Thực tiễn là hoạt động có mục đích nhằm trực tiếp cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ cho con người. Thực tiễn có ba hình thức cơ bản đó là: - Hoạt động sản xuất vật chất đó là hoạt động thực tiễn cơ bản nhất, có vai trò quyết định các hình thức thực tiễn khác đồng thời quyết định sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người. - Hoạt động cải tạo xã hội như cải tạo các quan hệ xã hội, đấu tranh giai cấp, đấu tranh cho hoà bình xã hội, tiến bộ dân chủ - Hoạt động thực nghiệm khoa học là hình thức đặc biệt của thực tiễn, nó được tiến hành trong điều kiện con người chủ định tạo ra để nhận thức, để cải biến tự nhiên và xã hội phục vụ con người. Hình thức này ngày càng có vai trò quan trọng trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức: - Thực tiễn là cơ sở của nhận thức vì nó cung cấp vật liệu cho nhận thức, không có thực tiễn thì không thể có nhận thức nào cả. - Thực tiễn là động lực của nhận thức vì nó đặt ra nhu cầu nhiệm vụ đòi hỏi nhận thức phải trả lời qua đó thúc đẩy nhận thức phát triển. - Thực tiễn là mục đích của nhận thức, những tri thức, những kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng vào thực tiễn phục vụ cho con người. - Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, là thước đo của nhận thức. Muốn biết một nhận thức, một đường lối, một học thuyết nào đó đúng hay sai thì phải đưa vào thực tiễn bởi vì chỉ có thực tiễn mới có khả năng vật chất hoá được tri thức, hiện thực hoá được tư tưởng, thông qua quá trình đó mà con người khẳng định chân lý và bác bỏ sai lầm. Thực tiễn vừa có tính tuyệt đối và tương đối. Tính tuyệt đối của tiêu chuẩn chân lý thể hiện ở chỗ nó là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để khẳng định chân lý và bác bỏ sai lầm. Tính tương đối của tiêu chuẩn chân lý thể hiện ở chỗ bản thân thực tiễn luôn vận động, biến đổi và phát triển. Khi thực tiễn thay đổi thì nhận thức cũng phải thay đổi theo cho phù hợp. 2. Yêu cầu của nguyên tắc (quan điểm) thực tiễn Nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn của con người, phải xuất phát từ thực tiễn. Nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, phải chú trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung hoàn chỉnh phát triển lý luận, phát triển nhận thức. Phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của lý luận, của nhận thức. Tránh tuyệt đối hoá thực tiễn, coi thường lý luận vì khi ấy sẽ rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm, bệnh kinh nghiệm. Tránh tuyệt đối hoá lý luận, coi thường thực tiễn vì khi ấy sẽ rơi vào lý luận giáo điều. Phần thứ hai Vận dụng nguyên tắc (quan điểm) toàn diện và phát triển để phân tích vấn đề việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp I. Thực trạng việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập kinh tế trong khu vực và trên thế giới đã tạo ra những bước phát triển đáng kể ở Việt Nam trong những năm gần đây. Kinh tế tăng trưởng khá, đời sống nhân dân được cải thiện, cơ hội phát triển nghề nghiệp mở ra đối với mọi tầng lớp trong xã hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy một số lượng lớn sinh viên ở các ngành đào tạo sau khi tốt nghiệp không có việc làm và làm trái ngành trái nghề. Theo khảo sát của Dự án giáo dục đại học năm 2008: “ chỉ có khoảng 60% số sinh viên sau khi ra trường làm việc đúng với chuyên ngành đào tạo và đáp ứng nhu cầu của nhà tuyển dụng; 30% tìm được công việc ít sử dụng chuyên môn được đào tạo, số còn lại làm việc không liên quan đến ngành được đào tạo”. Ví dụ điển hình đó