Tiểu luận Vận dụng quan điểm toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn vào việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

MỤC LỤC

A. LỜI NÓI ĐẦU.

B.NỘI DUNG.

PHẦN I. Cơ sở lý luận và mối quan hệ của quan điểm toàn diện trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.

I. Cơ sở lý luận và mối quan hệ của quan điểm toàn diện.

1. Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện.

2. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến của sự vật.

II. Việc vận dụng quan điểm toàn diện trong triết học Mác - Lênin vào hoạt động nền kinh tế thị trường.

1. Khái niệm nền kinh tế thị trường.

2. Vận dụng quan điểm toàn diện vào hoạt động nền kinh tế thị trường.

Phần II.Vận dụng những yêu cầu của quan điểm toàn diện để phân tích việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở nước ta.

I. Những yêu cầu của quan điểm toàn diện.

II. Vận dụng quan điểm toàn diện vào việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

1. Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường.

2. Kinh tế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước ở Việt Nam.

PHẦN III. Một số kiến nghị và giải pháp.

1. Nền kinh tế các nước trên thế giới.

2. Một số kiến nghị và giải pháp của Đảng và Nhà nước ta để nâng cao sự phát triển của nền kinh tế thị trường.

C. TÀI LIỆU THAM KHẢO.

 

 

