MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Phần một: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC CHUYỂN ĐỔI SANG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
1. Quan điểm toàn diện trong triết học Mác-Lênin. 4
2. Khái niệm về kinh tế thị trường. 5
3. Việc vận dụng quan điểm toàn diện trong triết học Mác-Lêninh vào hoạt động kinh tế. 6
Phần hai: VIỆC CHUYỂN ĐỔI SANG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM. 8
1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. 8
2. Kinh tế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước ở Việt Nam. 13
3. ý kiến của bản thân. 21
KẾT LUẬN. 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO. 26
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1706 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vận dụng quan điểm toàn diện trong triết học Mác Lê Nin để phân tích quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1998).
3. Việc vận dụng quan điểm toàn diện trong triết học Mác - Lê nin vào hoạt động kinh tế
Mọi hệ thống kinh tế đều được tổ chức bằng cách này hay cách khác để huy động tối đa các nguồn lực của xã hội và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó nhằm sản xuất ra hàng hoá để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Chính vì vậy, vấn đề cơ bản của hoạt động kinh tế là làm thế nào để việc áp dụng các nguồn lực và tổ chức sản xuất tốt nhất, việc phân phối hàng hoá sản xuất ra phù hợp nhất, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của xã hội.
Theo quy luật chung của tồn tại thì lĩnh vực kinh tế cũng biện chứng. đó là: kinh tế luôn đòi hỏi các nhà hoạt động kinh tế phải tuân theo nguyên tắc toàn diện phát triển và lịch sử cụ thể trong vấn đề sản xuất như sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào. Tức hoạt động sao cho hiệu quả kinh tế đem lại là lớn nhất. Vậy làm thế nào để đáp ứng được yêu cầu đó.
Ta biết, khi lý luận của Triết học Mác Lênin chưa ra đời đã có những hoạt động kinh tế nhưng do chưa nắm bắt được các quy luật khách quan của thế giới nên các hoạt động kinh tế còn mò mẫm và bị các quy luật của tự nhiên chi phối dẫn ddến năng xuất lao động đạt được không cao. Từ khi triết học Mác Lênin ra đời. Các quan điểm đúng đắn của nó đã trở thành cơ sở lý luận làm kim chỉ nam cho lĩnh vực hoạt động kinh tế. Các nhà hoạt động kinh tế trên thế giới đã áp dụng quan điểm toàn diện trong triết học Mác Lênin hay chính là phép duy vật biện chứng vào thực tiễn hoạt động của mình. Nhờ có quan điểm toàn diện này, họ đã nắm bắt các quy luật khách quan của giới tự nhiên từ đó làm chủ các quy luật và biến các quy luật đó từ chỗ chi phối các hoạt động kinh tế đến chỗ bị các hoạt động kinh tế chi phối.
Lúc này các quy luật kinh tế lại trở thành yếu tố phục vụ con người. Việc vận dụng quan điểm toàn diện vào tổ chức quản lý kinh tế gồm một số nguyên lý cơ bản sau:
Một là: Trong nền kinh tế không có một sự kiện nào tồn tại trong trạng thái cô lập, tách rời với các sự kiện khác. Chính vì vậy khi xem xét các sự vật ta phải tìm ra được hết các mối liên hệ vốn có của nó.
Hai là: Các thị trường hàng hoá cụ thể không tồn tại trong trạng thái cô lập, tách rời nhau. Do đó ta cần phải biết phân loại, đánh giá các mối liên hệ để có thể điều chỉnh sao cho nền kinh tế đi đúng hướng.
Ba là: Bản thân nền kinh tế cũng không tồn tại trong trạng thái cô lập mà trong mối quan hệ quy định lẫn nhau giữa các lĩnh vực kinh tế - chính trị -ngoại giao, kinh tế - chính trị - đạo đức - tư tưởng, kinh tế - chính trị - khoa học - công nghệ.
Vậy mọi sự kiện kinh tế chỉ tồn tại trong biểu hiện với tư cách là nó trong mối quan hệ với những sự kiện khác. Các nhà tư bản phương tây đã biết vận dụng các nguyên lý trên vào quản lý kinh tế. Từ đó họ xây dựng nên nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đưa lại hiệu quả kinh tế rất cao làm cho nền kinh tế của các nước tư bản phát triển vượt bậc, tạo đà cho sự phát triển của thế giới. “ Như vậy sự hình thành, phát triển kinh tế hàng hoá là tất yếu đối với sự phát triển của xã hội”(1). Đến đây ta có thể khẳng định quan điểm toàn diện trong triết học Mác Lênin là hoàn toàn đúng đắn và có vai trò to lớn đối với lĩnh vực hoạt động kinh tế của con ngươì. đặc biệt là vai trò đó đã được phát huy tích cực trong nền kinh tế thị trường.
