MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 1
Phần I- VAI TRÒ VÀ CÁC CHỨC NĂNG CƠ BẢN CỦA CHÍNH PHỦ ĐIỀU TRONG TIẾT VĨ MÔ NỀN KINH TẾ 2
1. Mục tiêu của kinh tế vĩ mô . 2
2. Chức năng kinh tế của Chính phủ 2
3. Các công cụ điều tiết của chính phủ 6
Phần II- CỤ THỂ HOÁ VỊ TRÍ KINH TẾ CỦA CHÍNH PHỦ Ở NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN “TỪNG BƯỚC CÔNG NGHIỆP HIỆN ĐẠI HOÁ” ĐẤT NƯỚC . 10
I- Vị trí của Chính phủ Việt Nam trong cơ chế quản lý quốc gia 10
1. Nhà nước 10
2. Khu vực tư nhân 15
3. Xã hội dân sự 17
4. Những vấn đề cần giải quyết 19
II- Vị trí kinh tế của Chính phủ trong giai đoạn “CNH-HĐH” 22
1. Vai trò của Chính phủ trong giai đoạn “CNH- HĐH” 22
2. Quá trình chuyển đổi 28
3. Chính sách và tình hình kinh tế vĩ mô 29
4. Toàn cầu hoá và hội nhập 31
5. Phát triển công nghiệp và khả năng cạnh tranh 34
6. Những vấn đề Chính phủ phải giải quyết trong giai đoạn
“CNH – HĐH” 37
Kết luận 39
40 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1449 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vị trí kinh tế của Chính phủ trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mới đây của Chính phủ về công tác cải cách hành chính có đoạn viết: “Nhiệm vụ cần được ưu tiên trong công tác cải cách hành chính là tập trung lại tất cả mọi nhiệm vụ xây dựng quy chế và phân cấp quyết định về các lĩnh vực kinh tế, xã hội cho chính quyền địa phương” (Ban TCCB Chính phủ, 1998). Cải cách hành chính đã được đưa lên hàng đầu trong chương trình cải cách của Chính phủ và tất cả các Bộ cũng như các tỉnh đã thành lập Ban Cải cách hành chính của riêng mình. Vào cuối năm 1998, Ban chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ, do Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng ban, được thiết lập để hướng dẫn và giám sát các hoạt động trong lĩnh vực này. Ban tổ chức cán bộ Chính phủ đóng vai trò Uỷ viên thường trực của Ban Chỉ đạo và được phân công là cơ quan đầu mối về cải cách hành chính của Chính phủ. Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 8 năm 1999 đã kết luận về nhu cầu cấp bách “xem xét và thay đổi chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu của các cơ quan Chính phủ, các ban ngành cấp tỉnh, xoá bỏ một cách hợp lý một số cấp trong Chính phủ”.
Công tác cải cách hành chính đã đạt được những tiến bộ đáng lưu ý. Nhiều bộ luật cũng như pháp lệnh đã được Quốc hội thông qua và triển khai thực hiện. Các văn bản pháp quy đã được rà soát lại và điều chỉnh sao cho dễ hiểu và đảm bảo tính nhất quán. Các thủ tục hành chính đã được hợp lý hoá, đơn giản hoá và phổ biến. Cơ chế “một cửa, một con dấu” đã được áp dụng ở một số tỉnh và thành phố. Chính phủ đã yêu cầu quần chúng nhân dân và giới kinh doanh đóng góp ý kiến để tiếp tục cải tiến về mặt hành chính. Toà án hành chính đã được thiết lập. Năm 1995, các Bộ đã giảm từ 27 xuống còn 22 và hiện nay có kế hoạch tiếp tục giảm nữa. Việc giảm nhẹ bộ máy hành chính cũng như được thực hiện ở cấp địa phương. Ngoài ra, một số tổng công ty đã được thiết lập để đảm nhận hầu hết nhiệm vụ quản lý những doanh nghiệp Nhà nước chủ chốt mà trước đây là trách nhiệm của các Bộ chủ quản để các Bộ này có thể tập trung thực hiện chức năng quản lý về mặt chính sách của mình. Tuy nhiên, sức mạnh độc quyền tiềm tàng và tính kém hiệu quả của các doanh nghiệp đang tạo ra những vấn đề cho chính họ. Nhà nước đã ban hành quy chế về Công chức, hiện đang tiến hành hiện đại hoá công nghệ thông tin ở các cơ quan Nhà nước cũng như đã tiến hành các hoạt động đào tạo nhằm xây dựng năng lực.