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 11066 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vận dụng quan điểm toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn vào việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ý về mối liên hệ của sự vật cho phép ta rút ra một nguyên tắc phương pháp luận là: trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải quán triệt quan điểm (nguyên tắc) toàn diện. Với nguyên tắc phương pháp luận trong hoạt động thực tiến, nguyên lý về mối liện hệ phổ biến đòi hỏi để cải tạo được sự vật, chúng ta phải bằng hoạt động thực tiễn của mình biến đổi những mối liên hệ nội tại của sự vật cũng như những mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác. II - việc vận dụng quan điểm toàn diện trong triết học mác - lênin vào hoạt động nền kinh tế thị trường. 1 - Khái niệm về kinh tế thị trường. "Một nền kinh tế mà trong đó các vấn để cơ bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường". Trong nền kinh tế thị trường là hàng loạt những quy luật kinh tế của nó như: quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ... Cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị trường tuân theo những quy luật trên đó chính là cơ chế thị trường. "Cơ chế thị trường được hiểu là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế vốn có của nó. Cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là: cái gì? như thế nào? và cho ai? Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung - cầu và giá cả thị trường". 2 - Vận dụng quan điểm toàn diện vào hoạt động nền kinh tế thị trường. Mọi hệ thống kinh tế được tổ chức để huy động tối đa các nguồn lực của xã hội và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó để sản xuất ra hàng hoá thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Vì thế, vấn đề cơ bản của hoạt động kinh tế là làm thế nào đáp ứng tốt nhất các nguồn lực và tổ chức sản xuất, đáp ứng tốt nhất nhu cầu hàng hoá của xã hội. Theo quy luật của sự tồn tại thì lĩnh vực kinh tế cũng biện chứng. Đó là kinh tế luôn đòi hỏi các nhà hoạt động kinh tế phải tuân theo nguyên tắc toàn diện trong vấn đề sản xuất như sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào. Tức là hoạt động sao cho hiệu quả kinh tế đem lại là lớn nhất. Vậy làm thế nào để đáp ứng được nhu cầu đó. Ta biết khi lý luận của triết học Mác - Lênin chưa ra đời đã có những hoạt động kinh tế nhưng chưa nắm bắt được các quy luật khách quan của thế giới nên các hoạt động kinh tế còn mò mẫm và bị các quy luạat của tự nhiên chi phối dẫn đến năng suất lao động còn thấp. Từ khi triết học Mác - Lênin ra đời, các quan điểm đúng đắn của nó trở thành cơ sở lý luận làm kim chỉ nam cho lĩnh vực hoạt động kinh tế. Các nhà hoạt động kinh tế trên thế giới đã áp dụng quan điểm toàn diện trong triết học Mác - Lênin hay chính là phép duy vật biện chứng vào hoạt động thực tiễn của mình. Nhờ có quan điểm toàn diện này họ đã nắm bắt các quy luật khách quan của tự nhiên và làm chủ các quy luật và bị các hoạt động kinh tế chi phối. Lúc này các quy luật kinh tế lại trở thành yếu tố phục vụ sản xuất và thúc đẩy hoạt động sản xuất vật chất của con người. Việc vận dựng quan điểm toàn diện vào tổ chức quản lý kinh tế gồm một số nguyên lý cơ bản sau: 1 - Trong nền kinh tế không có một sự kiện nào tồn tại trong trạng thái cô lập, tách rời với các sự kiện khác. Vì vậy, khi xem xét các sự vật ta phải tìm ra được hết các mối liên hệ vốn có của nó. 2 - Các thi trường hàng hoá cụ thể không tồn tại trong trạng thái cô lập, tách rời nhau mà trong sự liên hệ, tác động qua lại ché ước lẫn nhau. Do đó ta cần phải biết phân loại, đánh giá các mối liên hệ để có thể điều chỉnh sao cho nền kinh tế đi đúng hướng. 3 - Bản thân nền kinh tế cũng không tồn tại trong trạng thái cô lập mà trong mối quan hệ giữa các lĩnh vực kinh tế - chính trị - ngoại giao, kinh tế - chính trị - đạo đức - tư tưởng, kinh tế - chính trị - khoa học - công nghệ,... Vậy mọi sự kiện kinh tế chỉ tồn tại với tư cách là nó trong mối quan hệ với những sự kiện khác. Các nhà tư bản phương tây đã biết vận dụng nguyên lý trên vào quản lý kinh tế. Từ đó họ xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đưa lại hiệu quả kinh tế cao làm cho nền kinh tế các nước tư bản phát triển vượt bậc tạo đà cho sự phát triển thế giới. "Như vậy sự hình thành, phát triển kinh tế hàng hoá là tất yếu