Phần II: Việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở việt nam
1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường.
a- Một số nét nổi bật của nền kinh tế nước ta trước khi chuyển sang kinh tế thị trường
Sau năm 1975 do vừa trải qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ nền kinh tế của nước ta bị tàn phá rất nặng nề về cơ sở hạ tầng. Kinh tế của đất nước chủ yếu dựa vào nông nghiệp nhưng nông nghiệp lại lạc hậu nghèo nàn. Vẫn cảnh “ con trâu đi trước cái cày theo sau”, đặc biệt là phương thức “ hợp tác hoá, tập thể hoá” đã tạo nên sức ỳ lớn và sự trì trệ trong kinh tế. Việc phân phối sản phẩm lao động theo khẩu hiệu: “ Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” dẫn đến sự ỉ lại của người lao động. Người lao động thường dựa dẫm trong công việc và không quan tâm đến năng xuất lao động.
Bên cạnh nền nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu là nền công nghiệp nhỏ bé, thấp kém, thiếu thốn về cơ sở vật chất, về nền tảng khoa học. Quy mô công nghiệp còn nhỏ bé và hoạt động yếu, do đó không thể làm tiền đề cho sự phát triển kinh tế. Mặt khác, ngành dịch vụ thì hầu như chưa phát triển. Sản phẩm sản xuất ra được phân phối bằng tem phiếu.
Không những cả nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu với cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp mà đất nước ta còn bị cấm vận kinh tế, đặc biệt là lệnh cấm vận kinh tế của Mỹ. Chính vì nậy, giai đoạn 1975-1985 nền kinh tế nước ta chậm phát triển. Những mâu thuẫn nội tại từ nền kinh tế nước ta đòi hỏi phải đổi mới nền kinh tế để thoát khỏi khủng hoảng và thúc đẩy các yếu tố sản xuất hàng hoá phát triển.
b- Chính sách đổi mới nền kinh tế của Đảng và Nhà nước
Tháng 2 năm 1986 tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI Đảng cộng sản Việt Nam đã tự phê phán nghiêm túc và đề ra đường lối đổi mới toàn diện xã hội. Đặc biệt là đổi mới về mặt kinh tế đó là chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tại sao Đảng và Nhà nước ta lại chủ trương chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường nhưng phải có sự quản lý của Nhà nước.
Chúng ta đã biết, cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị trường rất phức tạp bởi nó bị chi phối bởi hàng loạt các quy luật kinh tế đan xen chằng chịt. Cơ chế kinh tế thị trường với những ưu điểm như: Kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo các điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế. Từ đó làm cho nền kinh tế năng động và huy động các nguồn lực xã hội vào phát triển kinh tế. Sự cạnh tranh trong kinh tế thị trường buộc các nhà sản xuất phải tìm nọi cách giảm hao phí lao động cá biệt tới mức thấp nhất bằng cách áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào sản xuất từ đó nâng cao năng xuất lao động của toàn xã hội. Cơ chế kinh tế mềm dẻo, nó khả năng thích nghi cao và kịp thời hơn với những thay đổi diễn ra trong xã hội.
Lịch sử phát triển của sản xuất đã chứng minh rằng: Cơ chế thị trường là cơ chế điều tiết nền kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả cao. Song nó cũng không phải là hiện thân của sự hoàn hảo mà nó vốn có những khuyết tật, đặc biệt là về mặt xã hội. Có thể kể ra 1 só khuyết tật của cơ chế thị trường như: Cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo. Mục đích của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa do đó họ dễ lam dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là gây ra các tệ nạn xã hội làm tổn hại lớn đến truyền thống đạo đức dân tộc. Nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng.
Vậy cơ chế thị trường mặc dù là cơ chế kinh tế có hiệu quả song nó cũng có hàng loạt các khuyết tật kể trên.
Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rõ điều đó. Trên cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn, bằng việc áp dụng quan điểm toàn diện trong triết học và thực tiễn, bằng việc áp dụng quan điểm toàn diện trong triết học Mác -Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã xem xét cơ chế thị trường một cách tổng thể. đặt nó trong mối quan hệ vốn có của kinh tế thị trường. Xem xét từ những ưu điểm đến những nhược điểm, từ những thành tựu đạt được đến những thiếu sót, sai lầm trong nền kinh tế thị trường. Nhìn thấy quá trình hoạt động của các nước tư bản phương tây, thấy nó có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển mạnh và đạt được những thành tựu vĩ đại nhưng Đảng và nước ta không hề dập khuôn, máy móc áp dụng ngay nó vào Việt Nam. Mà các nhà lãnh đạo của ta còn nhận thức cả những khuyết điểm của cơ chế thị trường so sánh giữa cái được và cái mất. Đặc biệt Đảng và Nhà nước ta đã đặt nền kinh tế thị trường vào điều kiện hoàn cảnh của Việt Nam, xem xét, đánh giá, nhìn nhận nó dưới mọi góc độ, từ đó nắm vững bản chất của kinh tế thị trường với đầy đủ các mặt, các yếu tố và thuộc tính của nó.
Do vậy, trong quan điểm của Đảng ta để thực hiện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu dân giàu - nước mạnh - xã hội cong bằng - văn minh thì kinh tế thị trường nhất thiết phải có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hôị chủ nghĩa. Đến Đại hội toàn quốc lần thứ VII Đảng ta cũng đã khẳng định “ Xây dựng nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường nhất thiết phải có sự quản lý của Nhà nước . Từng bước kinh tế quốc doanh - kinh tế tập thể chiếm ưu thế về năng xuất, chất lượng, hiệu quả, qua đó giữ vị trí chi phối trong nền kinh tế”. (1)
Vậy thế nào là cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa hay cơ chế thị trường của chủ nghĩa xã hội.
Cơ chế thị trường dưới chủ nghĩa xã hội có một số dặc trưng sau:
Trước hết: Trong kinh tế thị trường dưới chủ nghĩa xã hội sở hữu quốc doanh và tập thể phải giữ vai trò chủ thể và chủ đạo chủ thể là chiếm tuyệt đại bộ phận về định lượng. Chủ đạo là giữ vị trí dẫn đường, hướng dẫn, định hướng, định tính.
Đặc trưng này đã phân biệt kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Mặt khác, tuy không thể cho rằng đã là sở hữu xã hội chủ nghĩa thì đều là sở hữu của công mà trong kinh tế thị trường các thành phần kinh tế và cơ cấu sở hữu có sự biến động, đan xen, pha trộn với nhau. Mỗi thành phần luôn cố gắng phát huy ưu thế của mình. Tuy nhiên trong đó thành phần kinh tế sở hữu xã hội chủ nghĩa phải đóng vai trò chủ đạo. Trong kinh tế thị trường củ chủ nghĩa xã hội hình thức phân phối là “ phân phối lao động” kết hợp với nhiều hình thức phân phối khác để thực hiện tốt mục tiêu “đảm bảo cân bằng giữa hiệu xuất và công bằng”. Việc đảng và Nhà nước đưa ra chính sách phân phối theo lao động là rất đúng đắn và phù hợp với quy luật khách quan. Phương pháp phân phối này là sự phủ định căn bản đối với chế độ người bóc lột người, mà xóa bỏ chế độ người bóc lột người, thực hiện quyền làm chủ của người lao động đối với tư liệu sản xuất là đặc trưng bản chất của kinh tế thị trường dưới chủ nghĩa xã hội. Nếu để các hình thức phân phối khác sẽ dễ gây sự phân hoá sâu sắc hai cực giàu nghèo trong xã hội. Qua đây ta thấy được sự sáng suốt của Đảng và nhà nước ta trong việc vân dụng quan điểm triết học và quản lý kinh tế xã hội. Đảng ta còn xác định: “Tất cả những gì để cho thị trường điều tiết là tốt thì để cho thị trường điều tiết. Nhà nước chỉ can thiệp khi thị trường có những biểu hiện tiêu cực cần ngăn chặn”(1). Chính vì vậy mà kinh tế thị trường ở nước ta nhất thiét phải có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Tăng cường, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định bảo đảm tính chất và định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển kinh tế thị trường cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước.