là sinh viên tốt nghiệp ngành công nghệ thông tin, một trong những ngành mũi nhọn có tỉ lệ thất nghiệp là 12.32%. Theo nhận định của giảng viên trường ĐH Mở TPHCM, nổi bật gần đây là ngành xã hội học, chỉ khoảng 10% - 15% sinh viên tốt nghiệp ngành xã hội học làm đúng nghề. Phần lớn làm những ngành không có liên quan gì đến ngành học. Đây chắc không chỉ là tình trạng riêng của ngành xã hội học mà là tình trạng chung của đa số các ngành khoa học xã hội nhân văn hiện nay. Theo thống kê của chương trình việc làm Báo Người lao động, bình quân cứ 100 lao động đại học đến đăng kí tìm việc thì có khoảng 80% trong số này không tìm được việc làm trong 3 tháng đầu sau khi ra trường; 50% thất nghiệp trong thời gian 6 tháng và sau một năm giảm xuống còn 30%. Theo kết quả điều tra mới đây của Trường ĐH Kinh tế TPHCM, chỉ khoảng 40% sinh viên của trường tìm được việc làm trong thời gian 6 tháng đầu sau khi tốt nghiệp và sau một năm tăng lên khoảng hơn 70%. Cũng theo một số điều tra cho thấy, trong vòng 3 năm kể từ khi tốt nghiệp ra trường trên 20% cử nhân vẫn thất nghiệp hoặc chưa có việc làm ổn định. Bên cạnh những sinh viên đáp ứng đầy đủ những yêu cầu mà nhà tuyển dụng đòi hỏi hoặc có người thân xin việc hộ thì có mội đội ngũ đông đảo những sinh viên chấp nhận làm những công việc như nhân viên tiếp thị, người bán hàng thuê trong các ki ốt, các cửa hàng, gia sư, đi dạy thêm ở các trung tâm, hướng dẫn du lịch để có thu nhập. Họ luôn có trong tay đến chục bộ hồ sơ hàng ngày đến các trung tâm giới thiệu việc làm. Đối với những cử nhân, những chủ tương lai của đất nước này, kiếm được việc làm ổn định, đúng ngành nghề đào tạo là một hy vọng. Tuy nhiên, đối với các nhà tuyển dụng, họ vẫn cho rằng cung không đủ cầu, thiếu lao động mà theo họ là thiếu những người có kinh nghiệm và khả năng làm việc độc lập cũng như một số yêu cầu khác. Từ thực trạng trên, chúng ta phải suy nghĩ, nhận thức nguyên nhân của vấn đề này là do đâu? II. Nguyên nhân của thực trạng việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp Để hiểu rõ hơn về tình hình thực tế của vấn đề, ta cần xem xét nguyên nhân thực tiễn xuất phát từ nhiều phía. 1. Về phía đào tạo Thực trạng sinh viên ra trường không có việc làm hoặc làm trái ngành trái nghề, công việc không ổn định xuất phát từ thực tế đào tạo của các trường đại học, cao đẳng. Chất lượng đào tạo của các trường đại học, cao đẳng xa rời thực tế, cũ kĩ, lạc hậu không theo kịp sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, do đó chưa đáp ứng tốt yêu cầu chuẩn bị nhân lực cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Cho đến nay, khi thị trường lao động ngày càng thay đổi mạnh, đòi hỏi người lao động có những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm thực tiễn đáp ứng nhanh yêu cầu thực tế công việc thì chương trình học tại các trường đại học, cao đẳng vẫn cơ bản theo lối mòn cũ: nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành. Một số trường đã có những thay đổi nội dung đào tạo sát với thực tế hơn nhưng do thiếu điều kiện, phương tiện để sinh viên thực hành, thiếu sự liên kết trong đào tạo giữa nhà trường và cơ sở sản xuất, kinh doanh, việc thực tập của sinh viên bị buông lỏng quản lý, đôi khi chỉ mang tính hình thức bắt buộc nên khoảng cách học và hành vẫn còn xa vời. Khi ra trường, khối lượng kiến thức sinh viên có được chủ yếu trên sách vở khác xa với thực tế công việc. Do đó, sinh viên có nhiều bỡ ngỡ, lúng túng và thời gian để thích ứng với công việc tương đối dài. Trong khi đó, hầu hết các cơ quan, doanh nghiệp đều