Trong giai đoạn hiện nay như báo cáo Đại hội Đảng IV đã chỉ ra: “xu thế toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ”. Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, xu thế ngày càng bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn” vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực. Vừa có hợp tác vừa có đấu tranh. Xu thế toàn cầu hoá trong giai đoạn này bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, từ nền kinh tế thị trường thế giới, từ sự chi phối của các công ty tư bản độc quyền xuyên quốc gia và các tổ chức thương mại, tài chính tiền tệ quan hệ xu thế toàn cầu hoá vừa tạo thời cơ vừa tạo thách thức đối với nước ta, nó đòi hỏi phải nhận thức đúng bản chất và tính chất của toàn cầu hoá cũng như ý thức đầy đủ những thách thức của xu thế này. Do đó, Đảng và nhà nước cần phải có chiến lược, kế hoạch, chủ động, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực với chương trình hợp lý, cụ thể.
13 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1939 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vận dụng quan điểm toàn diện của triết học Mác- Lênin để phân tích xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Đổi mới kinh tế Việt Nam là một cao trào của toàn dân ta do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới thực sự bắt đầu từ năm 1986. Trước năm 1986 nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ, mang tính tự cung tự cấp. Mặt khác do những sai lầm trong nhận thức về mô hình kinh tế XHCN. Nền kinh tế ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo dài, đời sống nhân dân thấp.
Đứng trước bối cảnh đó cách lựa chọn duy nhất là phải đổi mới kinh tế. Dựa trên quan điểm toàn diện của triết học Mác- Lênin để nhìn nhạn đúng đắn về thực tràng đất nước cùng với những thành tựu sau 15 năm đổi mới. Trong đại hội Đảng IX đề ra mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001- 2010) là: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất tinh thần của nhân dân tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiệng đại. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản, vị thế cảu nước ta trên thị trường quốc tế được nâng cao”. có thể khẳng định đường lối lãnh đạo của ta hoàn toàn đúng đắn và hợp với lòng dân.
Bên cạnh những thành tựu to lớn đó còn không ít những khó khăn nổi cộm. Do đó cần phải nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện pháp để nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng XHCN. Đây là việc làm thiết thực, cần thiết đối với đất nước vì vậy tôi quyết định chọn đề tài: “Vận dụng quan điểm toàn diện của triết học Mác- Lênin để phân tích xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” để nghiên cứu. Hơn nữa, đây là đề tài mạng tính thực tiễn và giá trị khoa học lớn làm sáng tỏ quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác. Do sự tồn tại quá lâu của kinh tế cũ đã ăn sâu vào tư duy nhận thức, vào quan điểm và cách điều hành, quản lý kinh tế của chính phủ nên việc chuyển từ kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải xem xét toàn diện cụ thể. Đây là lần đầu tiên em làm bài tiểu luận nên không thể tránh khỏi những thiếu sót về nội dung cũng như về hình thức, kính mong các thầy giáo cùng bạn đọc tận tình sửa chữa và góp ý cho em để em làm bài tiểu luận tốt hơn. Em xin cám ơn cô Vũ Thảo Nguyên đã cung cấp kiến thức và phương pháp để em hoàn thành bài luận này.
Phần nội dung:
I. Nội dung cơ bản về quan điểm toàn diện của triết học Mác- Lênin.
1. Nội dung quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật và hiện tượng.
Căn cứ vào thực tiễn đời sống xã hội và sự phát triển khoa học, triết học Mác - Lênin đã khảng định.
“Các sự vật và hiện tượng muôn hình muôn vẻ trong thế giới, không cái nào tồn tại một cách cô lập, biệt lập mà chúng ta là một thể thống nhất, trong đó có sự vật hiện tượng tồn tại bằng cách tác động nhau, ràng buộc nhau quy định và chuyển hoá lẫn nhau. Mối liên hệ này chẳng những diễn ra ở mọi sự vật hiện tượng tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật và hiện tượng.”.
Giáo trình “triết học Mac - Lênin” - PGS. Vũ Ngọc Phan NXB Giáo dục 1997.
