Cơ sở để giải quyết mối quan hệ công dân – Nhà nước trong Nhà nước pháp quyền XHCN là vấn đề quyền và nghĩa vụ của tất cả mọi người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong đó Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ tôn trọng giá trị cao nhất là con người; Nhà nước đề ra pháp luật, đồng thời phải tuân thủ pháp luật và bảo đảm cho công dân được chống lại chính sự tuỳ tiện của Nhà nước. Điều đó có nghĩa là “Nhà nước phải tạo ra cho công dân sự bảo đảm rằng người ta không bị đòi hỏi cái ngoài hoặc trên những điều kiện quy định trong Hiến pháp và pháp luật” (2). Mặt khác, con người là mục tiêu và giá trị cao nhất. Do đó, Nhà nước phải đảm bảo cho công dân sự an toàn pháp lý, được hưởng các quyền và tự do cơ bản đó vi phạm, kể cả từ phía các cơ quan Nhà nước và những người có chức vụ. Chính vì vậy, một mặt Nhà nước đề ra pháp luật; mặt khác, chính Nhà nước, các cơ quan Nhà nước, những người có chức vụ đều có nghĩa vụ bắt buộc phải tuân thủ triệt để pháp luật, không có một tổ chức Nhà nước hoặc công chức nào được đặt mình đứng ngoài pháp luật, đứng trên pháp luật. Mọi người và mọi tổ chức hợp pháp đều bình đẳng trước pháp luật. Cùng với nguyên tắc này, Nhà nước ta tiến tới thực hiện nguyên tắc không cấm, tất nhiên phải trong khuôn khổ của nền đạo đức XHCN và tôn trọng lợi ích của xã hội và của người khác. Nguyên tắc này bảo đảm một mặt chống lại biểu hiện lộng quyền, lạm quyền và mặt khác chống những hành vi tự do, vô chính phủ.
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2877 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng Nhà nước trong công cuộc đổi mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộ, thống nhất trong triển khai, thực hiện của từng tổ chức, trong quản lý, điều hành của chính quyền; mở ra môi trường thuận lợi cho nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua sản xuất, kinh doanh, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, ổn định cuộc sống. Trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, việc xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ đã tạo môi trường thuận lợi để cán bộ, công chức, người lao động phát huy năng lực, trí tuệ, nâng cao trách nhiệm tham gia về hoạch định cơ chế, chính sách, tham gia giải quyết những vướng mắc, khó khăn trong sản xuất, kinh doanh v.v.. Đến nay, hầu hết các doanh nghiệp (có tổ chức công đoàn) đã tổ chức ký kết thỏa ước lao động tập thể. Nhiều doanh nghiệp đã ban hành bộ quy chế về tiêu chuẩn, quy trình, quy định, quy ước, nội quy của doanh nghiệp, thiết lập quan hệ lao động hài hòa hơn giữa người lao động với chủ doanh nghiệp; ý thức lao động của công nhân, người lao động tiếp tục được nâng lên.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, việc thực hiện Quy chế Dân chủ gắn với xây dựng và đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, xã hội như: tổ chức các lễ hội văn hóa truyền thống của làng, xã, lễ hội văn hóa vùng, miền, khu vực; lễ hội tôn vinh người có công, người vượt khó học giỏi; huy động sức dân xây dựng nhà văn hóa, các công trình văn hóa... Nhân dân tích cực thực hiện cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", "Xóa đói, giảm nghèo" và thực hiện tốt các chính sách xã hội, giúp đỡ các gia đình chính sách, gia đình có hoàn cảnh khó khăn ổn định và từng bước cải thiện cuộc sống. Hằng năm, nhiều địa phương đã công nhận trên 75% số gia đình đạt chuẩn văn hóa, 65% cơ quan, đơn vị đạt chuẩn văn hóa.