Mặc dù đã đạt được kết quả đáng kể về một số lĩnh vực trong công tác cải cách hành chính, song một trong những khó khăn chính cản trở việc thực hiện trọn vẹn công cuộc cải cách này là cho đến nay vẫn chưa có một cách nhìn toàn diện và một chiến lược cải cách hành chính tổng thể xác định rõ các bước cần tiến hành để đổi mới vài trò của Chính phủ trong nền kinh tế hướng hơn về thị trường. Hậu quả là tạo ra khoảng cách giữa công tác xây dựng chính sách và thực hiện chính sách về cải cách hành chính. Vấn đề này đã trở nên tồi tệ hơn bởi năng lực thực hiện còn yếu kém. Chính vì chưa có một chiến lược cải cách hành chính rõ ràng nên mức độ nhất trí và quyết tâm thực hiện cong cuộc cải cách này còn thấp và đã taọ điều kiện thuận lợi để cho những cơ chế không chính thức tồn tại song song với những cơ chế chính thức gây ảnh hưởng xấu tới việc thực hiện mục tiêu cải cách.
Một khó khăn nữa là trong nhiều trường hợp các cán bộ công chức còn thiếu những kiến thức, kỹ năng và thái độ cần thiết cho việc thực hiện cải cách hành chính một cách hiệu quả. Thiếu động cơ và hiệu quả trong công việc; thiếu tinh thần thái độ phục vụ cũng là những vấn đề tồn tại. Những vấn đề này cùng với việc không thực hiện nghiêm chỉnh những chính sách đổi mới một phần xuất phát từ lý do thu nhập và lợi ích thấp. Chính phủ đã coi việc trả lương theo kết quả công tác như một công cụ quản lý tốt, tuy nhiên việc đưa công cụ đó vào trong kế hoạch quản lý nguồn nhân lực sẽ là một phần trong cuộc thảo luận của Chính phủ tiếp theo Hội nghị TƯ 7 bàn về cơ cấu tiền lương và chính sách công chức.
2. Khu vực tư nhân.
Không có nước nào trên thế giới có thể phát triển thành công mà không cần đến một khu vực tư nhân khoẻ khoắn và năng động như là động lực chính tạo ra công ăn việc làm, thu nhập, tiết kiệm trong nước, đầu tư và tăng trưởng. Khu vực tư nhân, bao gồm cả nông nghiệp, chiếm khoảng 60% GDP, chủ yếu tập trung vào các khu vực tạo ra giá trị gia tăng thấp với thu nhập thấp. Kết quả là GDP chung của Việt Nam thấp với giá trị khoảng 352 đô la Mỹ trên đầu người một năm. (Thậm chí nếu dùng cách tính thu nhập bằng đồng đô la ngang bằng sức mua thì Việt Nam vẫn xếp thứ 133 trong 174 nước về thu nhập bình quân đầu người). Xuất phát từ những tiến bộ trong những năm gần đây cho thấy việc tạo điều kiện để khu vực tư nhân tham gia nhiều hơn vào quá trình phát triển mở ra một số triển vọng rất lớn cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững. Hiện đã có một khu vực tư nhân trong nước làm về chế tạo tuy còn nhỏ nhưng đang lớn dần lên. Tuy nhiên, khu vực này đang bị hạn chế vì không tiếp cận được với nguồn vốn cả trong lẫn ngoài nước, vì một môi trường pháp lý chưa phát triển và nhiều biến động, vì rủi ro cao và không ổn định của môi trường đầu tư. Những thay đổi về chính sách và thể chế kể từ khi công cuộc đổi mới được phát động vào năm 1986 và sự tăng trưởng mạnh