Không có sự vật nào lại không có mối liên hệ với các sự vật và hiện tượng khác, ngay trong cùng một sự vật, hiện tượng thì vẫn phải có sự tác động, liên hệ và ràng buộc lẫn nhau giữa các mặt và các yếu tố. Sự vật có vô vàn mối liên hệ. Mối liên hệ tồn tại cả trong thế giới vĩ mô và vi mô, cả trong thế giới vô cơ và hữu cơ, cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Ví dụ, trong tự nhiên, giữa động vật và thực vật, giữa cơ thể sống và môi trường có mối quan hệ với nhau. trong đời sống xã hội, giữa cá nhân và tập đoàn người, giữa các quốc gia có quan hệ với nhau. Trong lĩnh vực nhận thức tư duy, giữa các hình thức của nhận thức, giữa các giai đoạn của nhận thức cũng có quan hệ với nhau.
Mối liên hệ của các sự vật và hiện tượng trong thế giới là đa dạng và nhiều vẻ. Mỗi sự vật khác nhau có mối liên hệ khác nhau, mỗi một mối liên hệ lại có vị trí, vai trò khác nhau trong sự vận động của sự vật. Lại tiếp tục căn cứ vào vai trò, tính chất và phạm vi các mối liên hệ người ta chia thành các mối liên hệ sau: liên hệ bên trong, liên hệ bên ngoài; liên hệ trực tiếp, liên hệ gián tiếp; liên hệ không gian, liên hệ thời gian; liên hệ chủ yếu, liên hệ thứ yếu; liên hệ cơ bản, liên hệ không cơ bản; liên hệ chung nhất và liên hệ đặc thù....
Mặc dù sự phân loại các liên hệ chỉ có ý nghĩa tương đối, song sự phân loại các mối liên hệ lại cần thiết, vì rằng vị trí của từng mối liên hệ trong việc quy định sự vận động và phát triển của sự vật và hiện tượng không hoàn toàn như nhau. Những hình thức riêng biệt, cụ thể của từng mối liên hệ là đối tượng nghiên cứu của từng ngành khoa học cụ thể. Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất, phổ biến nhất của thế giới, tác động trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Các khoa học cụ thể khác nghiên cứu các mối liên hệ đặc thù. Vì thế, F. Ăng - ghen viết: “Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến”.
Như ta đã biết, các sự vật và hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến và nhiều vẻ, bởi vậy muốn nhận thức và tác động vào chung, chúng ta phải có quan điểm toàn diện, khắc phục quan điểm phiến diện một chiều.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi phân tích sự vật phải đặt nó trong mối quan hệ với sự vật hiện tượng khác, phải xem xét tất cả các mặt, các mặt trung gian, gián tiếp, các yếu tố cấu thành nên sự vật, đồng thời cũng phải xác định được vai trò của mối liên hệ trong hệ thống các mối liên hệ của sự vật.
Trong hoạt động thực tiễn, quan điểm toàn diện giúp chúng ta tránh những sai lầm và sự cứng nhắc, chống lại quan điểm siêu hình coi sự vật là cái gì riêng lẻ, biệt lập. Tuy nhiên, quan điểm toàn diện không có nghĩa là các xem xét cào bằng, lan tràn, mà phải thấy được vị trí của từng mối liên hệ, từng mặt, từng yếu tố trong tổng thể của chúng. Có như thế chúng ta mới thực sự nắm được bản chất của sự vật. Vì vậy, quan điểm toàn diện, bản thân nó đã bao hàm quan điểm lịch sử, cụ thể.
Phân tích về khái niệm nền kinh tế thị trường ở góc độ triết học.
Mọi loại hình kinh tế đều được tổ chức bằng cách này hay cách khác để tồn tại và phát triển. Nền kinh tế thị trường là loại hình phù hợp với thưòi điểm hiện nay. Kinh tế thị trường được hiển là một kiểu kinh tế - xã hội mà trong đó sản xuất xã hội gắn liền với quan hệ hàng hoá tiền tệ, quan hệ cung cầu, tức là chịu sự điều tiết của thị trường, do đó sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó.