đối với sự phát triển của xã hội" Trên dây ta có thể khẳng định quan điểm toàn diện trong triết học Mác - Lênin là hoàn toàn đúng đán và có vai trò to lớn đối với lĩnh vực hoạt động kinh tế của con người. Đặc biệt là vai trò đó đã được phát huy tích cực trong nền kinh tế thị trường. phần ii: vận dụng những yêu cầu của quan điểm toàn diện phân tích việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở nước ta. I - những yêu cầu trong quan điểm toàn diện. Quan điểm toàn diện có những yêu cầu sau: - Khi nghiên cứư xem xét sự vật hiện tượng phải đặt nó trong mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác, xem vai trò của nó ảnh hưởng đến sự vật hiện tượng đó như thế nào? Và xem xét sự tác động của các sự vật hiện tượng khác ảnh hưởng đến tính chất, đến xu hướng của sự vận động ra sao? Xem xét sự liên hệ tác động giữa các yếu tố cấu thành sự vật, chỉ ra thực trạng và xu hướng vận động của sự vật. - Mối liên hệ của sự vật rất đa dạng phong phú song vai trò của từng liên hệ đối với sự phát triênr của từng sự vật lại không giống nhau. Do đó, khi xem xét sự vật hiện tượng phải đặc biệt quan tâm đến các liên hệ bên trong, liên hệ bản chất tất yếu, liên hệ cơ bản. Vì những liên hệ này quy định sự tồn tại, phát triển của sự vật, quy định tính chất và xu hướng vận động của nó. - Phải chống quan điểm siêu hình, quan điểm này phủ nhận mối liên hệ phổ biến của sự vật hoặc nếu có thừa nhận thì chỉ thừa nhận những mối liên hệ bên trong bên ngoài chứ không thấy mối liên hệ bản chất bên trong của sự vật. Đó là một quan điểm sai lầm, nó không giúp cho chúng ta phản ánh đúng đắn sự vật. Vận dụng quan điểm toàn diện vào hoạt động thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải kết hợp chặt chẽ giữa "chính sách dàn đều" và "chính sách trọng điểm". Trong khi khẳng định tính toàn diện, phạm vi bao quát tất cả các mặt, các lĩnh vực của quá trình đổimới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới cả lĩnh vực kinh tế lẫn lĩnh vực chính trị, Đảng ta cũng xem đổi mới kinh tế là trọng tâm. ii - vận dụng quan điểm toàn diện vào việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở việt nam. 1 - Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc đổi sang kinh tế thị trường. *Nền kinh tế nước ta trước khi chuyển sang kinh tế thị thị trường: Sau năm 1975 do vừa trải qua cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ nền kinh tế nước ta bị tàn phá nặng nề về cơ sở hạ tầng, nền nông nghiệp thì lạc hậu nghèo nàn. Đặc biệt là phương thức "hợp tác hoá" phân phối sản phẩm lao động theo nhu cầu dẫn đến sự trì trệ trong kinh tế, sự ỷ lại của người lao động. Bên cạnh nền nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu là nền công nghiệp nhỏ bé thấp kém, thiếu thốn về cơ sở vật chất, nền tảng khoa học, do đó không thể làm tiền đề cho sự phát triển kinh tế. Còn ngành dịch vụ thì hầu như chưa phát triển, không những thế đất nước ta còn đang bị cấm vận kinh tế, đặc biệt là lệnh cấm vận kinh tế của Mỹ. Chính vì vậy giai đoạn 1975-1985 nền kinh tế nước ta chậm phát triển đòi hỏi phải đổi mới nền kinh tế để thoát khỏi khủng hoảng và thúc đẩy các yếu tố sản xuất hàng hoá phát triển. * Chính sách đổi mới nền kinh tế của Đảng và Nhà nước. Tháng 2 năm 1986 tại Đại hội toàn quốc lần VI, Đảng cộng sản Việt Nam đã tự phê bình nghiêm túc và đề ra đường lối đổi mới toàn diện xã hội.Đặc biệt là đổi mới kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Vậy thì tại sao Đảng và Nhà nước ta lại chủ trương chuyển nèn kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường nhưng phải có sự quản lý của Nhà nước. Như ta thấy, cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị trường bị chi phối bởi hàng loạt các quy luật kinh tế đan xen lẫn nhau nên rất phức tạp. Cơ chế kinh tế thị trường với những ưu điểm như kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo các điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế. Từ đó làm cho nền kinh tế năng động và huy động các nguồn lực xã hội và phát triển kinh tế. Cở chế kinh tế mềm dẻo, nó có khả năng thích nghi cao và kịp thời với những sự thay đổi của xã hội. Sự cạnh tranh trong kinh tế thị trường buộc các nhà sản xuất phải tìm mọi cách giảm hao phí lao động bằng cách áp dụng khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến vào sản xuất. Tuy nhiên, cơ chế thị trường cũng có một số khuyết điểm đó