Tiểu luận Văn hoá lễ hội dân tộc Hmông

Người Hmông ở các tỉnh phía Bắc là một trong các tộc người thiểu số có dân số đông đủ cư trú tập trung ở các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Lai Châu, Yên Bái, Tuyên Quang, Thanh Hoá, Nghệ An, địa bàn cư trú của người Hmông chủ yếu ở vùng cao. Thường là những sườn núi có độ cao trung bình từ 800m - 1700m so với mực nước biển, địa hình hiêm trở, vách đá dựng đứng. Và do đó, kinh tế trồng trọt trên nương rẫy là hoạt động kinh tế chính của họ.

doc9 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2916 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Văn hoá lễ hội dân tộc Hmông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA LỊCH SỦ --------------- Tiểu luận Văn hoá lễ hội dân tộc Hmông I. Văn hoá lễ hội dân tộc Hmông Những giá trị văn hoá của con người là thước đo trình độ phát triển và thể hiện những đặc tính riêng của mỗi dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống loài người mới phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ sáng tạo và phát minh đó chính là văn hoá. Chính vì vậy nghiên cứu văn hoá, nghiên cứu đời sống đối với mỗi dân tộc là nghiên cứu toàn bộ những sáng toạ và phát minh đó của các dân tộc trong lịch sư, xã hội. Qua đó tìm ra được những đặc sắc tinh tuý trong hệ thống giá trị truyền thống văn hoá của dân tộc để tôn vinh, phát huy lên tầm cao mới để không ngừng phục vụ tốt hơn cho cuộc sống các thế hệ hôm nay và mai sau”. Văn hoá là bộ phận quan trọng để xác nhận tôi, anh hay chị là dân tộc gì? Hay nói cách khác mỗi dân tộc người có gia tài riêng của mình ấy là văn hoá. Việt Nam có 54 dân tộc- 54 bông hoa rực rỡ sắc màu trong rừng hoa văn hoá đạm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Sự đa dạng về điều kiện tự nhiên, đời sống cũng như nguồn gốc xuất xứ của từng dân tộc dẫn đến sự đa sắc về văn hoá của các dân tộc. Người Hmông có các tên gọi khác nhau: Hmông Đỏ (Hmông trắng) Hmông lềnh (Hmông hoa), Hmông Sí (Hmông đỏ), Hmông súa (Hmông mán). Cơ cấu kinh tế truyền thống của người Hmông gồm 3 bộ phận chính: Trồng trọt, chăn nuôi và hái lượm, tiểu thủ công nghiệp và trao đổi. Cơ cấu kinh tế này tạo ra thế chân kiềng trong phát triển. Người Hmông xác lập được thế cân bằng duy trì được sự bền vững tương đối ở môi trường thiên nhiên có nhiều bất lợi cho sản xuất lương thực. Trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt người Hmông cũng xây dựng được các thiết chế xã hội linh hoạt, góp phần bảo tồn dân tộc. Sự cố kết trong dòng họ là đặc điểm nổi bật của người Hmông, dòng họ có hai cấp độ khác nhau: Cấp độ rộng và cấp độ hẹp. Ở cấp độ rộng dòng họ bao gồm nhiều gia đình nhưng không nhất thiết phải cư trú gần nhau. Tuy ở xa nhưng mỗi khi các thành viên đến thăm nhau đều được coi là anh em cùng một ông tổ sinh ra, thành viên trong dòng họ dẫu có ở xa đến mấy cũng tuyệt đối không có quan hệ hôn nhân với nhau. Làng người Hmông là một thiết chế xã hội cơ sở bao gồm một số nóc nhà, tiếng Hmông gọi là “Giao” mỗ “giao” đều là một bộ máy tổ chức, cơ chế vận hành riêng. Các “giao” đóng vai trò hết sức quan trọng về kinh tế- xã hội và đời sống văn hoá của người Hmông. Cấu trúc làng Hmông gồm 3 thành tố: Gia đình, dòng họ và tộc người. Thành tố dòng họ đóng vai trò quan trọng vừa tăng cường sự cố kết cấu trúc của làng nhưng lại vừa hướng ngoại cố kết với các thành viên ở làng khác, xã khác. Các dòng họ là những sợi dây liên hệ vượt khỏi phạm vi của làng để liên kết thắt chặt quan hệ dòng tộc tạo thành sự cố kết dân tộc rất bền chặt để bảo tồn dân tộc. Sự cố kết này chính là bản lĩnh, bản sắc các