Từ khi triết học Mác - Lênin ra đời. Các quan điểm đúng đắn của nó đã trở thành cơ sở lý luận làm kim chỉ nam cho lĩnh vực hoạt động kinh tế. Các nhà hoạt động kinh tế trên thế giới đã áp dụng quan điểm toàn diện trong triết học Mác - Lênin hay chính là phép duy vật biện chứng vào thực tiễn hoạt động của mình. Nhờ có quan điểm toàn diện này, họ đã nắm bắt được các quy luật khách quan của giới tự nhiên từ đó làm chủ các quy luật và biến các quy từ chỗ chi phối các hoạt động kinh tế đến chỗ bị các hoạt động kinh tế chi phối.
Lúc này các quy luật kinh tế lại trở thành yếu tố phục vụ con người.Việc vận dụng quan điểm toàn diện vào các tổ chức quản lý kinh tế gồm một số nguyên lý cơ bản sau:
Trong nền kinh tế thị trường không có một sự kiện nào tồn tại trong trạng thái cô lập, tách rời với các sự kiện khác. Chính vì vậy khi xem xét các sự vật ta phải tìm ra được hết các mối liên hệ vốn có của nó.
Các thị trường hàng hoá cụ thể không tồn tại trong trạng thái cô lập, tách rời nhau. Do đó ta cần phải phân loại, đánh giá các mối liên hệ để có thể điều chỉnh sao cho nền kinh tế đi đúng hướng.
Bản thân nền kinh tế cũng không tồn tại trong trạng thái cô lập mà trong mối quan hệ quy định lẫn nhau giữa các lĩnh vực kinh tế - chính trị - ngoại giao, kinh tế - chính trị - đạo đức - tư tưởng, kinh tế - chính trị - khoa học - công nghệ.
Vậy mọi sự kiện kinh tế chỉ tồn tại trong biểu hiện với tư cách là nó trong mối quan hệ với những sự kiện khác. Các nhà tư bản phương tây đã biết vận dụng các nguyên lý trên vào quản lý kinh tế. Từ đó họ xây dựng nên nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đưa lại hiệu quả kinh tế rất cao làm cho nenè kinh tế của các nước tư bản phát triển vượt bậc, tạo đà cho sự phát triển của thế giới. “như vậy sự hình thành, phát triển kinh tế hàng hoá là tất yếu đối với sự phát triển của xã hội ”. Đến đây ta có thể khảng định quan điểm toàn diện trong triết học Mác - Lênin là hoàn toàn đúng đắn và có vai trò to lớn đối với lĩnh vực hoạt động kinh tế của con người đặc biệt là vai trò đó được phát huy tích cực trong nền kinh tế thị trường.
II. Kinh tế thị trường ở Việt Nam.
1. Nội dung phát triển toàn diện nền kinh tế thị trường.
Công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta được bắt đầu từ Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IV (9/1979), được đúc kết và khảng định trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI của Đảng (12/1986), tiếp tục hoàn thiện và nâng cao tại Đại hội Đảng lần thứ VII (6/1991). Nội dung cơ bản của công cuộc đổi mới là: xây dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước .
Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức tổ chức kinh doanh.
Từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân; hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp nhằm phát huy tổng hợp mọi nguồn lực sẵn có trong nền kinh tế. Quan điểm đổi mới của Đảng và nhà nước ta chỉ rõ, mọi thành phần kinh tế, mọi công dân đều được đầu tư kinh doanh theo các hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh doanh đều được khuyến khích phát triển lâu dài, ổn định, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và đều là các bộ phận cầu thành của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong đó bao gồm:
- Kinh tế Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế: nắm những vị trí then chốt, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là một công cụ quan trọng dể Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế; đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ; đi đầu về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật.
Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các hộ xã viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn hoạt động.
- Kinh tế cá thể, tiểu thủ cả ở nông thôn và thành thị đều được khuyến khích, Nhà nước tạo điều kiện giúp đỡ; đặc biệt trong việc phát triển kinh tế ruộng, vườn, trang trại, vườn rừng.
- Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng về quy mô trong những ngàn nghề có lợi cho quốc tế dân sinh, khuyến khích hợp tác, liên doanh với nhau và các doanh nghiệp Nhà nước.