của nền kinh tế và đi kèm với nó là thu nhập vào những năm 90 đã dần dần cải thiện phạm vi phát triển của khu vực tư nhân vào lĩnh vực xuất khẩu có giá trị gia tăng cao. Khu vực tư nhân đã chiếm 98% giá trị gia tăng trong nông nghiệp và khoảng 70% giá trị gia tăng trong ngành dịch vụ (không kể các dịch vụ quản lý hành chính, y tế và giáo dục). Mặc dù khu vực Nhà nước tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong sản xuất công nghiệp, chiếm khoảng một nửa giá trị gia tăng của ngành này, song khu vực tư nhân trong nước đã đóng vai trò quan trnjg trong một số ngành công nghiệp nhẹ hiện đang phát triển nhanh chóng. Hơn nữa, các công ty do nước ngoài đầu tư hiện chiếm tỷ trọng lớn nhất về gia trị gia tăng trong một số ngành như dầu khí và lắp ráp ô tô.
Những bước cải cách gần đây đã phản ánh quyết tâm ngày càng cao của Chính phủ trong việc phát triển khu vực tư nhân trong nước. Bộ luật Doanh nghiệp mới, được Quốc hội thông qua tháng 5 năm 1999, là một bước tiến quan trọng theo hướng tạo ra sân chơi bình đẳng cho tất cả mọi doanh nghiệp. Bộ luật này không những thay thế cho hầu hết các văn bản luật quy định riêng cho các loại hình kinh doanh khác nhau mà còn đề nghị cho phép hình thành các mối quan hệ đối tác, cho phép các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước hoạt động như công ty. Bộ luật mới gửi tới khu vực tư nhân một thông điệp quan trọng, đó là Chính phủ thực sự khuyến khích đầu tư của khu vực tư nhân. Thực hiện luật này một cách hiệu quả là điều rất quan trọng. Tuy nhiên, trước mắt các doanh nghiệp Nhà nước, trong đó có những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và như vậy làm chậm lại quá trình cải cách.
Nếu Chính phủ muốn chuyển một cách hiệu quả sang một nền kinh tế hướng về thị trường nhiều hơn, ngay cả khi các doanh nghiệp Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong một số lĩnh vực nhất định, thì khuôn khổ pháp lý cần được tiếp tục tăng cường hơn nữa để cho phép khu vực tư nhân gánh vác trách nhiệm của nó và trở thành động lực tăng trưởng của đất nước. Một khu vực tư nhân thịnh vượng có thể là lối thoát và con đường để thu nhận những công chức dư thừa vào các hoạt động kinh tế. Bằng cách đó nó hỗ trợ cho công cuộc cải cách hành chính và tinh giản bộ máy Nhà nước. Chuyển giao cho khu vực tư nhân một số chức năng hiện đang được đảm nhiệm bởi Chính phủ với chi phí cao không những tạo động lực cho khu vực tư nhân mà còn tiết kiệm và sử dụng hiệu quả hơn các nguồn kinh phí công cộng.
Thách thức chủ yế đối với Chính phủ trong việc khuyến khích khu vực tư nhân là làm sao đảm bảo đối xử công bằng giữa khu vực này với khu vực Nhà nước. Khi nguyên tắc này đã được đưa vào trong khuôn khổ pháp lý, thì vấn đề cấp bách là đối xử công bằng phải được thực hiện trên thực tế, chẳng hạn trong lĩnh vực cho vay tín dụng.
3. Xã hội dân sự.
Nâng cao quyền lực và sự tham gia của dân.