Bốn là, phát huy vai trò, trách nhiệm của ban chỉ đạo thực hiện Quy chế Dân chủ ở các ngành, các cấp; nâng cao chất lượng tham mưu cho cấp ủy, phối hợp chặt chẽ với chính quyền, các đoàn thể nhân dân trong xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Thường xuyên đề cao vai trò, trách nhiệm của các thành viên trong ban chỉ đạo, tiếp tục phân công theo dõi và trực tiếp giúp đỡ cơ sở, phát hiện và nhân rộng các điển hình tiên tiến, thí điểm việc xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở các loại hình cơ sở chưa thực hiện; kịp thời thay thế, bổ sung, kiện toàn ban chỉ đạo; sửa đổi, bổ sung quy chế, kinh phí hoạt động. Phối hợp với các cơ quan chính quyền, tập trung chỉ đạo, nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế Dân chủ và ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân, xây dựng xã hội đồng thuận, đoàn kết, giúp đỡ nhau, tạo sự đồng đều về kết quả xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở.
Năm là, phát huy dân chủ gắn với kỷ cương pháp luật, xử lý nghiêm minh đối với các vụ việc tiêu cực, tham nhũng, lãng phí; kiên quyết xử lý đối với những trường hợp lợi dụng các vấn đề dân chủ, dân tộc, tôn giáo chống phá Nhà nước ta, gây mất ổn định về an ninh, trật tự. Nâng cao ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước ở cơ sở, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao trách nhiệm, phẩm chất và năng lực của cán bộ, công chức để thực hiện các quy chế, quy định, quy trình công khai, dân chủ ở cơ sở. Phát huy dân chủ, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, nhân dân tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm, phát hiện, tố giác các vụ việc tiêu cực, tham nhũng, lãng phí; tham gia giám sát các vụ, việc vi phạm pháp luật và kết quả xử lý, giải quyết sau thanh tra. Phát huy sức mạnh đoàn kết trong cộng đồng dân cư, nêu cao tinh thần cảnh giác, tích cực tham gia ngăn chặn các tệ nạn xã hội; đấu tranh phòng, chống âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch trong và ngoài nước; vạch trần các thủ đoạn lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo... để chống đối; ngăn chặn các hành động gây rối, gây bạo loạn, gây mất ổn định an ninh, trật tự ở cơ sở.
Sáu là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Kiên trì chỉ đạo tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc từ cơ sở, đề cao trách nhiệm lãnh đạo trực tiếp của đảng ủy, chính quyền, của cán bộ, đảng viên, công chức ở cơ sở. Gắn xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở với xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện của các tổ chức, đơn vị; giám sát trách nhiệm, ý thức chấp hành và gương mẫu thực hiện của cán bộ, đảng viên, công chức; sơ kết, tổng kết và nhận diện kịp thời các điển hình thực hiện tốt Quy chế.
Những cấp ủy làm tốt việc phân công cán bộ có năng lực, trực tiếp tham gia ban chỉ đạo, định kỳ nghe ban chỉ đạo báo cáo; đồng thời, đề ra những giải pháp, tăng cường sự chỉ đạo đối với các ngành, các cấp; tổ chức cho cán bộ, công chức đi cơ sở, gặp gỡ, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở.
Các cấp ủy đã quan tâm chỉ đạo việc tổ chức lấy phiếu tín nhiệm các chức danh chủ chốt ở cấp xã do Hội đồng nhân dân bầu, góp phần ngăn chặn tình trạng quan liêu, nhũng nhiễu, cửa quyền, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực ở cơ sở. Đồng thời, không ngừng nâng cao ý thức, trách nhiệm phục vụ nhân dân của cán bộ, đảng viên và công chức, góp phần làm trong sạch nội bộ tổ chức đảng, nâng cao tinh thần đoàn kết, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị ở cơ sở.
Để tiếp tục nâng cao chất lượng về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, các ngành, các cấp cần tiếp tục quán triệt sâu sắc hơn nữa các quan điểm chỉ đạo của Trung ương, kiên quyết chỉ đạo và tổ chức thực hiện sâu rộng, đồng đều; tiếp tục tổng kết, đúc rút các bài học kinh nghiệm từ thực tiễn, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào đặc điểm của từng loại hình cơ sở một cách nền nếp, hiệu quả, góp phần tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị ở từng địa bàn, đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững của quê hương, đất nước.
2, Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu để xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân
2.1, Phương hướng thực hiện quy chế dân chủ để xây dựng nhà nước
Muốn thực hiện đúng phương châm chỉ đạo của Đảng theo tinh thần Chỉ thị số 30-CT/TW, để cho dân chủ trở thành nề nếp trong đời sống hàng ngày của xã hội phải quán triệt đầy đủ các quan điểm của Đảng, có sự thống nhất giữa chủ trương và chỉ đạo thực hiện. Đồng bộ cả ở cơ sở và cấp trên cơ sở trong cả hệ thống chính trị. Đồng thời phải coi việc thực hiện Quy chế dân chủ là một nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, thường xuyên và lâu dài của các tổ chức Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân; Phải gắn việc thực hiện Quy chế dân chủ với chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, cá nhân, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị.
Vì vậy phương hướng chung để thực hiện Quy chế dân chủ trong thời gian tới đã được Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ Trung ương nêu trong Báo cáo tổng kết sáu năm thực hiện Chỉ thị số 30/CT-TW của Bộ chính trị (khoáVIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở là:
Nắm vững quan điểm chỉ đạo của Chỉ thị số 30-CT/TW, nhận thức đúng về phát huy dân chủ của nhân dân, đề cao trách nhiệm lãnh đạo của Cấp uỷ đảng và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục trong các tầng lớp nhân dân, nghiêm túc thực hiện và mở rộng việc lấy ý kiến nhân dân tích cực thực hành dân chủ, quyết tâm đưa Quy chế dân chủ đi vào thực tiễn, tạo nên chuyển biến thực sự và trở thành phong trào của đông đảo quần chúng nhân dân ở cơ sở.
Gắn thực hiện Quy chế dân chủ với thực hiện các nhiệm vụ chính trị và xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở. Từng bước mở rộng dân chủ trực tiếp, nâng cao chất lượng dân chủ đại diện, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, tạo bầu không khí phấn khởi, tin tưởng, đoàn kết, đồng thuận trong cán bộ và nhân dân, tạo thế và động lực mới cho sự nghiệp phát triển bền vững và xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh. Cán bộ, đảng viên gương mẫu, sát dân, tổ chức để nhân dân bàn bạc, tháo gỡ những vấn đề bức xúc của đời sống xã hội.
Tạo sự thống nhất, phối hợp đồng bộ giữa Chính quyền với đề cao vai trò vận động, thuyết phục nhân dân và giám sát thực hiện của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân. Coi trọng việc thể chế hoá, xây dựng các quy chế, quy định phù hợp với từng loại hình cơ sở để nang cao chất lượng và hiệu quả việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Phát huy dân chủ gắn với kỷ cương, kỷ luật, xử lý nghiêm minh đối với các vụ việc tiêu cực, sai phạm đã phát hiện, đồng thời xử lý những hành vi lợi dụng dân chủ để gây rối làm mất ổn định an ninh, trật tự. Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước ở cơ sở.
Quan tâm củng cố, kiện toàn Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ đủ mạnh, nâng cao vai trò tham mưu, giúp Cấp uỷ chỉ đạo, kiểm tra và đôn đốc thực hiện Quy chế dân chủ ở tất cả các loại hình cơ sở, xây dựng quy chế hoạt động, chương trình công tác của Ban chỉ đạo. Tích cực phối hợp với các ban, ngành, có sự phân công trách nhiệm cụ thể, rành mạch cho từng đồng chí cán bộ, thành viên Ban chỉ đạo có như vậy việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở mới thực sự có hiệu quả và đi vào nề nếp.
2.2. Một số giải pháp để xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong Nhà nước đó, dân chủ đi đôi với kỷ cương trật tự, được thể chế hoá thành pháp luật, trong khuôn khổ của pháp luật. Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân biểu hiện trực tiếp sức mạnh của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là một nhà nước đại diện cho quyền lực chân chính của nhân dân; một tổ chức nhà nước dựa trên nền dân chủ, vì dân chủ và do đó bằng pháp luật và vì công lý. Để làm được những điều đó cần phải giải quyết tốt một số nội dung chủ yếu sau đây:
2.2.1. Đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân.