Để áp dụng vào thực hiện nền kinh tế thị trường của chủ nghĩa xã hội Đảng và Nhà nước ta đã đề ra một số biện pháp sau: Đảm bảo ổn định chính trị - xã hội và thiết lập hệ thống pháp luật, đây là nhiệm vụ cơ bản và lâu dài. Bởi vì xã hội ổn định về thể chế chính trị là nền tảng để phát triển kinh tế. Mà xã hội muốn đảm bảo trật tự công bằng thì phải có sự quản lý của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật. Bên cạnh đó đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định và hoạt động có hiệu quả. Tạo điều kiện tốt nhất cho các thành phần kinh tế tự do hoạt động trong khuôn khổ quản lý của Nhà nước. Đặc biệt, tạo điều kiện cho kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể phát triển. Một biện pháp hữu hiệu và cơ bản xã hội. Vì chỉ trong môi trường xã hội công bằng, chính trị ổn định mọi người mới yên tam lao động và hoạt động kinh tế.
2. Kinh tế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước ở Việt Nam.
Những thành tựu - hạn chế và biện pháp khắc phục.
Nhờ chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng trong hơn 10 năm thực hiện đổi mới nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong tất cả các ngành, các thành phần kinh tế.
Trong nông nghiệp: Từ một nền nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu hiện nay nông nghiệp nước ta đã có nhiều đổi mới. Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá dưa máy móc vào sản xuất nông nghiệp giải phóng dần sức lao động của người dân. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật, đưa phân bón, thuốc trừ sâu, các giống lúa mới, kỹ thuật canh tác mới vào sản xuất đã nâng cao năng xuất lao động.
Sản lượng nông nghiệp không những đã đáp ứng nhu cầu của người dân mà còn dư thừa để xuất khẩu. Thành tựu to lớn phải kể đến là nước ta đứng thứ 3 trên thế giới về xuất khẩu gạo.
Trong công nghiệp: Từ một nền công nghiệp nhỏ bé, hiện nay công nghiệp nước ta đã đóng vai trò to lớn trong nền kinh tế của đất nước. Nhiều trung tâm công nghiệp và vùng công nghiệp ra đời. Nhiều nhà máy lớn với máy móc thiết bị hiện đại được xây dựng và không ngừng phát triển. Nếu như trước đây ta chỉ có một số ngành công nghiệp như khai khoáng - đóng tàu, công nghiệp dệt, may... thì hiện nay đã phát triển thêm các ngành công nghiệp mới như: chế tao máy, công nghiệp chế biến thực phẩm, công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng, công nghiệp điện tử, công nghiệp thực phẩm, khai thác dầu thô ... Đặc biệt, hiện nay đang xây dựng và sắp hoàn thành một nhà máy chế biến dầu thô ở Dung Quất - Quảng Ngãi, đây là nhà máy lọc dầu lớn vào loại nhất ở khu vực Đông Nam á.
Ngành du lịch và dịch vụ trong những năm gần đây rất phát triển đem lại thu nhập lớn cho nền kinh tế quốc dân. Các khu du lịch noỏi tiếng, các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử được bảo tồn, tôn tạo hàng năm thu hút lượng du khách rất lớn cả ở trong nước và trên quốc tế. Các loại hình dịch vụ đều được đổi mới và phát triển hơn.
Ngành giao thông vận tải đáp ứng khá đầy đủ nhu cầu củ nền kinh tế. Hệ thống cầu đường được nâng cấp và sửa chữa nhiều. Xây dựng thêm nhiều tuyến đường và cầu phà, đảm bảo cho sự lưu thông được nhanh chóng, phù hợp với tốc đọ vận động củ kinh tế thị trường, Không những phát triển giao thông đường bộ mà cả giao thông đường thuỷ, đường hàng không cũng đều có những bước phát triển đáng kể.
Đối với thủ công nghiệp, các nghề thủ công truyền thống được khôi phục và phát triển như: dệt thổ cẩm, đồ mây tre, lụa tơ tằm, khảm trai, đục đẽo, may áo dài, may nón ... tạo ra các mặt hàng xuất khẩu có gía trị.