Bên cạnh việc cải tổ cơ cấu và chức năng của Chính phủ và tạo môi trường thuận lợi cho khu vực tư nhân, việc nâng cao chất lượng quản lý quốc gia còn phụ thuộc vào việc tăng cường sự tham gia của dân ở tất cả các cấp. Để thực hiện điều này, Chính phủ đã giành ưu tiên cao cho việc nâng cao tính công khai minh bạch trong các cơ chế và chức năng của mình cũng như việc tăng cường sự tham gia của những công dân bình thường vào công tác quản lý quốc gia. Nghị định 29/CP về quy chế dân chủ ở cơ sở (1998) đã giao cho chính quyền cấp xã nhiệm vụ quan trọng là đảm bảo việc thực hiện các quyền của công dân. Nghị định cũng hướng tới việc tăng cường tính minh bạch của chính quyền cấp cơ sở, yêu cầu cung cấp cho các hộ gia đình các thông tin về hoạt động của chính quyền cơ sở và tài chính. Việc thực hiện nghị định này mới ở bước đầu và vẫn còn nhiều lĩnh vực phải triển khai trong việc tăng cường sự tham gia cũng như nâng cao quyền lực của công chúng, đặc biệt đối với những người trước đây không có điều kiện tham gia đóng góp ý kiến và tiếp cận với các hệ thống quản lý quốc gia. Yếu tố mấu chốt đề xây dựng các hệ thống quản lý quốc gia có hiệu quả và bền vững là tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của xã hội dân sự cũng như sự tham gia của tất cả mọi thành viên trong xã hội, kể cả phụ nữ và đồng bào các dân tộc ít người.
Chính sách mở cửa của Việt Nam và một số kết quả đổi mới quan trọng gần đây cũng đang góp phần tạo ra môi trường thuận lợi hơn cho sự lớn mạnh của xã hội dân sự. Những kết quả đổi mới đó bao gồm:
- Việc xây dựng hệ thống pháp quyền, đặc biệt là bộ luật Dân sự.
- Xu hướng tiến tới xây dựng một Chính phủ có tính trách nhiệm, công khai minh bạch và dựa vào sự tham gia của dân ở mức độ cao hơn.
- Cải cách các doanh nghiệp Nhà nước làm cho người lao động và các nhà quản lý trở thành những người chủ của doanh nghiệp.
- Sự xuất hiện của một xã hội thông tin.
- Hội nhập kinh tế thế giới; và
- Xu hướng tăng cường dân chủ ở cơ sở.
Kết quả của những chuyển biến đó là tạo ra ngày càng nhiều các nhóm ngoài quốc doanh hay các tổ chức bán phi chính phủ (các tổ chức phi Chính phủ Việt Nam) đóng vai trò trụ cột chính của xã hội dân sự ở Việt Nam. Hầu hết các nhóm này được thiết lập sau năm 1990 và được củng cố thông qua công cuộc đổi mới. Song hầu hết do tầng lớp trí thức ở đô thị thành lập, trong khi đó chính các vùng nông thôn và vùng khó khăn là nới có xu thế tập trung nhiều hơn những nhóm đối tượng có cùng sở thích và nhu cầu. Mặc dù chưa có nhiều tổ chức phi chính phủ hoạt động ở nông thôn, song các nhóm tiết kiệm và các hợp tác xã kiểu mới, xuất hiện sau khi ban hành Luật Hợp tác xã năm 1997, điều đó có chung một số mục đích phục vụ và hoạt động trên cơ sở phân nhóm đối tượng có cùng sở thích và nhu cầu.
Sự xuất hiện của rất nhiều tổ chức phi Chính phủ ở Việt Nam là một bước chuyển biến đáng khích lệ, song những tổ chức này còn trẻ và còn bị hạn chế bởi các điều kiện lịch sử, kinh tế và xã hội cũng như bởi việc thiết một môi trường pháp lý phù hợp. Vì vậy các tổ chức này chưa phát triển được hết các tiềm năng của nó để tham gia tích cực vào công cuộc phát triển đất nước.