Để đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân, nhất thiết phải giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội, phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế… tất cả các yếu tố đó phải tiến hành đồng thời, nhưng phải ưu tiên cho những vấn đề kinh tế, chăm lo tốt hơn đến cuộc sống hạnh phúc và mọi nhu cầu phong phú, đa dạng của con người. Tất cả những điều đó phải dựa trên cơ sở của sự phát triển kinh tế, nhất là khi đất nước còn nghèo như hiện nay. Bởi vậy, nếu thoát ly sự tăng trưởng kinh tế, đặt ra những yêu cầu quá cao đối với các lĩnh vực văn hoá – xã hội là không thực tế. Nhưng cũng sẽ là sai lầm, nếu chỉ coi trọng phát triển kinh tế, lợi ích về văn hoá – xã hội của nhân dân. Thực tiễn những năm qua cho thấy nếu không chú trọng xây dựng và phát triển giáo dục, văn hoá, y tế, phúc lợi công cộng, để cho những mặt này yếu kém và xuống cấp thì chẳng những ảnh hưởng xấu tới việc chăm lo bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người, mà còn kìm hãm nguồn lực thúc đẩy kinh tế phát triển.
Nhân dân là người sáng tọ ra lịch sử cho nên nhân dân là nguồn gốc của quyền lực. Trong xã hộI XHCN, quyền lực Nhà nước được bắt nguồn từ nhân dân, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Vì vậy, trong công cuộc đổi mới Nhà nước hiện nay, phải ra sức phát triển và hoàn thiện chế độ đại diện, làm cho nó thực sự thể hiện bản chất nhân dân của Nhà nước ta. Một Nhà nước như vậy mới đảm bảo quyền con người sống trong hoà bình, độc lập, tự do; được quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình; được quyền có cuộc sống ấm no, bình đẳng và hạnh phúc. Tôn trọng quyền của mỗi con người (quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật, bình đẳng dân tộc, bình đẳng nam nữ, tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng cũng như các quyền tự do, dân chủ khác) phải gắn với nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi người trước đất nước và xã hội.
Muốn đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân, phải kiên quyết đấu tranh chống lại những hiện tượng vi phạm pháp luật mà nổi bật là tham nhũng và buôn lậu, xâm phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân; làm hàng giả, trốn – gian lận thuế… gây tổn thất lớn cho Nhà nước và nhân dân. Đó chính là tâm tư, nguyện vọng và cũng là đòi hỏi của nhân dân đối với Nhà nước, thông qua Nhà nước.
Việc của đất nước là việc của nhân dân. Vì vậy, cần phải tập hợp rộng rãi mọi lực lượng quần chúng nhân dân, phát huy đầy đủ khả năng và trí tuệ của toàn dân để cùng lo việc nước. Hơn nữa, mọi quyền hành chỉ thuộc về nhân dân khi có một cơ chế thích hợp để nhân dân có thể trực tiếp giám sát các hoạt động của Quốc hội và đại biểu Quốc hội, của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, cũng như giám sát mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước và viên chức Nhà nước. Phải có cơ chế thích hợp để cử tri có thể bày tỏ sự tín nhiệm hay bất tín nhiệm của mình đối với đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân mà mình bầu ra, tạo điều kiện để các đại biểu gắn bó hơn với cử tri, đề cao ý thức trách nhiệm của người đại diện nhân dân, phải luôn xứng đáng với sự tín nhiệm của dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.” (1) Muốn đảm bảo mọi lợi ích và quyền hành đều thuộc về nhân dân, phải chiến thắng được nghèo nàn và lạc hậu, phát triển kinh tế, văn hoá, cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ làm cho dân giàu, nước mạnh và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
2.2.2. Giải quyết mối quan hệ công dân – Nhà nước là mối quan hệ chính trị cơ bản để xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
Cơ sở để giải quyết mối quan hệ công dân – Nhà nước trong Nhà nước pháp quyền XHCN là vấn đề quyền và nghĩa vụ của tất cả mọi người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Trong đó Nhà nước pháp quyền có nghĩa vụ tôn trọng giá trị cao nhất là con người; Nhà nước đề ra pháp luật, đồng thời phải tuân thủ pháp luật và bảo đảm cho công dân được chống lại chính sự tuỳ tiện của Nhà nước. Điều đó có nghĩa là “Nhà nước phải tạo ra cho công dân sự bảo đảm rằng người ta không bị đòi hỏi cái ngoài hoặc trên những điều kiện quy định trong Hiến pháp và pháp luật” (2). Mặt khác, con người là mục tiêu và giá trị cao nhất. Do đó, Nhà nước phải đảm bảo cho công dân sự an toàn pháp lý, được hưởng các quyền và tự do cơ bản đó vi phạm, kể cả từ phía các cơ quan Nhà nước và những người có chức vụ. Chính vì vậy, một mặt Nhà nước đề ra pháp luật; mặt khác, chính Nhà nước, các cơ quan Nhà nước, những người có chức vụ đều có nghĩa vụ bắt buộc phải tuân thủ triệt để pháp luật, không có một tổ chức Nhà nước hoặc công chức nào được đặt mình đứng ngoài pháp luật, đứng trên pháp luật. Mọi người và mọi tổ chức hợp pháp đều bình đẳng trước pháp luật. Cùng với nguyên tắc này, Nhà nước ta tiến tới thực hiện nguyên tắc không cấm, tất nhiên phải trong khuôn khổ của nền đạo đức XHCN và tôn trọng lợi ích của xã hội và của người khác. Nguyên tắc này bảo đảm một mặt chống lại biểu hiện lộng quyền, lạm quyền và mặt khác chống những hành vi tự do, vô chính phủ.