là: chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo, mục đích của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa nên họ đã lạm dụng tài nguyên xã hội, gây ô nhiễm môi trường, các tệ nạn xã hội... Do đó nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng. Đảng và Nhà nước ta cũng nhận rõ ưu khuyết điểm của cơ chế thị trường. Trên cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn bằng việc áp dụng nguyên tắc toàn diện trong triết học Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã xem xét một cách tổng thể từ ưu điểm đến khuyết điểm, từ quá trình hoạt động và thành tựu đạt được của các nước phương Tây mà không hề dập khuôn. Đảng và Nhà nước ta đã đặt nền kinh tế trị trường vào điều kiện hoàn cảnh của Việt Nam, xem xét đánh giá, nhìn nhận nó dưới mọi góc độ từ đó nắm vững bản chất của kinh tế thị trường với đầy đủ các mặt, các yếu tố và thuộc tính của nó. Do vậy trong quan điểm của Đảng ta thể thực hiện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng và văn minh, thì kinh tế thị trường phải có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đến đại hội VII, Đảng ta cũng đã khẳng định: "Xây dựng nèn kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Từng bước kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể chiếm ưu thế về năng suất, chất lượng, hiệu quả, qua đó giữ vị trí chi phối trong nền kinh tế". Trong kinh tế thị trường dưới chủ nghĩa xã hội hình thức phân phối là: "phân phối theo lao động". Việc Đảng và Nhà nước đưa ra chính sách phân phối theo lao động là đúng và hợp với quy luật khách quan, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, thực hiện quyền làm chủ của người lao động đối với tư liệu sản xuất là dặc trưng bản chất của kinh tế thị trường dưới xã hội chủ nghĩa. Nếu để các hình thức phân phối khác sẽ dễ gây sự phân hoá sâu sắc hai cực giàu nghèo trong xã hội. Đảng ta còn xã định: "Tất cả những gì để cho thị trường đều là tốt thì để cho thị trường điều tiết. Nhà nước chỉ can thiệp khi thị trường có những biểu hiện tiêu cực cần ngăn chặn". Chính vì vậy mà kinh tế thị trường ở nước ta nhất thiết phải có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Tăng cường, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định đảm bảo tính chất và định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế thị trường cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Qua đây ta thấy, việc vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước khẳng định nền kinh tế tồn tại một cách khách quan tương ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn lịch sử hiẹen nay. 2 - Kinh tế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước ở Việt Nam. + Những thành tựu - hạn chế. a. Những thành tựu đạt được khi nền kinh tế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước thực tiễn đã chứng minh rằng muốn định hướng đúng cho thị trường Nhà nước phải thực sự điều tiết có hiệu quả nền kinh tế. Chính vì ý thức được điều đó mà Nhà nước ta bước đầu đã gặt hái được những thành tựu quan trọng sau: * Nhà nước ta bước đầu sử dụng có hiệu quả hệ thống các công cụ kinh tế: giá cả, thuế, lãi suất, tiền lương, dự trữ vàng và ngoại tệ... Việc đổi mới hệ thống thuế, chuyển hệ thống ngân hàng sang kinh doanh tiền tệ, huy động nguồn vốn theo kiểu thương mại đã có vai trò tích cực đối với tăng trưởng kinh tế. * Đổi mới có tính chất bước ngoặt trong công tác kế hoạch hoá. * Nhà nước đã sớm xác định vai trò quan trọng của hệ thống pháp luật với tính cách là công cụ quản lý kinh tế. Thông qua hoạt động luật pháp Nhà nước ta đã tạo môi trường pháp chế cho các thành phần kinh tế và các doanh nghiệp tự do hoạt động, tư bản nước ngoài yên tâm đầu tư vốn, kinh tế tư nhân bỏ vốn làm giàu. * Củng cố và phát triển các doanh nghiệp Nhà nước trong những ngành then chốt trên các vùng lãnh thổ và địa phương, là lực lượng kinh tế giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc dân và nền tảng của nền kinh tế nhiều thành phần. Nhờ chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng mà hơn 10 năm các ngành kinh tế đã đạt được. * Trong công nghiệp: Từ một nền công nghiệp nhỏ bé, hiện nay công nghiệp nước ta đã đóng vai trò to lớn trong nền kinh tế đất nước. Các khu chế xuất, khu công nghiệp và ba vùng kinh tế trọng điểm đã và đang liên kết giữa các ngành công nghiệp theo hướng chuyên môn hoá hỗ trợ nhau cùng