muốn tuyển dụng những người có khả năng làm việc tức thì, thậm chí phải có vài năm kinh nghiệm. Chương trình và nội dung đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng không những nặng về lý thuyết mà còn lạc hậu, chậm đổi mới, không bắt kịp được với sự phát triển với tốc độ cao của xã hội. Nội dung đào tạo hiện nay không khác mấy so với nội dung, chương của mấy chục năm trước. Điểm khác biệt căn bản chỉ ở chỗ đã có bổ sung, điều chỉnh chút ít chứ chưa phải là chương trình được xây dựng để thích hợp với những đòi hỏi của tình hình phát triển hiện nay. Do vậy, nó không cho phép vận dụng những phương pháp dạy học mới, mà chủ yếu còn mang tính áp đặt, chưa theo kịp sự phát triển khoa học công nghệ hiện đại; chưa tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc tự học, tự nghiên cứu, phát huy khả năng sáng tạo của sinh viên. Các trường hiện nay chủ yếu đào tạo theo những gì mình có chứ chưa đào tạo theo nhu cầu xã hội. Cơ cấu đào tạo ngành nghề mất cân đối, chưa bám sát nhu cầu thực tế. Khi đất nước thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa, khoảng 50% số sinh viên được hướng vào ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, báo chí, luật. Kết quả hàng vạn cử nhân quản trị kinh doanh ra trường thất nghiệp và làm những việc không dính dáng đến chuyên môn. Khi Nhà nước đặt mục tiêu phát triển công nghệ thông tin, các trường ồ ạt đào tạo kỹ sư làm phần mềm không cần biết nhu cầu xã hội đang cần kỹ sư xây dựng, chuyên gia tài chính giỏi về tin học hơn là những người biết về máy tính đơn thuần. Và hiện nay ưu tiên số 1 được chuyển qua các ngành thị trường chứng khoán, tài chính ngân hàng. Các trường không có một sách lược nhất quán từ nhiều năm trước đã tức thời mở ngay những chuyên ngành đào tạo này dù giảng viên vừa thiếu lại vừa yếu. Theo nhận định của các chuyên gia, trong vòng 3 năm tới các công ty chứng khoán, ngân hàng sẽ đủ nhân lực, nhu cầu sẽ chững lại. Bây giờ có thể là “sốt” nhưng sau đó rất có thể xuất hiện tình trạng “thừa ảo” nhân lực. Trong khi đó, theo thống kê của Bộ GD-ĐT, đóng tàu, nông lâm thuỷ sản, bảo hiểm cơ khí, du lịch là những ngành nghề còn “khát” nhân lực nhưng lại rất khó chiêu sinh. 2. Từ phía sinh viên Về phía sinh viên, phần lớn họ còn thiếu ý thức về việc cập nhật kỹ năng thực hành và trau dồi trình độ ngoại ngữ. Sinh viên chủ yếu chú trọng đến bằng tốt nghiệp, kết quả học tập các môn lý thuyết trong nhà trường mà ít quan tâm đến các yếu tố thực hành, kĩ năng nghề nghiệp và các kỹ năng khác như khả năng giao tiếp, thảo luận, thuyết trình trước đám đông; ít chú trọng đến việc học ngoại ngữ trong khi đây là một yêu cầu rất quan trọng khi đi xin việc trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, nhiều sinh viên ra trường có bằng khá, giỏi, thậm chí hai, ba bằng vẫn thất nghiệp. Việc định hướng nghề nghiệp trước khi thi đại học còn yếu kém. Số lượng lớn sinh viên khi làm hồ sơ thi đại học, tiêu chí chọn trường chủ yếu là tỉ lệ chọi, điểm chuẩn chứ không phải là định hướng nghề nghiệp. Trong quá trình học, nhiều sinh viên cũng không định hướng được công việc, nghề nghiệp trong tương lai của mình như thế nào mà có suy nghĩ cố học cho xong để có tấm bằng đại học. Chính vì vậy, khi ra trường, phần lớn những sinh viên này đều có tâm trạng lúng túng, không biết bắt đầu từ đâu. Bên cạnh đó cũng có một thực trạng là sinh viên ra trường đều muốn bám trụ lại thành phố để tìm việc mặc dù công việc không phù hợp chuyên ngành đào tạo. Do vậy, ở các thành phố lớn, dư thừa lực lượng lao động, trong khi đó ở