Giải quyết mối quan hệ công dân – Nhà nước là xây dựng chế độ trách nhiệm qua lại giữa Nhà nước và công dân (cá nhân), tức là giữa một bên là người đại diện quyền lực Nhà nước và một bên vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quyền lực Nhà nước. Ở đây, Nhà nước xác định cho mình, cho các cơ quan Nhà nước và những người có chức vụ trách nhiệm pháp lý rõ ràng về các hành vi của họ. Công dân được đảm bảo quyền và khả năng bắt buộc cơ quan Nhà nước và những người có chức vụ phải chấp hành pháp luật, thực thi trách nhiệm của mình đối với họ.
Muốn giải quyết mối quan hệ giữa công dân và Nhà nước thì Nhà nước phải đặt mục tiêu của mình là phục vụ lợi ích chính đáng của dân. Hơn nữa, việc của đất nước là việc của dân, cho nên muốn làm việc của dân, cho nên muốn làm việc của đất nước thì phải tập hợp rộng rãi, phát huy khả đầy đủ năng và trí tuệ của toàn dân để cùng lo việc nước. Đồng thời phải xây dựng một cơ chế để nhân dân kiểm soát có hiệu quả đối với các cơ quan Nhà nước và nhân viên Nhà nước. Liên quan tới vấn đề này, phải từng bước hoàn thiện chế độ dân chủ đại diện, nhưng cần hết sức coi trọng việc phát huy quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân, tạo thành thói quen tốt trong sinh hoạt xã hội.
Nhà nước pháp quyền XHCN là Nhà nước của dân, do dân bầu ra. Do đó, một khi Nhà nước không còn vì dân, nghĩa là nó không đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng của nhân dân có quyền bày tỏ sự bất tín nhiệm đối với nói. Đó là cơ sở để Bác Hồ nói rằng: “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”. (3)
Trong các chế độ cũ, Nhà nước là bộ máy của giai cấp bóc lột dùng để thống trị và áp bức nhân dân; cho nên viên chức, quan lại tự xưng là cha mẹ dân, đè đầu cưỡi cổ dân. Trong chế độ dân chủ XHCN, người chủ Nhà nước là nhân dân; người cán bộ Nhà nước là do dân lựa chọn, được nhân dân ủy quyền là “công bộc”; làm cán bộ là “làm đầy tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan Cách mạng”(4). Trong các cơ quan Nhà nước, cán bộ vừa là lãnh đạo, vừa là người hướng dẫn của nhân dân. Do đó, “nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không có ai dẫn đường”(5). Chính vì vậy, trong Di chúc của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở cán bộ, Đảng viên phải làm thế nào để xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ của nhân dân. Là người đầy tớ, cán bộ phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ… Là người lãnh đạo thì phảI có trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi và trọng dụng những người hiền tài, đức độ. Bởi vậy, người thay mặt và người đại diện cho dân phải là người có đức, có tài, phải vừa “hiền” lại vừa “minh”.
2.2.3. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân và vì dân phải dựa trên truyền thống, đặc điểm dân tộc, nhất là truyền thống chính trị của đất nước.