người Hmông. Mỗi làng Hmông đều là một cộng đồng văn hoá có tín ngưỡng thờ cúng chung một vị thần của làng, có các nghi lễ sinh hoạt văn hoá chung. Người Hmông ở các tỉnh phía Bắc là một trong các tộc người thiểu số có dân số đông đủ cư trú tập trung ở các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Lai Châu, Yên Bái, Tuyên Quang, Thanh Hoá, Nghệ An, địa bàn cư trú của người Hmông chủ yếu ở vùng cao. Thường là những sườn núi có độ cao trung bình từ 800m - 1700m so với mực nước biển, địa hình hiêm trở, vách đá dựng đứng. Và do đó, kinh tế trồng trọt trên nương rẫy là hoạt động kinh tế chính của họ. Trong điều kiện môi trường cảnh quan đó, người Hmông đã cần cù lao động sáng tạo, thích ứng với các điều kiện tự nhiên tạo dựng cuộc sống với không ít những khó khăn quyết liệt trên cao nguyên. Địa bàn cư trú chủ yếu là vùng cao núi đá, giao thông đi lại khó khăn, khí hậu khắc nghiệt. Ở đây trong năm có một mùa mưa và một mùa khô rõ rệt, mà trong mùa khô lượng mưa rất thấp hoặc không mưa dẫn đến thiêu nước trầm trọng. Đúng như người Hmông nhận xét, đây là nơi con người: “sống trong đá, chết vùi trong đá”. Điều này mang những đặc trưng chung cho toàn bộ người dân tộc Hmông của các tỉnh vùng núi phía Bắc Việt Nam. Mặc dù cuộc sống rất khó khăn khó nhọc, nhưng từ xa xưa các dân tộc Hmông họ có những tập tục văn hoá, lễ hội, cưới vợ … rất đa dạng, phong phú để vui chơi giải trí trong những ngày hội của dân tộc. Qua tìm hiểu người Hmông là lễ hội đa số họ đến lễ hội theo truyền thống của các tầng lớp trước truyền lại, họ thích vui chơi, thích văn nghệ và các trò chơi truyền thống của họ như hát bè, hát đúm, ném còn, chơi thả quay, chơi ấp trứng v.v… Các trò hát bè hát đúm, ném còn xin được trình bày ở phần sau. Ngày hội của người Hmông là ngày hội văn hoá các dân tộc Hmông của các tỉnh phía Bắc từ Lạng Sơn, Lào Cai, Sa Pa, Yên Bái, Phú Thọ… Cách ăn mặc của người Hmông cũng rất đa dạng và phong phú: Người Hmông đen nam giới mặc áo dệt vải thổ cẩm dài tay nhiều mầu sắc nhưng mầu đen nhiều hơn, cổ tròn không có ve áo khuy cài tết vải theo hình hạt na, mặc quần dài đen thường bó chặt ở mắt cá chân, rộng thu hình ở phía trên, người nữ giới mặc áo cũng na ná như người nam giới, nhưng màu sắc của áo có nhiều nét sáng hơn. Họ mặc váy xanh nhiều lớp (có thể 3 lớp, có thể 5 lớp) rất dầy, đầu quấn bện tóc giả như một cái rế của người kinh thường dùng. Người Hmông trắng (Hmông hoa). Cách ăn mặc có nét khác đó là cách ăn mặc của người phụ nữ họ không mặc váy nhiều lớp mà họ mặc quần dài. Người Hmông đỏ mặc áo cổ lọ, không có ve áo, áo nhiều màu sắc nhưng lấp lánh mầu đỏ nhiều hơn người đàn ông, đeo nhiều đồng bạc xoè lủng lẳng lấp lánh khắp người. “Nếu cứ nhìn đồng bạc đeo thì thể hiện sự giàu có”.Người phụ nữ cổ đeo nhiều vòng bạc “từ 5vòng, 7 vòng, 9 vòng” mặc váy nhiều lớp nhiều màu sắc xanh, đỏ, đen, vàng… Khắp thắt lưng đeo nhiều đồng bạc xoè, đầu họ chít khăn mỏ quạ nhiều màu sắc sặc sỡ, không như người phụ nữ Hmông đen và trắng đầu họ tết tóc giả quấn to và rất dầy. Lễ hội người Hmông chính hội vào ngày 1/9 hàng năm, sau lễ hội được khai mạc vào ngày 30/8, sáng ngày 1/9 vào lúc 2h chiều, người ta tổ chức một món ăn dân tộc truyền thống, món ăn có tên gọi rất lạ “món thắng cố” thịt ngựa. Món ăn này là cũng đặc biệt và tổ chức ăn cũng rất đặc biệt. Sau khi giết ngựa làm lông sạch cho thui vàng, pha thịt ra, lọc xương ra, xương được chặt nhỏ, thịt thái vuông quân cờ, lòng, gan ruột, phổi cũng được thái nhỏ, trộn đều đổ tất cả vào 2 chảo lớn, cho gia vị và các chế phẩm, đun khoảng 7h từ 8 h sáng đến 14h chiều mới được múc ra