phát triển. Công nghiệp có vốn đầu tư FDI và công nghiệp trong nước tăng trưởng với nhịp độ khác nhau và cạnh tranh với nhau đang góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, mô hình tổ chức sản xuất, thúc đẩy sự tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp. Nhờ máy móc thiết bị công cụ hiện đại của công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nên nhiều xí nghiệp công nghiệp trong nước tham gia liên doanh để đầu tư chiều sâu, đổi mới máy móc thiết bị để nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm đứng vững trên thị trường. Nếu như trước đây ta chỉ có một số ngành công nghiệp như khai khoáng, đóng tầu, dệt, may... Thì nay đã phát triển thêm các ngành công nghiệp mới như: chế tạo máy, công nghiệp chế biến thực phẩm, chế biến hàng tiêu dùng, công nghiệp điện tử, khai thác dầu thô... Đặc biệt ở Dung Quất - Quảng Ngãi đang xây dựng và xắp hoàn thành nhà máy chế biến dầu thô - đây là nhà máy lọc dầu lớn vào loại nhất ở khu vực Đông Nam á. * Trong nông nghiệp: nước ta từ một nền nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn nay đã có nhiều đổi mới. Sự công nghiệp hoá hiện đại hoá đưa máy móc vào sản xuất nông nghiệp giải phóng sức lao động của nông dân. Việc áp dụng KH-KT đưa phân bón, thuốc trừ sâu, các giống lúa mới, kỹ thuật canh tác mới vào sản xuất đã nâng cao năng suất lao động. Sản lượng nông nghiệp còn dư thừa để xuất khẩu. Thành tựu to lớn là nền nông nghiệp nước ta đứng thứ 3 trên thế giới về xuất khẩu gạo. * Ngành du lịch và dịch vụ: Trong những năm gần đây ngành du lịch và dịch vụ rất phát triển đem lại thu nhập lớn cho nền kinh tế quốc dân. Các khu du lịch nổi tiêng, các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử được bảo tồn và tôn tạo đã thu hút được lượng lớn khách du lịch trong nước và quốc tế. Tạo ra điều kiện để phát triển, đổi mới các loại hình dịch vụ. * Ngành giao thông vận tải: đã đáp ứng khá đầy đủ nhu cầu của nền kinh tế. Trong những năm gần đây, hệ thống cầu đường được nâng cấp và sửa chữa nhiều, xây dựng thêm nhiều tuyến đường và cầu đảm bảo cho sự lưu thông thông suốt, phù hợp với tốc độ vận động và phát triển của nền kinh tế thị trường. Không những chỉ phát triển giao thông đường bộ mà cả giao thông đường thuỷ, đường hàng không, đường sắt cũng có những bước phát triển phát triển đáng kể. * Ngành thủ công nghiệp: các nghề thủ công truyền thống đã được khôi phục và phát triển như: dệt thổ cẩm, đồ mây tre, lụa tơ tằm... Tạo ra các mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao. * Ngành thương nghiệp: những năm gần đây không những nước ta mở rộng các hình thức buôn bán trong nước mà còn mở rộng quan hệ kinh tế buôn bán với nước ngoài, đặc biệt là khu vực Đông Nam á. Năm 1995, sau khi Mỹ bỏ lệnh cấm vận kinh tế với nước ta thì nền kinh tế nước ta mở rộng ra toàn cầu. Luật đầu tư nước ngoài ngày càng thu về cho đất nước những hợp đồng kinh tế lớn, đó là 1644 dự án đầu tư được cấp giấy phép với tổng số vốn đầu tư gần 21,8 tỷ USD tính từ năm 1988 đến ngày 22/5/1996. Nhìn chung, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì nền kinh tế nước ta có sự phát triển vượt bậc với nhiều thành tựu to lớn đã phần nào đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Bên cạnh việc chỉ đạo đổi mới phát triển nền kinh tế, Đảng và Nhà nước ta cũng không quên tính khách quan, tính duy vật của kinh tế. Vì vậy. Đảng luôn đặt nền kinh tế vào trung tâm và so sánh nó với các mặt hoạt động khác của đời sống xã hội. Để trong sự tồn tại và phát triển của xã hội có sự nhịp nhàng, đồng bộ giữa các ngành, các lĩnh vực đảm bảo đưa đất nước phát triển đi lên ngang bằng với các nước trong khu vực và trên thế giới. Kinh tế phát triển đi đôi với văn hoá, giáo dục, y tế đảm bảo về mặt thể chất, dân trí cho nhân dân và giáo dục đạo đức tư tưởng cho học sinh, nâng cao sự hiểu biết về văn hoá truyền thống của dân tộc cho thế hệ trẻ. Đó là đường lối đúng đắn của Đảng theo quan điểm toàn diện triết học Mác - Lênin, đó là xem xét đánh giá một sự vật phải tìm ra các mối liên hệ vốn có của nó, đánh giá vai trò của từng mối liên hệ để thấy được các mặt, các yếu tố, thuộc tính của nó. b. Trong 10 năm thực hiện đổi mới kinh tế, bên cạnh những thành tựu nền kinh tế thị trường ở nước ta còn nhiều điểm hạn chế: + Trong lĩnh vực kinh tế, thị trường chưa tác động tốt đến đổi mới cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư. + Sự thay đổi châm chạp các chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng, tiền lương, thu nhập chính sách kinh tế đối ngoại hạn chế sự phát huy những thành tựu đáng khích lệ bước đầu. + Sự chuyển hoá trong tư duy và quan điểm kinh tế là khá rõ nhưng sự chuyển biến về học thuyết quản lý kinh tế, tổng kết đánh giá thực tiễn còn yếu kém. + Chưa đào tạo kỹ đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và quản trị doanh nghiệp thích ứng nhanh và có thể hoạt động lâu dài theo cơ chế thị trường. + Việc chuyển sang kinh tế thị trường cần phải có một Nhà nước pháp quyền mạnh. Nhưng Nhà nước, thể chế chính trị của ta còn chứa đựng nhiều yếu tố thiếu hoàn hảo, chưa thực hiện triệt để công bằng xã hội. Mối quan hệ và danh giới giữa sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước chưa rõ ràng, nạn tham những, lợi dụng chức quyền khá phổ biến làm sói mòn niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. + Nền kinh tế thị trường còn có nhiều điểm hạn chế về mặt xã hội như: Sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt, đạo đức con người bị suy giảm, các truyền thống tốt đẹp của dân tộc ít được phát huy. Đặc biệt là vấn đề việc làm, nạn thất nghiệp ngày càng lớn. Do đó nảy sinh ra các tệ nạn xã hội như: cờ bạc, rượu chè, mại dâm, ma tuý, trộm cắp, giết người cướp của... + Sự phát triển thiếu cân đối bộc lộ rõ nét trên các vùng lãnh thổ, giưa các vùng kinh tế, giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, vùng sâu vùng xa... Bên cạnh đó có việc quản lý nền kinh tế bằng công cụ là pháp luật vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Số đạo luật ban hành không ít nhưng khi áp dụng vào cuộc sống thì tác dụng của nó chưa đủ mạnh để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội vì khâu kiểm tra chấp hành kém. Như vậy, trong thời gian tới Đảng và Nhà nước ta cần vận động triệt để và có hiệu quả những quan điểm lý luận của triết học Mác - Lênin để từng bước khắc phục những mặt hạn chế trên. phần IIi: một số kiến nghị và giải pháp. 1 - Nền kinh tế các nước trên thế giới. Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam á nơi đang diễn ra các hoạt động kinh tế sôi nổi nhất. Từ thập kỷ 60 trong khu vực đã có những bước phát triển với tốc độ thần kỳ như: Hàn Quốc, Đài Loan, Singapo, Hong Kong, Malaixia, Thái Lan... Vì sao các nước này đã vươn lên trở thành nước công nghiệp mới phát triển ở Châu á, có nền sản xuất hàng xuất nhập khẩu cao cấp, hệ thống dịch vụ thương mại, tài chính, có sức mạnh trên thế giới?. Nhưng nguyên nhân đưa đến sự thành công của họ là những kinh nghiệm theo tôi nghĩ chúng ta nên tham khảo và học tập. * Về nguyên nhân khách quan. Sự thành công của các nước NIC trong khu vực đều bắt nguồn từ một số yếu tố thế giới. Singapo có vị trí địa lý kinh tế và trính trị chiến lược ở Đông Nam á nên không ngừng được các nưóc tư bản chủ nghĩa ủng hộ và giúp đỡ. Xét về mọi khía cạnh như xây dựng kết cấu hạ tầng, quân sự hay sản xuất, về đầu tư tư bản hay chuyển giao công nghệ, đoà tạo cán bộ... Nói chung các nước phương tây, trước hết là Mỹ Nhật. Nếu như Đài Loan, Nam Triều Tiên được hưởng nhiều hơn về viện trợ không hoàn lại của Mỹ và các khoản bồi thường cuả Nhật Bản thì Singapo được hưởng các cơ sở quân sự của Anh, sau khi Anh rút khỏi nước này vào năm 1971. Sự bành trướng kinh tế Nhật Bản xuống khu vực Đông Nam á cũng là một trong những yếu tố quan trọng tác động đến sự phát triển của Singapo, đặc biệt là đối với sự thay đổi công nghệ và sản xuất các mặt hàng cao cấp dành cho xuất khẩu. * Về nguyên nhân chủ quan. Yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành công của nước ta là ở chỗ Chính phủ đã tạo ra được một môi trường kinh doanh bên trong rất thuận lợi để từ đó tận dụng tới mức tối đa các cơ hội khách quan và đối phó một cách có hiệu quả với những thách thức từ bên trong và bên ngoài. Chính phủ đã sớm lựa chọn, theo dõi hệ thống kinh tế thị trường, định hướng ưu tiên sản xuất dành cho xuất khẩu. Ngay từ đầu, các nước này đã xác định thành phần kinh tế tư nhân là động lực chính thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Họ coi thành phần kinh tế tư nhân nước ngoài và các khoản đầu tư trực tiếp từ nước ngoài là yếu tố then chốt. Chính phủ sớm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn nhân văn trong nước dồi dào, trí thức cao, ở