Sự nghiệp phát triển bền vững của Việt Nam phụ thuộc vào mối quan hệ tương hỗ mang tính cực và xây dựng giữa Chính phủ, khu vực tư nhân và xã hội dân sự. Xã hội dân sự ở Việt Nam chỉ có thể thực sự phát triển nếu chính phủ coi đó như là một đối tác quan trọng trong quá trình phát triển và tạo ra môi trường thuận lợi để xã hội dân sự phát huy vai trò của mình.
Vấn đề giới trong vai trò quản lý quốc gia.
Bình đẳng – một khái niệm cơ sở về quản lý quốc gia tốt – là coi trọng sự tham gia bình đẳng của nam và nữ trong các cơ quan quản lý cũng như các biện pháp quản lý mang tính nhạy cảm về giới. Sự bình đẳng nam nữ về mọi phương diện đã từ lâu được hiến pháp Việt Nam chính thức công nhận. Về phương diện tham gia vào cơ cấu chính trị. Việt Nam đã đạt được kết quả đáng kể trong việc thực hiện mục tiêu của Chính phủ về việc tăng số lượng cán bộ nữ ở tất cả các cấp chính quyền. Hiện nay, số đại biểu nữ trong Quốc hội đã tăng từ 18,5% (trong khoá trước) lên 26,2%, cao hơn so với một số nước phát triển. Mặc dù vị thế của phụ nữ cũng như mức độ công nhận vai trò tham gia và quyền lợi của phụ nữ trong cơ cấu quản lý quốc gia đã được nâng cao nhờ có quyết tâm chính trị mạnh mẽ và nhất quán, song vẫn tồn tại một khoảng cách khá lớn giữa nam và nữ. Tuy sự tham gia của phụ nữ trong các cơ quan của Đảng cũng như các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp đã tăng lên, song nam giới vẫn chiếm hầu hết những vị trí có mức độ ảnh hưởng lớn nhất. Trong công tác quản lý công cộng, tỷ lệ tham gia của nữ cũng rất thấp. Điều đáng lưu ý là càng xuống gần cấp cơ sở ở dưới thì sự tham gia của phụ nữ vào các cơ cấu quản lý càng giảm. Cần phải tiếp tục thay đổi các thể chế và thái độ nhằm đáp ứng những kỳ vọng nêu ra trong kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Bên cạnh việc giải quyết tình trạng bất cân đối về giới trong cơ cấu quản lý quốc gia, còn phải lưu ý các vấn đề giới liên quan tới quy trình quản lý quốc gia. Các chương trình phát triển của quốc gia cần phải mang tính nhạy cảm về giới trên cơ sở cải tiến việc thiết kế và xác định mục tiêu của chương trình, các hoạt động dự án cụ thể, cơ chế cũng như tổ chức thực hiện. Những chương trình này cũng cần phải khuyến khích sự tham gia đầy đủ của phụ nữ trong các hoạt động lập kế hoạch, thiết kế, thực hiện, giám sát và đánh giá.
4.Vấn đề cần giải quyết.
- Tiếp tục làm rõ vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, củng cố vai trò định hướng, ra chính sách và giám sát (cầm lái) của Nhà nước và chuyển một phần chức năng thực hiện (chèo thuyền) cho các khu vực khác để Nhà nước có thể tập trung đưa ra định hướng rõ ràng hơn cho quá trình cải cách.
- Khuyến khích đối thoại chính sách nhiều hơn giữa các trụ cột trong hệ thống quản lý quốc gia để các bên có thể hiểu rõ hơn nữa vai trò của mình trong một nền kinh tế hướng nhiều hơn nữa về thị trường và đảm đương tích cực trách nhiệm với sự phát triển và tăng trưởng của đất nước.
- Tăng cường năng lực của các bên để thực hiện các nghĩa vụ xã hội của mình.
a) Nhà nước.
- Xây dựng và thực hiện một chiến lược cải cách hành chính chung để tiếp tục sắp xếp lại tổ chức, tinh giản và tăng cường hiệu quả tính công khai minh bạch của bộ máy chính phủ, đặc biệt chú trọng đến việc nghiên cứu toàn diện về thể chế, tính hiệu quả về chi phí, phân cấp và chất lượng cung ứng các dịch vụ công cộng ở cả trung ương và địa phương.