các tỉnh, vùng nông thôn thiếu rất nhiều lao động có chất lượng cao. 3. Về phía doanh nghiệp Trong quá trình hội nhập và phát triển, các doanh nghiệp đòi hỏi đối tượng tuyển dụng với những yêu cầu ngày càng cao để có thể lựa chọn được người có đủ tài đủ sức cống hiến cho sự phát triển của doanh nghiệp. Trong khi những sinh viên ra trường muốn đi làm nhưng không có hoặc chưa đủ kinh nghiệm, kĩ năng và bằng cấp để có thể đáp ứng đầy đủ các yếu tố đưa ra của nhà tuyển dụng. Nhiều doanh nghiệp đòi hỏi sinh viên bắt kịp được công việc ngay mà không đưa ra các chương trình đào tạo lại hay thời gian học việc phù hợp. Vì vậy, tình trạng sinh viên sau khi tốt nghiệp khó xin được việc hay làm việc trái ngành là điều không thể tránh khỏi. Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa nhà trường và doanh nghiệp với sinh viên trong việc đào tạo, cung ứng nguồn nhân lực có chất lượng còn lỏng lẻo, nhiều khoảng cách, chưa trở thành một giải pháp chiến lược. Thông tin thực tế về nhu cầu từng loại nghề nghiệp và trình độ, những kĩ năng cần thiết phục vụ cho công việc từ phía các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, chưa được phổ biến rộng rãi. 4. Về phía chính sách của Nhà nước Trong những năm gần đây, Nhà nước có rất nhiều quan tâm đến giáo dục đại học cùng với những khuyến khích để sử dụng sinh viên sau khi tốt nghiệp. Nhưng về cơ bản thì Nhà nước vẫn chưa có chính sách hợp lí để khuyến khích cũng như tạo điều kiện cho sinh viên sau khi ra trường có việc làm, yên tâm công tác và phát huy hết khả năng. Cơ hội việc làm cho sinh viên ra trường trong khu vực Nhà nước là rất ít. Các cơ quan Nhà nước tuyển người quá khó, quá chặt chẽ nhưng người được chọn lại không làm được việc ngay. Trong khi cách tuyển dụng của các công ty nước ngoài nhanh, đơn giản và hiệu quả hơn. Có thể nói tiêu chí thực hiện tốt công việc bị xem nhẹ ở một số cơ quan Nhà nước, tiêu chí ngoại vi thành yếu tố quyết định do đó nguồn nhân lực bị giới hạn bởi lý lịch và các loại văn bằng. Ngoài ra, chính sách đối với những người về công tác tại những vùng nông thôn, những vùng sâu, vùng xa, hải đảo chưa hợp lí lắm nên không thu hút được sinh viên sau khi ra trường tự nguyện về đây công tác. Vì vậy, Nhà nước cần có chính sách thoả đáng hơn nữa cả về mặt vật chất cũng như tinh thần để sinh viên sau khi ra trường có cơ hội việc làm tốt hơn, sẵn sàng công tác ở bất cứ nơi đâu để góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. 5. Về phía nền kinh tế xã hội Trong thời kỳ bao cấp, hiện tượng sinh viên ra trường thất nghiệp ít có. Số lượng sinh viên và các trường đại học không nhiều, sinh viên sau khi tốt nghiệp thường được Nhà nước phân công công tác. Từ khi Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa, chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự tìm cho mình chỗ đứng trên thị trường do vậy các đòi hỏi về tuyển dụng lao động chặt chẽ hơn rất nhiều để có thể đáp ứng được yêu cầu công việc, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Số lượng sinh viên tốt nghiệp hàng năm và số lượng các trường đại học tăng lên đáng kể. Các sinh viên ra trường phải tự tìm việc cho mình, sự cạnh tranh trên thị trường lao động ngày càng gay gắt. Trong xã hội vẫn có hiện tượng cung không đáp ứng được cầu do sinh viên ra trường không đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng, “thừa thầy thiếu thợ” do sự mất cân đối trong cơ cấu đào tạo, xã hội trọng bằng cấp nên gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực và khiến cho nhiều sinh viên ra trường với tấm bằng