bát hoặc đổ ra lá chuối cùng bạn bè đi lễ hội uống rượu trông thật ngon lành. Sau khi ăn uống no say họ hoà vào vòng các trò chơi của lễ hội như trò chơi ấp trứng và cướp trứng. Người trưởng trò vẽ một cái vòng lớn khoảng 1,2m để vào đó một ổ trứng, bố trí một người thanh niên vạm vỡ giả người ấp trứng, đóng vai trò như một chị gà mái khó tính không muốn cho ai động vào ổ trứng của mình. Người ấp trứng chống hai tay rạng hai chân như đang ấp trứng, phía bên ngoài cò 5 người sau tiếng hô của người trưởng trò lao vào cướp trứng, người cướp trứng được tính điểm nếu cứơp được trứng mà không bị chạm vào người ấp trứng. Còn nếu trong khi lao vào cướp trứng mà bị chạm vào người ấp trứng sẽ bị loại, cứ như vậy cả năm người cướp trứng đều bị chạm vào người ấp trứng thì người ấp trứng thắng tuyệt đối. Nếu 3 trong 5 người cướp được trứng mà không bị chạm vào người ấp trứng thì số phần thưởng được chia làm bốn. Cũng trong khoảng sâu rộng cách nơi tổ chức trò chơi ấp trứng không xa là trò chơi thả quay, người trưởng trò cũng vẽ nhiều cái vòng tròn môi vòng tròn có đường kính khoảng 1m à 1,2m vòng tròn nọ cách vòng tròng kia 3m, vòng thứ nhất cách vị trí người đánh quay 3m, vòng thứ 2 cách vị trí người ném quay 6m, vòng thứ ba cách 9m, vòng thứ 4 cách 12m v.v… Người chủ trò tuyên bố thể lệ thắng thua như sau: Người đánh quay sau khi phát hiện hai người thả 2 con quay đang quay tít trong vòng tròn thứ nhất thì lập tức vung lén quay của mình cũng quay tít nhưng phải chạm vào 1 trong 2 con quay vừa thả mà quay mình vẫn quay tít thì người chơi mới được thắng cuộc. Mức thưởng sẽ được tăng lên nếu người đánh quay thắng ở tất cả các khoảng cách, còn nếu thắng ở khoảng cách nào tuỳ theo xa hoặc gần thì vẫn được thưởng nhưng mức thưởng ở dạng khuyến khích. Trò chơi này thu hút rất nhiều người tham gia. Tập tục hát bè hát đối, ném còn cũng diễn ra rất tự nhiên và mầu sắc cũng rất tự nhiên đa dạng, phong phú mang đậm bản sắc văn hoá vùng cao.Tập tục ném còn cũng rất hấp dẫn, cứ vào những ngày hội mùa xuân là dân làng và thanh niên nam nữ tập trung ném còn, tạo nên không khí rất vui tươi trong những ngày hội của dân tộc Hmông… Qua các trò trên các đội trai gái có thời gian ngắn nhìn nhau, họ ngầm trao cho nhau ánh mắt, nụ cười, trao cho nhau lời ca tiếng hát câu ví hò tỏ tình với nhau. Họ hỏi nhau về gia đình, bạn bè, người thân về công việc làm nương, làm rẫy có nhiều không có rộng không, có nhiều trâu, bò, ngựa, lợn, gà không v.v… Cũng qua lời hát câu ví, tung còn trao duyên người đàn ông, người Hmông tỏ tình với người con gái mình yêu, nếu được người con gái ngầm đồng ý thì hai người tình tứ tách dần ra khỏi nhóm, lúc này người đàn ông tỏ ra mạnh dạn hơn hình thức tỏ tình theo chiều hướng gần gũi mang tính lãng mạn tình tứ yêu thương, người đàn ông chủ động tiến đến cầm tay, bá vai thủ thì bên tai người con gái nội dung thật giản dị mộc mạc; “Tao đã quen mày từ mấy vụ rẫy trước rồi, mày có đôi mắt đẹp lắm, đôi môi mỏng hồng như trái mận, khuôn mặt mày tươi như trái đào non. Lấy tao đi nhà tao lương ngô rộng, nhiều trâu, nhiều bò, ngựa, lợn, gà v.v… lấy tao mày làm quanh năm không lo hết việc đến hội chúng mình thoả mái đi chơi hội v.v…” Những đôi trai gái tay cầm tay, vai kề vai, họ ngầm hẹn ước với nhau để đến đêm khuya vào lúc gần sáng tục cướp vợ của người Hmông diễn ra rất sôi động. Người đàn ông có thể vác người yêu của mình để lên lưng ngựa để dắt về, có thể tập trung bạn bè quay tròn người yêu mình lại dồn về phía nơi tụ tập của họ hàng nhà mình. Người con gái sẽ được đưa về nhà trai khoảng 3 ngày 3 đêm nếu người con gái thuận tình