Ngay từ khi Nhà nước Văn Lang được hình thành và qua hầu hết các triều đại phong kiến trước đây, trong không ít trường hợp chính quyền Nhà nước đã đóng vai trò tổ chức toàn thể dân tộc chống giặc ngoại xâm. Khi đó, Nhà nước đại diện cho quyền lợi cơ bản sống còn của cả dân tộc là độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Trong quan hệ với phong kiến Trung Hoa trước đây, Nhà nước Đại Việt về hình thức thì mềm dẻo, khôn khéo, nhưng mục tiêu bảo vệ độc lập tự chủ của quốc gia thì hết sức kiên định.
Trong hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc tổ chức bộ máy Nhà nước và chế độ quan chức của các triều đại nước ta tuy chịu ảnh hưởng của Nho giáo và Phật giáo, nhưng chúng vẫn được cải biên cho phù hợp với đặc điểm chính trị - xã hội Việt Nam và chịu ảnh hưởng của văn hoá bản địa từng tồn tại trước nó và cùng với nó. Suốt cả 10 thế kỷ ấy, ông cha ta đã đấu tranh chống Bắc thuộc, chống đồng hoá, giành độc lập dân tộc và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc; đồng thời cũng biết tiếp thu có chọn lọc những thành tựu chính trị - văn hoá của phong kiến phương Bắc để xây dựng Nhà nước độc lập tự chủ theo hình thức Nhà nước Trung ương tập quyền. Sự tiếp thu đó là một tất yếu lịch sử.
Trong suốt thời kỳ bị thực dân Pháp thống trị, dân tộc Việt Nam đã kiên cường đấu tranh nhằm giành độc lập dân tộc. Các phong trào yêu nước vào những năm cuối của thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX (như phong trào Cần Vương do các sỹ phu phong kiến yêu nước lãnh đạo nhằm tái dựng một Nhà nước quân chủ an ninh; phong trào Đông Du của Phan Bội Châu nhằm xây dựng một chính thể như nước Nhật tư sản – quân chủ nghị viện; phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục của Phan Chu Trinh nhằm thiết lập một quốc gia độc lập theo mô hình của Pháp - Cộng hoà đại nghị tư sản; phong trào của Việt Nam Quốc Dân Đảng theo gương của Cách mạng Tân Hợi Trung Quốc…) đều nhằm giải phóng dân tộc và thiết lập Nhà nước theo mô hình dân chủ tư sản. Mục tiêu của những phong trào đấu tranh trên đều không còn phù hợp với hoàn cảnh lịch sử đất nước nên bị thất bại.
Thắng lợi vẻ vang của Cách mạng tháng Tám năm 1945 do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã đưa lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung và lịch sử Nhà nước ta nói riêng bước sang một trang sử mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã có những đóng góp to lớn trong quá trình Cách mạng, xứng đáng là công cụ đắc lực của nhân dân trong công cuộc đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc, trong tổ chức và xây dựng cuộc sống mới, xã hội mới phù hợp với những truyền thống lịch sử và bản sắc dân tộc Việt Nam.
Ngày nay, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường với định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội; việc mở cửa đối với bên ngoài sau khi bình thường hoá quan hệ với Mỹ; những yêu cầu dân chủ hoá đời sống xã hội đang đòi hỏi bộ máy Nhà nước phải được đổi mới theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam không phải là quay lưng lại với quá khứ vẻ vang, xây dựng lại từ đầu một bộ máy Nhà nước theo một đường hướng khác, mà là kế thừa và nâng lên tầm cao mới những giá trị truyền thống của Nhà nước để xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
2.2.4. Xây dựng quyền lực Nhà nước của các công dân trên nền tảng một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện.