không đẹp hoặc số lượng bằng, chứng chỉ ít khó tìm được việc làm. Do vậy, nền kinh tế thị trường một mặt tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, thúc đẩy con người vươn lên nhưng mặt khác cũng có những tác động đến xã hội, gây ra sự thừa thiếu “giả” về lực lượng lao động, mất cân đối về nguồn lao động và nảy sinh vấn đề tiêu cực trong việc làm. III. Giải pháp đối với vấn đề việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp 1. Đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo Để có thể khắc phục thực trạng việc làm của sinh viên sau khi ra trường, nội dung và phương pháp đào tạo cần được đổi mới và nâng cao hơn nữa. Các trường đại học, cao đẳng cần xây dựng chương trình học, giáo trình sát với công việc thực tế hơn. Chương trình học cần có sự kết hợp hài hoà giữa lý thuyết và thực hành, đào tạo phải tạo ra sự cân đối giữa tri và hành, nghiên cứu lí luận phải liên hệ với thực tiễn. Do vậy các trường cần tăng cường hơn nữa các buổi thảo luận, thực hành, đi thực tế, thành lập các câu lạc bộ, các hoạt động ngoại khoá để tăng cường kĩ năng giao tiếp, làm việc theo nhóm, thuyết trình, xử lý tình huốngcủa sinh viên; giảm tải các môn lý thuyết không cần thiết, tập trung nhiều hơn vào các môn chuyên ngành chính. Các trường cũng cần chú trọng mạnh mẽ hơn nữa đến việc đào tạo ngoại ngữ để sinh viên ra trường có đủ tự tin sử dụng ngoại ngữ thứ hai. Có thể nói đây là chìa khoá quan trọng giúp họ có thể tìm được công việc tốt dễ dàng hơn. Đồng thời, các trường cũng cần đầu tư nhiều hơn cho cơ sở vật chất kĩ thuật như thư viện điện tử, máy tính, internet để sinh viên có cơ hội làm quen dần với tiến bộ khoa học công nghệ, tìm hiểu thông tin từ đó có kiến thức xã hội sâu rộng hơn, không bị bỡ ngỡ khi tiếp xúc với công việc thực tế. Phương pháp đào tạo không phải chỉ là giảng dạy từ một phía người thầy mà cần có sự tương tác từ hai phía cả thầy và trò, khuyến kích sinh viên tự học, tự nghiên cứu, phát huy sức sáng tạo của bản thân. 2. Tạo mối liên kết chặt chẽ hơn nữa giữa nhà trường - doanh nghiệp - sinh viên Để có thể xây dựng một chương trình đào tạo sát với yêu cầu thực tế, các trường nên có sự đóng góp của doanh nghiệp hoặc các chuyên gia trong các công ty, tập đoàn lớn để góp ý xây dựng giáo trình, nội dung chương trình giảng dạy phù hợp với nhu cầu doanh nghiệp. Các trường nên định kỳ mời các chuyên gia, các doanh nhân từ các doanh nghiệp, công ty về nói chuyện, trao đổi kinh nghiệm thực tế với sinh viên. Chương trình thực tập của sinh viên trước khi ra trường tại các doanh nghiệp nên kéo dài hơn và chất lượng cần được chú trọng hơn nữa. Trong quá trình đi thực tập, doanh nghiệp nên tạo điều kiện để sinh viên được làm việc như một nhân viên thực thụ với công việc cụ thể và có người hướng dẫn cụ thể. Do đó, sinh viên sẽ có cơ hội tiếp cận với thực tiễn công việc, học cách áp dụng kiến thức vào thực tế cũng như học tác phong làm việc mới. Quá trình làm việc này sẽ giúp sinh viên nhận ra khoảng cách giữa nhà trường và thực tế và tìm cách bổ sung những lỗ hổng kiến thức kịp thời. Cuối kỳ thực tập, sinh viên trình bày kết quả làm việc thực sự của mình thông qua luận văn và bảo vệ luận văn. Đây là cơ hội để họ trình bày ý tưởng của mình, đưa ý tưởng vào thực tế và phải tìm cách bảo vệ ý tưởng đó. Nếu quá trình thực tập được đánh giá tốt, sinh viên có thể được nhận vào làm tại doanh nghiệp sau khi ra trường. Nhà trường kết hợp với các doanh nghiệp tăng cường tổ chức các lớp đào tạo, tư vấn, hội chợ việc làm để định hướng nghề nghiệp tương lai cho sinh