thì nhà trai tổ chức họ hàng mang lễ vật sang nhà gái xin cưới hỏi người con gái về làm vợ. Còn người con gái không thuận thì sẽ được tha về nhà mình. Tục cướp vợ diễn ra rất phong phú: - Sau khi đôi trai gái gặp gỡ nhau qua ánh mắt, cử chi, thường chủ động là người bạn trai tiếp cận người con gái với cử chỉ rất tự nhiên như cầm tay, kéo tay, bá vai theo phản xạ người con gái giãn ra, lùi ra, người con trai tiến tới nắm chặt tay người con gái, nếu người con gái ưng bụng thì không gỡ tay vùng chạy, nếu không đồng ý thì cương quyết gỡ tay vùng chạy. Với lời nói thường cũng là người đàn ông chủ động: “Mày khoẻ không, trông mày tao ưng cái bụng lắm, tao với mày đã quen nhau từ cái tết độc lập năm ngoái, bố mẹ mày có khoẻ không, mày có nhiều anh em không, nhà mày nhiều trâu bò, lợn, gà, nương rẫy, nhà mày rộng không, một con giao quăng hay hai con dao quăng v.v… Mày ưng tao, tao sai bạn bè bắt mày về sau ba ngày nếu mày thấy gạo, ngô, sắn, thịt cá nhà tao ngon thì bố mẹ họ hàng nhà tao xin với già bản trưởng làng tổ chức xính lễ sang nhà mày xin cưới hỏi mày về, sống mày làm vợ hầu hạ bố mẹ tao chết mày làm ma nhà tao… Nếu sau ba ngày mày thấy cơm nhà tao không ngon, nương nhà tao đắng, chê thịt nhà tao ôi thì tao sẽ trả mày về”. Qua đi sâu tìm hiểu nhiều cặp vợ chồng người Hmông thì họ thường lấy nhau từ rất sớm và có con từ rất sớm, lại đẻ rất dầy như qua tìm hiểu vợ chồng chị Vàng Thị Lái, chị sinh năm 1987, chồng sinh năm 1986 anh chị có 2 con trai, một sinh 2004, đứa thứ 2 sinh năm 2005. Người thứ hai chị Mùi Thị Kia, sinh năm 1990 lấy chồng bằng tuổi sinh con gái năm 2006. II. Kết luận Một trong những giá trị nổi bật của Lễ hội các dân tộc thiểu số người Hmông là những giá trị văn hoá bản địa của nhân dân về quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên về văn hoá các dân tộc. Phản ánh các mối quan hệ con người với con người, nhưng lại thông qua các lễ hội văn hoá, qua các dịp giao lưu văn hoá văn nghệ, các món ăn truyền thống của các dân tộc để thể hiện tình đoàn kết thân ái giữa các dân tộc, Qua các phong tục tập quán, qua ngôn ngữ giao giếp giữa các dân tộc, thông qua các môi trường thiên nhiên do vậy chúng ta có cảm giác như là thiên nhiên đã được “nhân hoá”, con người và tự nhiên gắn bó hữu cơ với nhau giữa con người là một bộ phận không thể tách rơi của tự nhiên. Đây là nét độc đáo của quan niệm vũ trụ quan, của tư duy và lối sống của con người các dân tộc thiểu số. Trong điều kiện hiện nay, xã hội các dân tộc người Hmông đã và đang có nhiều biến động lớn, các thiết chế và quan niệm xã hội mới xuất hiện tuy nhiên các lễ hội của các dân tộc thiểu số với những tri thức bản địa về môi trường và các cách thức thể hiện, khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên về lễ hội các văn hoá giữa các dân tộc luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm và vẫn giữ nguyên giá trị tích cực của nó. Vấn đề ở đây là phải luôn quan tâm và phát triển mọi hình thức văn hoá lễ hội của các dân tộc nói chung và dân tộc người Hmông nói riêng để phát huy mặt tốt, mặt tích cực để không ngừng động viên, giáo dục các lứa tuổi thanh thiếu niên các dân tộc thiểu số đoàn kết, cùng nhau bài trừ các tệ nạn xã hội và học tập những nếp sống văn hoá mới, những tri thức mới và khái thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên về văn hoá bản sắc các dân tộc trên toàn quốc, mà là kết hợp hài hoà giữa ý thức và mục tiêu bảo vệ và khai thác các nguồn tài nguyên văn hoá các dân tộc, phục vụ cho sự phát triển bền vững của các dân tộc. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVHOA (6).doc