- Kinh tế tư bản Nhà nước phát triển dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và nước ngoài, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh.
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển hướng vào mục tiêu phát triển các sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội gắn với thu hút công nghệ cao, tạo thêm nhiều công ăn việc làm.
Phát triển kinh tế bền vững đi đối với việc thựchiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Nền kinh tế là một tổng hoà các quan hệ kinh tế - xã hội. Bất cứ một nền kinh tế nào muốn phát triển bền vững đều phải tăng nhanh năng suất lao động. Xã hội và nâng cao chất lượng sản phẩm. Điều đó đòi hỏi tăng nhanh năng lực khoa học công nghệ trong nước, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ tốt yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hóa và từng bước tiếp cận với nền kinh tế tri thức. Mặt khác, cần phát huy nhân tố con người, mở rộng cơ hội cho mọi người đều có điều kiện để phát huy mọi khả năng, tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng những thành quả của sự phát triển, góp phần thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, và văn minh. Phát triển nền kinh tế phải luôn luan đi đôi với việc bảo vệ môi trường, coi bảo vệ môi trường trong sạch là điều kiện quan trọng để tăng trưởng kinh tế bền vững và xã hội ổn định, lành mạnh.
Phát triển đồng bộ các ngành kinh tế, các khu vực kinh tế.
Nền kinh tế bao gồm hoạt động của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau, được phân bổ theo các khu vực kinh tế khác nhau và chúng thường xuyên có tác động qua lại, hỗ trợ cho nhau. Phát triển đồng bộ ngành, các khu vực kinh tế sẽ phát huy cao độ lợi thế vốn có và khắc phục những khiếm khuyết của nó.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, do vậy Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tuy nhiên, trong định hướng phát triển kinh tế, chúng ta phải từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ lệ nông nghiệp, tăng tỷ lệ công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm xã hội.
Đi liền với các ngành, chúng ta chú trọng phát triển kinh tế giữa các vùng, các khu vực, nhằm tận dụng tối đa những ưu thế, những điều kiện sắn có để tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, chính trị, xã hội.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, và chủ động hội nhập quốc tế.
Trong giai đoạn hiện nay như báo cáo Đại hội Đảng IV đã chỉ ra: “xu thế toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ”. Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, xu thế ngày càng bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn” vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực. Vừa có hợp tác vừa có đấu tranh. Xu thế toàn cầu hoá trong giai đoạn này bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, từ nền kinh tế thị trường thế giới, từ sự chi phối của các công ty tư bản độc quyền xuyên quốc gia và các tổ chức thương mại, tài chính tiền tệ quan hệ xu thế toàn cầu hoá vừa tạo thời cơ vừa tạo thách thức đối với nước ta, nó đòi hỏi phải nhận thức đúng bản chất và tính chất của toàn cầu hoá cũng như ý thức đầy đủ những thách thức của xu thế này. Do đó, Đảng và nhà nước cần phải có chiến lược, kế hoạch, chủ động, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực với chương trình hợp lý, cụ thể.
2. Thực tế nền kinh tế Việt Nam.
Quá trình thực hiện xây dựng KTTT của Việt Nam giai đoạn (1986 - 1999), đây là thời kỳ chúng ta đưa ra quyết định quan trọng: xây dựng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Chúng ta đã có những chính sách: quyết định đúng đắn đưa nền kinh tế đi lên khắc phục hậu quả do những quyết định sai lầm cũ để lại. Nhưng phải thực sự đến giai đoạn sau từ 1991 đến nay, giai đoạn này chúng ta thực sự bước sang KTTT mở. Đây là thời kỳ chúng ta chứng kiến nhiều thành công kỳ diệu, chưng kiến sự lãnh đạo tài tình của Đảng: chúng ta đã có những bước đi phù hợp: tự do hoá giá cả, với các công cụ tài chính, tiền tệ chúng ta đã đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát từ khoảng 40% vào năm 1988 xuống 5,3% vào năm 1993. Giai đoạn này tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam thuộc loại năng động bậc nhất trên thế giới, trung bình cả giai đoạn là 7,5% trong khi giai đoạn (1986 -1990) chỉ là 3,9% . Thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991 -2000) đã đạt được thành tựu to lớn và rất quan trọng: “Tổng sản phẩm trong nước năm 2000 tăng hơn gấp đôi so với năm 1999” [ Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam, 4 - 2000], chúng ta đã xoá bỏ được cơ chế bao cấp sang xây dựng được kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ chỗ chỉ có hia thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể sang nền kinh tế nhiều thành phần. Đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, đất nước ra khỏi khủng hoảng, sức mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn hơn nhiều so với 10 năm trước.
Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những yếu kém, yếu kém: Như nạn thất nghiêp đang gia tăng, người lao động thì nhiều mà công việc ít, các tệ nạn tham nhũng, hối lộ đang là 1 quốc nạn của nước ta. Hệ thống tiền lương, có nhiều bất cập, cán bộ công chức không sống bằng lương mà sống bằng thu nhập ngoài lương vì lương quá thấp so với thực tế cuộc sống đòi hỏi.
Vì thế nền chúng ta không thể không nhìn toàn diện để xem xét và đánh giá nền kinh tế thị trường để đề ra giải pháp. Sau đây là một số giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường.
Phần III: Kết luận
Sau hơn một thập kỷ đổi mới và phát triển chúng ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách. Qua đó chúng ta bài học kinh nghiệm quý báu. Đổi mới xây dựng kinh tế thị trường không tách rời “định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước ” có như vậy chính trị mới ổn định kinh tế mới phát triển, mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mới không bị chệnh hướng. Đồng thời muốn cải cách thì phải cải cách đồng bộ, triệt để, cải cách kinh tế phải đi đôi với cải cách chính trị, đổi mới về tư duy nhận thức, đề cao tinh thần dân tộc, bản sắc văn hoá riêng có của ta. Giải quyết tốt các mối quan hệ kinh tế dựa trên cơ sở toàn diện của chủ nghĩa Mác - Lênin: không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, công tác tư tưởng lý luận phải theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu của cuộc cách mạng. Công tác tổ chức cán bộ cần phải đổi mới nhanh chóng, liên tục. Yêu cầu sự lãnh đạo của Đảng hiệu lực quản lý, điều hành của nhà nước trong thời kỳ mới cần có sự phân công rõ ràng không bao biện, không làm thay nhu cầu sử lý tốt hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng với dân, tạo sự tin tưởng tuyệt đối của dân với Đảng. Giai đoạn hiện nay chúng ta cần có một hệ thống phát triển hoàn chỉnh thống nhất, tạo điều kiện thông thoáng thuận lợi cho sự phát triển kinh tế.
Hiện nay hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới đã sup đổ bởi vận dụng mô hình kinh tế không phù hợp: Mô hình kinh tế bao cấp. Thế nhưng Việt Nam chúng ta đã đứng vững qua cơn bão táp của thời kỳ trước, hiện nay chúng ta tự dò tìm cho mình một con đường đi trong bao nhiềukhó khăn và thử thách. Qua những thành công bước đầu của 15 năm đổi mới, chúng ta có thể khảng định việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường là một quyết định sáng xuất, mang tính sáng tạo cao của Đảng. Chúng ta có thể tự hào mà nói với thế giới rằng: Quá trình đổi mới vì chủ nghĩa xã hội cũng là quá trình biến những quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội đã từng bước thành hiện thực. Thành tựu nổi bật trong những năm vừa qua không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế xã hội mà còn tạo niềm tin cho con đường đổi mới góp phần ổn định về chính trị- xã hội của đất nước, đồng thời cảnh giác với mọi âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực phản động, tiếp tục đưa đất nước nên chủ nghĩa xã hội - con đường đi đến dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh và tiến bộ.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình “Triết học Mác - Lênin” Trường Đại học quản lý kinh doanh.
2. Giáo trình “Triết học Mác - Lênin” tập II NXB chính trị quốc gia Hà Nội 1999.
3. Học thuyết Mác - Lênin thời đại NXB sự thật 1991.
4. văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX.
5. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .PTS. Nguyễn Các NXB thống kê - Hà Nội 1995.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28261.doc