viên. Tạo ra các tổ chức, hiệp hội hoạt động trợ giúp cho sinh viên về tài chính, kĩ năng, trang thiết bị cần thiếttrong việc triển khai và thực hiện kế hoạch, ý tưởng của mình. Các trường bắt tay với doanh nghiệp để cùng đào tạo hoặc “đặt hàng” đào tạo. Góp phần giải quyết vấn đề việc làm sinh viên, cung cầu lao động, các trường có thể kết hợp với các doanh nghiệp cùng đào tạo nhân lực. Hay hợp tác nhằm cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao và hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình phát triển. 3. Tăng cường hơn nữa mối quan hệ giữa Nhà nước - doanh nghiệp - nhà trường Nhà nước, doanh nghiệp và nhà trường cần hợp tác chặt chẽ hơn nữa để đảm bảo một cơ cấu đào tạo phù hợp với yêu cầu và đỏi hỏi của thị trường lao động. Để có thể đào tạo theo nhu cầu xã hội, cần thiết phải dự báo được số lượng theo ngành nghề và trình độ đào tạo ở các cấp từ quốc gia đến các vùng miền núi và địa phương. Do vậy, Bộ ngành trung ương và địa phương phối hợp với các doanh nghiệp, các trường thành lập cơ quan dự báo nhu cầu xã hội theo định kỳ. Cơ quan này thường xuyên cập nhật thông tin từ các doanh nghiệp, các trường rồi xử lý và điều phối thông tin. Các doanh nghiệp định kỳ thông báo nhu cầu từng loại ngành nghề và yêu cầu công việc. Các trường cần thành lập các trung tâm dịch vụ, giới thiệu việc làm và theo dõi sinh viên sau khi tốt nghiệp để từ đó cung cấp thông tin cần thiết cho cơ quan dự báo nhằm đào tạo phù hợp cả về số lượng và chất lượng. 4. Giải pháp từ phía sinh viên Sinh viên cần tích cực trau dồi kiến thức trên ghế nhà trường, rèn luyện kĩ năng tự học vì không phải mọi kiến thức đều có thể học ở trường. Trong quá trình học tập, sinh viên cũng cần tham gia các hoạt động ngoại khoá, tìm hiểu kiến thức ngoài xã hội, tích luỹ kinh nghiệm cho bản thân. Đặc biệt, sinh viên cần nhận thức được tầm quan trọng của việc học chuyên môn cũng như việc học ngoại ngữ để có thể có được những kĩ năng và kiến thức cần thiết cho tương lai. Sinh viên cần có định hướng nghề nghiệp nhất định trước khi chọn trường đại học thông qua ý kiến tham khảo của các bậc phụ huynh, thông tin về thị trường lao động và căn cứ vào khả năng của bản thân. Những sinh viên ra trường cũng cần có cách nhìn nhận đúng đắn hơn trong việc chọn cho mình một nơi làm việc. Một môi trường đúng với chuyên ngành được đào tạo, năng lực bản thân sẽ có lợi cho cả hai bên; người lao động sẽ làm tốt hơn công việc của mình, doanh nnghiệp sẽ có được những người có trình độ chuyên môn phù hợp, có năng lực làm việc. Sự kết hợp hài hoà và hợp lý này sẽ giúp cho công việc đạt hiệu quả cao hơn. 5. Chính sách hợp lý của Nhà nước Nhà nước cần có chính sách hợp lý để thu hút nhân tài vào tất cả các ngành nghề, tạo điều kiện thông thoáng hơn thông qua việc thay đổi qui trình tuyển dụng để sinh viên ra trường có nguyện vọng có cơ hội được làm việc và cống hiến lâu dài trong các cơ quan Nhà nước. Đồng thời Nhà nước cũng cần đưa ra chính sách tiền lương phù hợp đối với sinh viên mới tốt nghiệp để khuyến khích họ yên tâm công tác. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng nên có chính sách quan tâm đến những người làm việc, công tác tại những vùng xa, vùng khó khăn để động viên họ cả về mặt vật chất cũng như tinh thần để họ có thể đem hết tâm huyết và năng lực phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Nhà nước cần đầu tư nhiều hơn và hợp lý hơn nữa cho giáo dục đai học để tạo ra sự thay đổi cả về lượng và chấ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9016.doc
Tài liệu liên quan