- Thúc đẩy phân cấp qua việc trao quyền ra quyết định, và trao các nguồn lực cần thiết để thực hiện các quyết định đó, tới các cấp chính quyền thích hợp, đơn giản hoá thủ tục báo cáo, và tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ chính quyền địa phương.
- Tăng cường chất lượng phân tích chính sách, hoạch định chính sách và lập kế hoạch ở trung ương và địa phương.
b) Khu vực tư nhân.
- Công nhận và khẳng định một cách chính thức rõ ràng vai trò đặc biẹt quan trọng của khu vực tư nhân đối với công ăn việc làm, thu nhập, tiết kiệm trong nước và sự phát triển bền vững trong tương lai là cần thiết để xoá bỏ các rủi ro và tính không ổn định mà công tác kinh doanh đang phải đối mặt.
- Cải cách và phát triển một hệ thống ngân hàng dựa và thị trường và có tính hiệu quả nhằm bảo đảm tín dụng được phân bổ vào các doanh nghiệp bền vững, hoạt động có lãi và tạo ra được công ăn việc làm.
- Tiếp tục cải cách doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là hạn chế việc cung cấp tín dụng ngân hàng theo chỉ đạo của Nhà nước cho các doanh nghiệp này nhằm giải phòng vốn, đất đai và nguồn nhân lực có tay nghề cao cho khu vực tư nhân.
- Tăng đáng kể đầu tư vào công tác đào tạo các kỹ năng kinh doanh và các khoá đào tạo thực hành liên quan tới vấn đề này.
- Qua việc tiếp tục hỗ trợ chính sách, soạn thảo và thực thi luật, tạo một môi trường thuận lợi cho đầu tư tư nhân trong nước và nước ngoài và khuyến khích vai trò của khu vực tư nhân như là động lực tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm.
- Tăng cường năng lực của các tổ chức của khu vực tư nhân như Phòng Thương mại và Công nghiệp để tham gia một cách tích cực vào các cuộc thảo luận chính sách.
- Thúc đẩy quan hệ đối tác giữa Chính phủ và các tổ chức thuộc khu vực tư nhân.
c) Xã hội dân sự.
- Tăng cường vai trò và năng lực của các tổ chức xã hội dân sự, như các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức ngành nghề, công đoàn, các viện nghiên cứu và các trường đại học.
- Khuyến khích đối thoại và nhất trí trên cơ sở hợp tác giữa Nhà nước và xã hội dân sự, đặc biệt trong lĩnh vực xã hội hoá các dịch vụ xã hội cơ bản.
- Đầu tư vào các phương tiện thông tin và truyền thông ở cấp địa phương, ví dụ thông qua hỗ trợ các phương tiện thông tin đại chúng và các tờ báo tiếng địa phương ở cộng đồng, nhằm thúc đẩy hơn nữa sự tham gia của cộng đồng vào công tác quản lý quốc gia.
- Thể chế hoá các cơ cấu đảm bảo nam nữ ở mọi cấp (từ cấp xã lên cấp trung ương) và từ tất cả các nguồn gốc – dân tộc thiểu số, người tàn tật, và người rất nghèo - được tham gia vào thiết kế và thực hiện các hoạt động phân cấp và quản lý quốc gia.
* Tiếp tục củng cố Nhà nước pháp quyền bằng cách:
- Tăng cường năng lực của cơ quan lập pháp (Quốc hội) và tư pháp (Toà án và Viện kiểm sát).
- Cải thiện chất lượng của quá trình soạn thảo luật, đặc biệt là hình thành các mối quan hệ trực tiếp với quá trình phân tích chính sách nhờ tham khảo ý kiến bên ngoài, và cải tiến quá trình thẩm định và đánh giá.