Trong thương nghiệp: Những năm gần đây nước ta không những mở rộng các hình thức buôn bán trong nước mà còn mở rộng quan hệ kinh tế, buôn bán với nước ngoài. Đặc biệt là các nước trong khu vực Đông Nam á. Năm 1995, sau khi Mỹ tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận kinh tế đối với nước ta thì sự giao lưu kinh tế càng được mở rộng và vượt ra trên toàn cầu. Luật đầu tư nước ngoài với những điểm tạo điều kiện thuận lợi cho phía đầu tư đã ngày càng thu về cho đất nước những hợp đồng kinh tế quan trọng. Thật đáng mừng với con số 1644 dự án đầu tư được cấp giấy phép với tổng số vốn đầu tư gần 21,8 tỷ usd tính tư năm 1998 đến 22-5-1996..
Nhìn chung, từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì nền kinh tế nước ta có sự phát triển vượt bậc với nhiều thành tựu to lớn đã phần nào thoả mãn nhu cầu của nhân dân.
Bên cạnh việc chỉ đạo việc đổi mới và phát triển kinh tế Đảng và Nhà nước ta cũng không quên tính khách quan tính duy vật của kinh tế. Vì vậy Đảng luôn đặt nền kinh tế vào trung tâm và so sánh với các mặt hoạt động khác của đời sống xã hội. Để trong sự tồn tại và phát triển của xã hội có sự nhịp nhàng, đồng bộ giữa các ngành, các lĩnh vực, đảm bảo đư đát nước phát triển đi lên với tư thế vững chắc, an toàn và có hiệu quả.
Ta đã biết, công bằng xã hội là một đặc trưng cơ bản của xã hội mới, là ước mơ, khát vọng củ nhân dân, là động lực thúc đẩy mọi người vươn lên trong cuộc sống. Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết về con đường và các hình thức giải phóng toàn diện con người khỏi mọi sự áp bức bóc lột và cao hơn là học thuyết hướng tới công bằng xã hội. Vấn đề đặt ra là chế độ xã hội chủ nghĩa có thể sử dụng kinh tế thị trường để phát triển sản xuất đồng thời có các biện pháp để đảm bảo công bằng xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được không. Thực ra giải pháp đúng đắn cho vấn đề kinh tế thị trường và công bằng xã hội đã được đảng ta đề ra đại hội VI và được khẳng định dứt khoát hơn, cụ thể hoá hơn 1 bước trong Đại hội VII.
Thực hiện chủ trương của Đảng, các nhà lãnh đạo của Nhà nước ta luôn vạch ra đường lối chỉ đạo để cho các hoạt động kinh t6ế diẽen ra trong xã hội theo đúng quy luật, đồng thời đảm bảo tối đa sự công bằng xã hội. Một số giải pháp mà Đảng và Nhà nước ta thực hiện là: Bên cạnh việc phát triển hữu ích nhất cơ chế kinh tế thị trường là các chính sách đẩy mạnh khoa học kỹ thuật, khuyến khích tài năng sáng chế, phát minh bảo vệ môi trường. Chống buôn lậu, làm hàng giả trốn thuế và lậu thuế. Nhà nước định hướng cho nền inh tế phát triển bằng các công cụ kế hoạch tài chính tín dụng tổ chức thông tin về thị trường trong nước và nước ngoài một cách rộng rãi và kịp thời. Xây dựng hệ thống pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cơ chế thị trường cạnh tranh với nhau một cách lành mạnh, chống độc quyền, chống làm hàng giả, buôn lậu ... Kinh tế phát triển đi đôi với văn hoá, giáo dục, y tế. Đảm bảo việc nâng có trình độ dân trí và đảm bảo về mặt thể chất cho nhân dân, nhất là lực lượng lao động xã hội và trẻ em nhằm tạo nguồn lao động khoẻ mạnh, có trình độ, có tay nghề trong tương lai. Bên cạnh việc giáo dục văn hoá đồng thời phải giáo duc đạo đực tư tưởng cho học sinh. Nâng có sự hiểu biết về văn hoá truyền thống của dân tộc cho thế hệ trẻ. Luôn giữ gìn và phát huy tinh hoa văn hoá dân tộc từ đó hình thành trong tư tưởng thế hệ trẻ lòng yêu nước, yêu đân tộc làm tiền đề cho sự ổn định và phát triển của xã hội sau này.