Tư tưởng về xây dựng quyền lực Nhà nước trong quan hệ xã hội của các công dân thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa quyền lực với pháp luật. Trong đó pháp luật là cơ sở để duy trì quyền lực Nhà nước, bản thân Nhà nước vừa là công cụ tổ chức của giai cấp, lại vừa là hình thức thực hiện quyền lực công khai. Vì vậy, Nhà nước chỉ có thể biểu hiện ý chí phổ biến và quyền lực công khai của mình đối với xã hội, với mọi công dân thông qua pháp luật. Xây dựng quyền lực Nhà nước trong quan hệ xã hội của các công dân là xây dựng một hệ thống pháp luật trên nền dân chủ thực sự, xuất phát từ nhân dân và vì nhân dân. Pháp luật phải định hướng mọi công dân và tổ chức xã hội vươn tới cái chân, thiện, mỹ, vươn tới tự do đích thực của con người. Để đạt được mục đích đó, pháp luật phải khách quan, công bằng, bình đẳng và dân chủ, lấy quyền con người, giải phóng con người làm trung tâm để xây dựng quyền lực Nhà nước. Quyền lực Nhà nước phải thuộc về nhân dân, phải thể hiện ý chí của nhân dân, là sự phản ánh khách quan các nhu cầu xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Mặt khác, khi đặt ra các thiết chế của mình trong khuôn khổ pháp luật, hoặc thiết lập cơ chế để kiểm tra tính hợp pháp, hợp hiến của các đạo luật, các cơ quan quyền lực Nhà nước cũng phải làm sao cho hệ thống pháp luật được xây dựng trên sự tự do và các quyền công dân được bảo đảm. Pháp luật XHCN thể hiện ý chí chung của xã hội, được bảo đảm bằng sức mạnh cộng đồng. Nhà nước tôn trọng pháp luật như một giá trị xã hội chung; đồng thời quyền lực Nhà nước là cơ sở, là tiến đề quan trọng nhất để bảo đảm cho pháp luật có được bản chất pháp lý của nó. Hệ thống pháp luật của Nhà nước luôn là chỗ dựa cho việc tổ chức và hoạt động của quyền lực làm giá đỡ cho việc xác định các mục tiêu của quyền lực Nhà nước là vì con người, vì xã hội của các công dân. Vì vậy, mọi thiết chế quyền lực Nhà nước phảI thực sự bảo đảm tính công bằng, bình đẳng và dân chủ của xã hội công dân. Bảo đảm trên nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Xây dựng quyền lực Nhà nước trong quan hệ với xã hội của các công dân là để bảo đảm cho mỗi công dân được hưởng những quyền tự do vốn có của họ và không thể bị tước bỏ. Nhưng sự tự do của mỗi công dân phải dẫn tới sự thống nhất của cả trật tự xã hội. Sự thống nhất đó chống lại mọi sự chiếm đoạt quyền lực Nhà nước bởi các cá nhân chuyên quyền đứng bên trên và bên ngoài dân, hoặc là loại bỏ sự vô trách nhiệm và bất lực của những người cầm quyền. Chính vì vậy, mỗI ngườI dân là một giá trị tuyệt đối của quyền lực Nhà nước chứ “không thể là công cụ của bất kỳ ai, dù là có mưu đồ tốt đẹp nhất” (6).
Thực chất quyền lực Nhà nước là quyền lực của mọi công dân liên hiệp lại tạo thành Nhà nước, chính công dân giao cho người đại diện của mình thừa hành quyền lực đó. Cơ quan Nhà nước tự nó không có quyền mà chỉ thừa hành quyền lực do công dân uỷ nhiệm. Vì vậy, công dân mới thật sự là chủ thể của quyền lực Nhà nước. Xây dựng quyền lực Nhà nước trong mối quan hệ với xã hội của các công dân là giải quyết mâu thuẫn giữa quyền lực Nhà nước tập trung với quyền lực và tự do của công dân. Xã hội phải có quyền lực Nhà nước tập trung, nhưng không phải mọi nhu cầu của người lao động Nhà nước đều lo được. Bởi vì “không gian quyền lực Nhà nước là có giới hạn, còn đối với cá nhân tự do thì không gian là vô tận” (7). Do đó xây dựng quyền lực Nhà nước là phải tạo ra một hệ thống chính trị để làm cho hai mặt trên trở thành điều kiện và nguyên nhấn của nhau. Trong hai mặt đó, mặt công dân là nền tảng, là ngọn nguồn, là mục đích của mọi quyền lực Nhà nước. Chính vì vậy, Nhà nước pháp quyền XHCN là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
2.2.5.Nhà nước pháp quy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_nop_tthcm_detai3_326.doc