- Giảm phạm vi hiểu luật một cách tuỳ tiện của cơ quan Nhà nước nhờ những hướng dẫn rõ ràng hơn cách áp dụng luật ở các cấp, và giám sát chặt chẽ hơn của Quốc hội.
- Cải tiến việc phổ biến pháp luật, khuyến khích sự tuân thủ pháp luật và củng cố việc thực thi pháp luật.
* Tăng cường tính công khai và trách nhiệm giải trình trước dân đối với mọi cấp chính quyền thông qua việc cải thiện các công cụ lập kế hoạch, giám sát và báo cáo (chẳng hạn như chương trình đầu tư công cộng, đánh giá chỉ tiêu công và khuôn khổ chi tiêu trung hạn), cải tiến công tác thu thập và xử lý số liệu, tăng cường công tác kiểm toán một cách có hệ thống và qua việc chia sẻ thông tin dữ liệu cho công chúng thường xuyên. Đồng thời tiếp tục đấu tranh chống tham nhũng và sai phạm trong quản lý để xây dựng lòng tin vào hệ thống quản lý quốc gia.
II. Vị trí kinh tế của Chính phủ trong giai đoạn"Công Nghiệp và hiện đạI hoá -" đất nước:
1. Vai trò Chính phủ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ra.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây, Chính phủ quyết định tất cả. Có người đã lầm tưởng rằng trong một nền kinh tế thị trường, Chính phủ không có vai trò đáng kể, mọi hoạt động sẽ chỉ do thị trường quyết định. Đúng là đã có những nền kinh tế thị trường như vậy, nhưng đó là những nền kinh tế thị trường tồn tại cách đây nhiều thế kỷ trước khi chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện. Kể từ khi chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện, thì chính các độc quyền đã tham gia điều tiết các hoạt động kinh tế. Sau chiến tranh thế giới thư hai, chính phủ tham gia điều tiết các hoạt động và mức độ tham gia ngày càng nhiều tới mức ngày nay ở nhiều nước phương Tây người ta phải chủ trương giảm bớt sự điều tiết của Chính phủ, phi nhà nước hoá. Như vậy, cho đến nay tồn tại song hành hai cơ chế, cơ chế thị trường (bàn tay vô hình), và cơ chế điều tiết của Chính phủ (bàn tay hữu hình). Gọi là hai cơ chế nếu chúng ta muốn tách để xem xét chúng một cách tương đối độc lập. Trên thực tế, chúng có quan hệ với nhau rất chặt chẽ. Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh và độc quyền là hai yếu tố chủ yếu chi phối. Cạnh tranh là một động lực phát triển của kinh tế thị trường nhưng cũng có những khuynh hướng cạnh tranh phi kinh tế , dùng những thủ đoạn bẩn thỉu để bóp chết lẫn nhau. Những khuynh hướng cạnh tranh không lành mạnh như vậy phải được ngăn chặn. Độc quyền đã có tác dụng tích cực thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung các nguồn lực để phát triển, nhưng độc quyền có mặt thối nát của nó là bóp chết các sáng kiến. Nếu để cho thị trường tự do tác động, thì các khuynh hướng tích cực và tiêu cực cùng tác động, do vậy đã gây ra các tác động không tốt cho sự phát triển của nền kinh tế. Những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng và đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra vào năm 1929 – 1933 là một ví dụ nổi bật. Sự can thiệp của Chính phủ chính là lạm hạn chế những tác động tiêu cực đó và hướng nền kinh tế phát triển có hiệu quả. Từ đó liên hệ tới vai trò của Chính phủ Việt Nam đặc biệt là trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hoá và hiện đại hoá”.