Đảng và Nhà nước còn đưa ra hàng loạt chính sách nhân đạo như xây dựng trường học - bện viện cho người nghèo. Xây dựng các làng trẻ cho trẻ em cơ nhỡ, các trung tâm điều dưỡng cho người già, thương binh, những người bị tai nạn lao động. Xây dựng chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm lao động cho toàn dân. Thực hiện các biện pháp giải quyến việc làm cho người lao động. Không những phát triển kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội mà còn phải coi trọng vấn đề an ninh quốc phòng. Mặc dù đang là đất nước độc lập, tự do nhưng Nhà nước ta vẫn luôn củng cố xây dựng quốc phòng toàn dân. Cảnh giác với mọi thế lực thù địch luôn tìm cách chống phá cách mạng và lật đổ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không ngừng tuyên truyền, giáo dục tư tưởng chính trị cách mạng cho nhân dân, xây dựng lòng tin cho nhân dân vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và sự quản lý có hiệu lực của Nhà nước.
Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước không chỉ là hoạt động kinh tế bó hẹp trong nước mà phải tham gia vào các quan hệ kinh tế quốc tế.
Đó là các đừơng lối chỉ đạo đúng đắn của Đảng theo quan điểm toàn diện trong triết học Mác-Lênin. Đó là xem xét, đánh giá một sự vật phải tìm ra tất cả các mối quan hệ vốn có của nó đồng thời có sự phân loại, đánh giá vai trò của từng mối liên hệ để thấy được các mặt, các yếu tố, các thuộc tính của sự vật. Liên hệ giữa nền kinh tế thị trường của nước ta với nền kinh tế trên thế giới là mối liên hệ cơ bản và quan trọng. Để phát triển thì nhất thiết phải có sự giao lưu kinh tế với quốc tế. Điều này do bản chất tất yếu của kinh tế thị trường quyết định. Đây là quy luật khách quan của thế giới.
Những thành tựu kể trên là kết quả đạt được trong hơn 10 năm chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở nước ta là kết quả đáng mừng nhưng vẫn còn rất nhỏ bé so với sự phát triển của thế giới. Từ đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải tiếp tục phát huy trong thời gian tới.
Không chỉ đạt được những thành tựu mà trong 10 năm thực hiện đổi mới kinh tế, nền kinh tế thị trường ở nước ta cũng còn rất nhiều điểm hạn chế, cụ thể:
Trong lĩnh vực kinh tế, thị trường chưa tác động tốt đều đổi mới cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư. Sự thay đổi chậm chạp các chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng, tiền lương và thu nhập. Chính sách kinh tế đối ngoại hạn chế sự phát huy những quá trình mang tính quy luật và bước đi của quá trình chuyển đổi kinh tế chưa được vạch ra dẫn đến không thể hiện nhất quán chủ trương, chính sách trong nhiều giai đoạn của sự phát triển. Sự chuyển hoá trong tư duy và quan điểm kinh tế là khá rõ nhưng sự chuyển biểu về kỷ luật kinh tế về học thuyến quản lý kinh tế còn rất yếu kém, chậm tổng kết, đánh giá thực tiễn. Chưa đào tạo kỹ một đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và quản trị doanh nghiệp thích ứng nhanh và có thể hoạt động lâu dài theo cơ chế thị trường.
Việc chuyển sang kinh tế thị trường đòi hỏi phải có một Nhà nước pháp quyền mạnh, nhưng Nhà nước, thể chế chính trị của ta còn chứa dựng nhiều yếu tố thiếu hoàn hảo. Chưa thực hiện triệt để công bằng xã hội. Mối quan hệ và ranh giới giữa sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước chưa rõ ràng. Nạn tham nhũng, lợi dụng chức quyền khá phổ biến làm xói mòn niềm tin của quần chúng nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Nền kinh tế thị trường còn có những điểm hạn chế về mặt xã hội như: Sự phân hoá giàu nghèo ngày càng lớn. Đạo đức con người bị suy giảm. Các truyền thống tốt đẹp củ dân tộc có nguy cơ không được phát huy. Đặc biệt là vấn đề việc làm. Nạn thất nghiệp làm cho nhiều ngeời không có việc làm. Đó cũng chính là nguyên nhân làm nảy sinh hàng loạt các tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, mại dâm, ma tuý, trộm cắp, cướp giật .v.v... Như vậy trong thời gian tới Đảng và Nhà nước ta cần vận dụng triệt để và có hiệu quả những quan ddiểm, lý luận của Triết học Mác-Lênin để từng bước khắc phục những mặt hạn chế nói trên.