Singapo Chính phủ luôn luôn động viên những người lao động học tập theo người Nhật. Để cho các thành phần kinh tế hoạt động có hiệu quả nhất, phát huy tối đa ưu thế của mình Nhà nước cần có những quản lý chính sách vĩ mô phù hợp. Phát triển tòn diện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một công việc không phải toàn là đơn giản. Thành phần kinh tế Nhà nước phải giữu vai trò chủ đạo để đồng hoá các thành phần kinh tế khác theo định hưỡng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước không nên coi trọng hay coi nhẹ bất cứ một thành phần kinh tế nào vì mỗi thành phần kinh tế đều có ưu điểm của nó, nếu Nhà nước phát triển toàn diện các thành phần thì cũng có nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất một cách tối đa. Trong thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều bộ luật và pháp lệnh trong đó có những luật rất quan trọng đối với thành phần kinh tế. Nhưng nhìn chung, hệ thống pháp luật chưa đầy đủ, chưa có những bộ luật. đạo luật có tính chất xương sống như bộ luật hình sự, thương mại, lao động, luật doanh nghiệp Nhà nước, luật hợp tác xã. Trước mắt, Nhà nước cần ban hành sớm các bộ luật trên, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh. * Về chính sách tài chính. Để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, nhà nước nên dùng một số phần thích đáng ngân sách để đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng, điều tra thăm dò tài nguyên, xây dựng các khu chế xuất, các vùng kinh tế mới cho các hoạt động cung cấp thông tin, dự báo thị trường trong và ngoài nước. Trong chính sách thuế của nước ta hiện nay còn nhiều bất hợp lý, vừa thất thu, vừa lam thu (thuế chồng lên thuế), chưa công bằng giữa các thành phần kinh tế: Thuế lợi tức đối với thành phần kinh tế quốc doanh thấp hơn thành phần kinh tế ngoài quốc. Phương hướng chung của chúng ta là tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện chính sách thuế theo hướng mở rộng diện đánh thuế, hạ bớt mức thuế, thu hẹp độ chênh lệch giữa các mức thuế. Chúng ta đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá với chiến lược hướng ra xuất khẩu. Do đó cần phải có những chính sách ưu tiên, khuyến khích các thành phần kinh tế trong việc xuất khẩu không phân biệt quốc doanh hay ngoài quốc doanh. 2 - Một số kiến nghị và giải pháp của Đảng và Nhà nước ta để nâng cao sự phát triển nền kinh tế thị trường. Khi chúng ta nói đến định hướng xã hội chủ nghĩa, sự phát triển nền kinh tế xã hội và mục tiêu chúng ta vươn tới là dân giầu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh, thì rõ ràng Nhà nước ta chưa thể thoả mãn với những gì đã gặt hái được mà còn cần phải thường xuyên hoàn thiện, nâng cao năng lực quản lý vĩ mô nền kinh tế. Vì thế trướng mắt Đảng và Nhà nước ta cần phải giải quyết các vấn đề: 2.1 Tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hoá, đưa hoạt động kế hoạch và chiều sâu. Trong hoạt động của công tác kế hoạch hoá, bên cạnh việc tiếp tục nâng cao chất lượng của công tác dự báo kinh tế - xã hội và sử dụng chiến lược phát triển tổng thể nền kinh tế quốc dân cần chú trọng đúng mức đến việc sử dụng các chương trình mục tiêu như chống buôn lậu, cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, chương trình về huy động vốn để công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sử dụng ngân sách Nhà nước lành mạnh, các chương trình về chống thất thu thuế, củng cố kỷ luật tài chính và các hoạt động xã hội khác... Qua việc thự hiện chỉ thị số 406/TTG về việc cấm sản xuất buôn bán và đốt pháo nổ, việc thực hiện nghị định 36/CP về bảo đảm chật tự an toàn giao thông đô thị và nghị định 87/CP của chính phủ cho thấy nếu như có một chương trình mục tiêu đồng bộ, kết hợp các mục tiêu kinh tế với việc giải quyết các vấn đề xã hội thì rõ ràng sẽ thu được những kết quả tốt hơn. 2.2 Sử dụng rộng rãi nhưng có định hướng rõ ràng hệ thống các đòn bẩy kinh tế. Về nguyên tắc các đòn bảy kinh tế được sử dụng phải bảo đảm bám sát và thực hiện cho được cả hai mục tiêu cơ bản: Tăng trưởng kinh tế và định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đạt được mục tiêu đó, các đòn bảy kinh tế về tài chính, tiền tệ, giá cả phải

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVận dụng quan điểm toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn vào việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.DOC