Tiểu luận Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất vào việc phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay

Trước năm 1986, cơ chế nền kinh tế nước ta vẫn còn quan liêu, bao cấp. Vì thế nó kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất vật chất, tạo cho con người thói ỷ lại. Do đó, nền kinh tế nước ta lúc bấy giờ là nền kinh tế lạc hậu, trì trệ và kém phát triển.

So với các nước phát triển trên thế giới lúc bấy giờ thì nền kinh tế nước ta đã tụt hậu xa. Trước tình hình đó đặt ra cho Đảng và nhà nước ta yêu cầu cấp bách là phải có một chính sách kinh tế sao cho phù hợp với yêu cầu của thời đại và thúc đẩy được sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển.

Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976) đã vạch ra đường lối rằng: “đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước nhà, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội , đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên thành sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới”( Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần IV, nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1976, tr.32

 

 

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 17847 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất vào việc phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ối so với sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định các quan hệ khác. Địa vị kinh tế của các tập đoàn người trong sản xuất và trong phân phối sản phẩm đều do chế độ sở hữu và các hình thức chiếm hữu đối với tư liệu sản xuất quy định. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người đã từng tồn tại hai loại hình sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất :sở hữu tư nhân (tư hữu) và sở hữu công cộng (công hữu). Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít người , còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Do đó quan hệ giữa người với người là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của công đồng. Các hình thức sở hữu đó quy định các mối quan hệ về tổ chức quản lí và phân phối sản phẩm, quy định những nét đặc thù của quan hệ kinh tế . Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do quan hệ sở hữu quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên có trường hợp, quan hệ tổ chức và quản lý không thích hợp với quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu. Trong sự tác động lẫn nhau của các quan hệ cấu thành quan hệ sản xuất, quan hệ về tổ chức quản lý và quan hệ phân phối có vai trò rất quan trọng. Quan hệ tổ chức, quản lý và quan hệ phân phối có thể góp phần củng cố phát triển quan hệ sản xuatá, cũng có thể làm xói mòn, biến dạng quan hệ sở hữu. Quan hệ sản xuất mang tính ổn định tương đối trong bản chất xã hội và mang tính phong phú, đa dạng trong hình thức biểu hiện. 2. Quy luật “Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai măït của phương thức sản xuất , chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cánh biện chứng, tạo thành quy luật, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ bản nhất của sự vận động và phát triển xã hội. Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Ph. Aêngghen viết: “… giai cấp tư sản … không thể biến những tư liệu sản xuất ấy thành những lực lượng sản xuất hùng mạnh mà lại không biến chúng thành những tư liệu sản xuất xã hội , chỉ có thể được sử dụng chung bởi một số đông người”. C.Mác và Aêngghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.373 Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đọan lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kĩ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. Trình độ phân công lao động biểu hiện trình độ của lực lượng sản xuất ở một giai đoạn nhất định của lịch sử sản xuất vật chất. Gắn liền với một trình độ của lực lượng sản xuất là một tính chất của lực lượng sản xuất. Một tình trạng nhất định của lực lượng sản xuất nói lên cả tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Khi còn sản xuất với những công cụ thủ công, lực lượng sản xuất mang tính chất cá nhân. Nó thể hiện tính chất của tư liệu sản xuất là sử dụng công cụ thủ công và tính chất lao động là riêng rẽ, tách rời nhau. Khi sản xuất bằng máy ra đời, lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa. Nó thể hiện tính chất của tư liệu sản xuất là sử dụng máy móc và tính chất của lao động là do nhiều người sử dụng tư liệu sản xuất ấy theo kiểu phân công mỗi người một bộ phận; sản phẩm làm ra là kết quả hiệp tác của nhiều người. Chỉ đến nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất mới đạt tới tính chất xã hội hóa. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Đó là sự kết hợp đúng đắn giữa các yêùu tố cấu thành quan hệ sản xuất; giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất đem lại những phương thức liên kết có hiệu quả cao giữa người lao động với tư liệu sản xuất. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất cũng ra đời theo. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất. Trong đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều này có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một các tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó. Quan hệ sản xuất được hình thành, đựợc biến đổi, phát triển dưới ảnh hưởng quyết định của lực lượng sản xuất Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lúc này, quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích”của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình đôï phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế. Khi lực lượng sản xuất ở trình độ thấp, công cụ lao động còn thô sơ thì quan hệ sản xuất lúc nàylà quan hệ dựa trên chế độ công xã nguyên thủy. Nhưng với sự ra đời của công cụ bằng kim loại, thủ công với con người lao động đã biết trồng trọt và chăn nuôi, năng suất lao động ngay càng cao hơn,loài người bắt đầu sản xuất ra những sản phẩm thặng dư. Do đó quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công xã nguyên thủy bị tan rã và thay vào đó là quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu chủ nô ra đời. Sự xuất hiện của quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu chủ nô bước đầu phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất lúc bấy giờ đã làm cho quan hệ sản xuất phát triển. Nhưng, loài người vẫn tiếp tục cải tiến công cụ lao động, phát triển lực lượng sản xuất; đất đai ngày càng được khai phá nhiều hơn, cùng với đó là sự xuất hiện của nhiều ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp mới, với sự giao lưu buôn bán các sản phẩm làm ra phát triển hơn. Vì thế, quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu chủ nô không còn phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất nữa, lúc này quan hệ xuất hiện sự đòi hỏi phải thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới dựa trên chế độ tư hữu địa chủ. Tuy nhiên lực lượng sản xuất không chỉ dừng lại ở đó. Loài người vẫn tiếp tục cải tiến công cụ lao động, phát triển lực lượng sản xuất. Khi công cụ lao động bằng máy móc ra đời cùng với lao động là những người công nhân trong các nhà máy, xí nghiệp, phân công lao động mang tính xã hội. Vì thế, quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa ra đời. Điều này đã đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất đạt tới trình độ chuyên môn hóa và xã hội hóa cao. Đến lượt nó lại mâu thuẫn gay gắtvới quan hệ sản xuất dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Để giải quyết mâu thuẫn này tất yếu phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ và xác lập quan hệ sản xuất mới. Như vậy, sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là sự phù hợp trong mâu thuẫn; mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất là nội dung thường xuyên biến đổi (động) với quan hệ sản xuất là hình thức xã hội lại tương đối ổn định (tĩnh). Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, khuynh hướng phát triển của quan hệ lợi ích; từ đó hình thành một hệ thống các yếu tố thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tác dụng đó chỉ mang tính tương đối. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình đôï phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Với sự phát triển là tất yếu, khách quan của lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất lỗi thời cuối cùng sẽ bị thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình đôï phát triển mới của lực lượng sản xuất. Tuy vậy khi mâu thuẫn khách quan giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã bộc lộ gay gắt và đòi hỏi con người phải giải quyết nhưng con người không phát hiện ra, hoặc phát hiện mà không giải quyết được mâu thuẫn, hoặc do những sai lầm chủ quan trong quá trình giải quyết mâu thuẫn v.v.thì tác dụng kìm hãm của quan hệ sản xuất sẽ trở thành nhân tố phá hoại đối với lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất không phải giản đơn. Nó phải thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội. Chính vì thế, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất. II- VẬN DỤNG QUY LUẬT “QUAN HỆ SẢN XUẤT PHẢI PHÙ HỢP VỚI TÍNH CHẤT VÀ TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT” VÀO VIỆC PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. Biện chững giữa quy luật mối quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có tác động mạnh mẽ vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Lý luận và thực tiễn cho chúng ta thấy, lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có một quan hệ sản xuất phù hợp với nó. 1. Thực trạng đất nước ta trước khi Đảng tiến hành đổi mới (từ năm 1986 trở về trước) Trước năm 1986, cơ chế nền kinh tế nước ta vẫn còn quan liêu, bao cấp. Vì thế nó kìm hãm sự phát triển của nền sản xuất vật chất, tạo cho con người thói ỷ lại. Do đó, nền kinh tế nước ta lúc bấy giờ là nền kinh tế lạc hậu, trì trệ và kém phát triển. So với các nước phát triển trên thế giới lúc bấy giờ thì nền kinh tế nước ta đã tụt hậu xa. Trước tình hình đó đặt ra cho Đảng và nhà nước ta yêu cầu cấp bách là phải có một chính sách kinh tế sao cho phù hợp với yêu cầu của thời đại và thúc đẩy được sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976) đã vạch ra đường lối rằng: “đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước nhà, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội , đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên thành sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới”( Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần IV, nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1976, tr.32 ). Với phương châm lãnh đạo sáng suốt của Đảng, nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế đáng kể. Tuy nhiên sai lầm của Đảng ta trong quyết định này đó là chưa xác định được chặng đường đầu tiên để tiến lên chủ nghĩa xã hội, nóng vội tả khuynh trong việc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở một nước vốn có nền nông nghiệp lạc hậu trải qua mấy chục năm chiến tranh , đất nước bị tàn phá nặng nề. Đến tháng 3/1982 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần V của Đảng đã đề ra nhiệm vụ chủ yếu về kinh tế-xã hội trong 5 năm: “Để chuyển biến cơ bản thực trạng kinh tế phải tạo cho được một lực lượng sản xuất mới, năng suất lao động xã hội cao hơn ngay trong khi chưa có nền công nhgiệp tương đối phát triển. Đồng thời phải đảm bảo sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất”. Đại hội đã có những bước tìm tòi trên con đường đi lên CNXH, trước hết là về mặt kinh tế. Song đại hội chưa thấy được sự cần thiết phải duy trì nền kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kì quá độ, chưa xác định được những quan điểm cụ thể về kết hợp kế hoạch với thị trường, công tác quản lí lưu thông, phân phối vẫn một chiều do kế hoạch nhà nước quyết định, chưa có những chính sách, giải pháp cụ thể và đồng bộ để giải phóng các lực lượng sản xuất trong nông nghiệp. Đi kèm những sai lầm trên là những quan điểm chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn trong việc thực hiện các kế hoạch 5 năm và các cuộc cải cách. Đặc biệt là sai lầm trong cuộc cải cách giá, tiền lương được tiến hành lần 2 vào ngày 14-9-1985 đã dẫn đến tình trạng lạm phát “phi mã” trong 3 năm 1986-1988. Chính vì vậy, nhà nước đã phải lùi lại một bước , thực hiện chính sách 2 giá năm 1985. Đặc điểm của nền kinh tế nước ta lúc này là trì trệ, kém phát triển. Lực lượng sản xuất Việt Nam với trình độ chuyên môn thấp, công cụ lao động thô sơ chưa đạt đến trình độ tinh xảo, tổ chức quản lí không chặt chẽ , quy mô phân tán nhỏ hẹp. Phân phối sản phẩm còn theo cơ chế bao cấp tràn lan. Hậu quả là tách rời con người với tư liệu sản xuất, công cụ lao động bị phá hoại một cách nghiêm trọng, đời sống người dân thấp. Từ thực tế trên cho thấy tầm quan trọng của việc xác định đúng đắn mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, quy luật chi phối lẫn nhau của chúng. Qua đó vận dụng một cách đúng đắn và sáng tạo vào công cuộc đổi mới ở đất nước ta trong thời kì tiến lên CNXH. 2. Công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay. Sự đổ vỡ của sự nghiệp xây dựng CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu những năm 90 là tổn thất lớn nhất mà phong trào cộng sản gặp phải trong suốt hơn 150 năm qua. Sự đổ vỡ đó không chỉ trực tiếp đẩy hệ thống XHCN thế giới vào giai đoạn khó khăn chưa từng thấy trong lịch sử, mà quan trọng hơn đã cho thấy rõ lý luận về chủ nghĩa xã hội cồn tồn tại không ít vấn đề nan giải, liên quan đến vận mệnh của các nước XHCN còn lại nói riêng, xu thế phát triển của thế giới nói chung. Đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trước hết cần xác định rằng, phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp là tiêu điểm của cuộc đấu tranh giữa định hướng XHCN và con đường tự phát đi lên CNTB, đồng thời cũng là vấn đề phức tạp nhất cả về mặt lí luận cũng như trong thực tiễn. Cuộc đấu tranh đo ngày càng gay go phức tạp, đối với một nước từ nền kinh tế tiểu nông, lạc hậu quá độ lên CNXH như nước ta. Vấn đề đầu tiên của định hướng XHCN trong xây dựng các quan hệ sản xuất nằm trên bình diện lý luận về các quan hệ sản xuất trong thời kì quá độ, nhất là quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Những quan điểm lí luận giải quyết không đúng bản chất, vai trò của các mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân, cả theo hướng hữu khuynh và tả khuynh. Những lúng túng vì lệch lạc trong tư duy lý luận sẽ dẫn đến những vướng mắc trong xử lí , các quan hệ sở hữu , tổ chức quản lí, phân phối và tiêu dùng. Nếu không giải quyết không kịp thời sẽ dẫn đến chệch hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng và phát triển các quan hệ sản xuất. Cần phải chú ý rằng cơ sở khoa học của định hướng XHCN trong xây dựng là nhận thức đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mác đã dự đoán được rằng bộ phận trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp- cách mạng khoa học kĩ thuật. Ngày nay trước những đổi thay mạnh mẽ của các ngành khoa học, bộ phận này cần phải được mở rộng sang cả lĩnh vực công nghệ mới- cách mạng khoa học- kĩ thuật và công nghệ. Trong công cuộc đổi mới, kể từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Đại hội đã đề ra mục tiêu cụ thể về kinh tế xã hội như sau: “xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh và khu vực tập thể một cách toàn diện, cả về chế độ sở hữu, chế độ quản lí, chế độ phân phối làm cho thành phần kinh tế này giữ vai trò chi phối trong nền kinh tế quốc doanh, thể hiện tính ưu việt về năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, thu nhập của người lao động và tích lũy cho cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bằng những biện pháp thích hợp sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác nhau trong sự nghiệp liên kết chặt chẽ, dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa…” ( Đảng cộng sản Việt Nam, văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần VI, nxb chính trị quốc gia , Hà Nội, 1986, tr. 125,132 ). Yêu cầu đặt ra là phải bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư. Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa (XHCN), sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế. “muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với việc bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư, theo ngành và theo vùng phải xác định đúng cơ cấu thành phần kinh tế” Đảng cộng sản Việt Nam,Văn kiện đai hội đại biểu toàn quốc lần VI, nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1991 Giải pháp này xuất phát từ tình hình thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin “coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một vấn đề đặc trưng của thời kì quá độ. Mac Aêngghen cũng đã từng cho rằng “lực lượng sản xuất xét đến cùng đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi quan hệ sản xuất và do đó thay đổi các hình thái kinh tế xã hội”. Mac đã từng viết rằng: “ những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do đó có được những lực lượng sản xuất mới đã thay đổi những phương thức sản xuất của mình và do đó thay đổi được phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, thay đổi được tất cả quan hệ xã hội với mình” C.Mac và Aêngghen, toàn tập, nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995,tr.187 . Chính vì thế, những chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước hết phải xuất phát từ đặc trưng cụ thể của nền kinh tế, để từ đó đề ra những chủ trương biện pháp đúng đắn. Đảng đã chủ trương cải tạo XHCN, xây dựng XHCN phải tiến hành trên cả 3 mặt: xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lí và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa. Đảng xác định rõ, tuy chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là nền tảng của của quan hệ sản xuất mới nhưng khi chế độ quản lí và chế độ phân phối không phù hợp thì ngay cả các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu toàn dân, được trang bị kĩ thuật cao hơn cũng sẽ làm ăn kém hiệu quả. “Đẩy mạnh XHCN phải là mục tiêu thường xuyên, liên tục trong suốt thời kì quá độ lên CNXH với những hình thức và bước đi thích hợp làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn luôn có tác động thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”. Phát huy mạnh mẽ động lực khoa học kĩ thuật (KHKT) trong diều kiện thế giới đang tiến nhanh vào giai đoạn mới của cuộc cách mạng KHKT . và qua tình hình thực tế nước ta càng thấy rõ sự bức bách phải làm cho KHKT trở thành một động lực to lớn đẩy nhanh quá trình kĩ thuật xã hội của đất nước. Sự lựa chọn về phương hướng KHKT phải thống nhất với sự lựa chọn về mục tiêu, phương hướng XHCN. Trên cở sở các đường lối đúng đắn của Đại hội VI, tại đại hội VII, VIII và lần thứ IX, Đảng ta đã tiếp tục chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN. Bên cạnh đó là tiếp tục phát triển khoa học, công nghệ, góp phần đưa trình độ của lực lượng sản xuất tiến lên một bước cao hơn. Đối với nước ta, từ một nước nông nghiệp lạc hậu lại bị chiếân tranh tàn phá nặng nề, do vậy trong sự nghiệp xây dựng CHXH thì đi đôi với việc củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất thì điều cần thiết nhất là phải phát triển lực lượng sản xuất. Muốn phát triển lực lượng sản xuất thì không có con đường nào khác là công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước. Đảng đã khẳng định: “về thực chất CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản và toàn diện các họat động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế, xã hội. Chuyển từ lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao”. Đảng và nhà nước đã vận dụng một cách triệt để mối quan hệ biên chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để phát triển nền kinh tế nước nhà. Thấy được quy luật tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng, và từ đó áp dụng vào tình hình thực tế của nước ta, bước đầu tạo lập được sự kết dính giữa người lao động với tư liệu sản xuất, phát triển mạnh mẽ khoa học kĩ thuật, công nghệ hiện đại và tiên tiến vào quá trình sản xuất của xã hội. Qua đó nâng cao thu nhập người dân cũng như trình độ văn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuy luật sự phù hợp của sản xuất.doc
Tài liệu liên quan