Hiện nay Đảng và Nhà nước đã đề ra hàng loạt các biện pháp thực hiện nhằm định hướng cho nền kinh tế thị trường đạt được kết quả cao nhất mà vẫn đảm bảo công bằng xã hội như : Xác định rõ nội dung - mục tiêu và bước đi của quá trình chuyển sang kinh tế thị trường và vẫn giữ định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục xây dựng các chủ thể tự do và tự chủ kinh doanh theo Pháp luật phát huy đầy đủ hiệu lực của kế hoạch kinh tế vĩ mô. Phát huy đầy đủ vai trò của các đòn bẩy kinh tế. Củng cố và phát triển kinh tế quốc doanh, hình thành quỹ dự trữ, tổ chức thông tin... Xử lý tốt mối quan hệ giữa hai cơ chế điều tiết, điều tiết kế hoạch và điều tiết thị trường . Tập trung đổi mới sự quản lý của Nhà nước, vận dụng cơ cấu pháp luật vào quản lý xã hội. Từng bước xây dựng và củng cố hệ thống pháp luật đồng thời thực thi có hiệu lực hệ thống pháp luật. Nhanh chóng giải quyết vấn đề việc làm trong xã hội. Xây dựng các chính sách để thu hút lực lượng lao động nhất là lao động có trình độ, có tay nghề. Đặc biệt phải giải quyết tốt các tệ nạn xã hội. Từng bước thực hiện công bằng hoạt động và phát triển.
Ngày nay, kinh tế thị trường chịu sự tác động tích cực của chế độ chính trị, của Nhà nước, của Đảng cầm quyền và hệ thống chính trị của đất nước. Trở thành một phương tiện của Nhà nước để phát triển kinh tế theo những mục tiêu nhất định đã đề ra. Nhận thức rõ điều đó Đảng và Nhà nước ta luôn xác định: “Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một chủ trương đúng đắn và sáng suốt để giải phóng sức sản xuất, phát huy khả năng sáng tạo của người lao động. Từ đó Đảng và Nhà nước luôn từng bước xem xét tổng kết, đánh giá những kết quả đat được trong thời gian chuyển sang nền kinh tế thị trường. Đồng thời rút ra kinh nghiệm và đề ra phường hướng, biện pháp để tiếp tục quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế mới. Đối mới công tác quản lý Nhà nước nói chung và đổi mới công tác quản lý vĩ mô nền kinh tế nói riêng là vấn đề then chốt quyết định sự thành bại của quá trình phát triển kinh tế ở nước ta. Để giải quyết vấn đề đó quản lý kinh tế cần xuất phát từ các quan điểm sau:
Tiếp tục hoạt động kinh tế theo cơ chế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần hiểu rõ, cơ cấu kinh tế thị trường nếu không có định hướng xã hội chủ nghĩa hoặc định hướng kém hiệu lực thì sẽ không có xã hội chủ nghĩa. Vì vậy cần phát triển đồng bộ các thành phần kinh tế. Xoá bỏ chế độ bao cấp trong phân phối, sử dụng các yếu tố sản xuất và vật phẩm tiêu dùng, chuyển chúng sang quan hệ tiền tệ - hàng hoá hoàn toàn. Tuân thủ nguyên tắc tự do giá cả. Bên cạnh đó, luôn coi trọng thị trường nông thôn và lấy hoạt động xuất nhập khẩu làm đòn bây. Khuyến khích phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. áp dụng nguyên lý lợi thế trong quan hệ trao đổi quốc tế. Tiếp tục đổi với sự quản lý của Nhà nước bằng việc từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật. Phân định ranh giới giữa quản lý Nhà nước và quản lý kinh doanh. Can thiệp vào thị trường chủ yếu bằng chính sách và pháp luật, đề cao vai trò tổ chức, hướng dẫn và giám sát. Đặc biệt chú ý mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Thu hút vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam. Đề ra các biện pháp nhằm thực hiện công bằng xã hội. Hướng tới mục tiêu của xã hội. Xã hội chủ nghĩa đó là “dân giàu - nước mạnh - xã hội công bằng văn minh” với một Nhà nước của dân do dân và vì dân, do Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý. Từng bước phát triển và hoàn thiện các hệ thống giáo dục - y tế, văn hoá - khoa học kỹ thuật ... nhằm nâng cao dân trí. Từng bước làm giảm các tệ nạn xã hội. Thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho người lao động các chính s
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35226.doc