Ai cũng thấy số nước đạt được các thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế không nhiều. Đã có nhiều cách giải thích khác nhau về sự “thần kỳ kinh tế” của Nhật Bản, về các thành tựu kinh tế của NICs. Có người đã nhấn mạnh đến yêu tố về sự kết hợp giữa công nghệ phương Tây và truyền thống của Nhật Bản. Có người nhấn mạnh đến tinh thần lao động cần cù, miệt mài, sáng tạo của người Nhật Bản. Cũng có người đã nhấn mạnh tới tài ba của những nhà quản lý Nhật Bản. Nhưng trong đó, nguyên nhân của những thành công về kinh tế của các quốc gia trước hết phải nói tới vai trò của Chính phủ với tư cách là người lãnh đạo quản lý nền kinh tế quốc dân. Nếu Chính phủ không mạnh, nghĩa là không có khả năng vạch ra được các chiến lược phát triển, các chính sách kinh tế, luật pháp đúng đắn, không có khả năng thực hiện và kiểm soát một cách có hiệu quả các chiến lược, chính sách và luật pháp đó, thì nền kinh tế không thể nào phát triển có hiệu quả và thu được những thành tựu nổi bật được.
Một nhà kinh tế học nổi tiếng đã nhận xét: “Chính phủ tồi đã làm tàn lụi cả một châu lục”. Một ví dụ thực tế: Sự suy giảm của nền kinh tế Ghana ở Châu Phi da đen trong hai thập kỷ 60 và 70. Năm 1957 Ghana được xem là nước giàu nhất Châu Phi da đen với bình quân đầu người 490 đô la Mỹ, nhưng đến đầu những năm 80 thu nhập quốc dân đầu người đã giảm xuống còn 400 đô la Mỹ, hầu hết các chỉ tiêu quan trọng khác đều giảm. Các quốc gia Châu Phi da đen khác cũng ở trong tình trạng tương tự. Cả một châu lục tàn lụi. Lý do chính là sự lãnh đạo yếu kém của các chính phủ ở các quốc gia này. Những yếu kém này đã thể hiện ở chỗ xác định chiến lược, chính sách, pháp luật không đúng; họ càng thực thi các chính sách sai lầm đó tích cực và nghiêm túc thì tại hoạ suy thoái càng lớn. Do vậy đã có câu “nền kinh tế chỉ tăng trưởng vào ban đêm khi chính phủ ngủ say”.
Các quốc gia như Nhật Bản và NIEs, sự thành công của họ gắn chặt với vai trò to lớn của Chính phủ. Nhật Bản đã tạo dựng được một Nhà nước mạnh, Nhà nước đã kết hợp được kỹ thuật phương Tây và truyền thống Nhật Bản, khuyến khích và phát triển được tài năng quản lý của các xí nghiệp, động viên được nhân dân Nhật Bản làm việc hết mình. Đó chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Vai trò quan trọng nhất của Chính phủ là vai trò định hướng nền kinh tế thông qua việc hoạch định các chiến lược, chính sách, lụat pháp v.v...
Thực tế ở Việt Nam cho thấy trong nhiều năm trước Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam, Chính phủ đã định hướng nền kinh tế không đúng, dường như chỉ phát triển hướng nội xem nhẹ các ngành hướng vào xuất khẩu; ưu tiên phát triển công nghiệp nặng kém hiệu quả, không chú trọng tới các ngành có khả năng tăng trưởng nhanh, hiệu quả lớn; chỉ chú trọng phát triển mở rộng khu vực kinh tế Nhà nước, tập thể, xoá bỏ kinh tế tư nhân, cá thể; ptkt kế hoạch, xoá bỏ kinh tế thị trường v.v... Với một hướng đi lệch lạc như vậy, kinh tế Việt Nam đã hoạt động kém hiệu quả và rời vào tình trạng lạm phát phi mã và khủng hoàng sâu sắc. Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam mới bước đầu nắn lại hướng đi của nền kinh tế: chuyển hướng thực hiện 3 chương trình kinh tế: sản xuất lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; chuyển mạnh sang kinh tế thị trường trên cơ sở đa dạng hoá hình thức sở hữu, xoá bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp, v.v... nền kinh tế mới bước đầu chuyển sang một hướng đúng, ta đã thấy xuất hiện các yếu tố năng động tích cực và thấy rõ hướng đi lên thoát khỏi khủng hoảng của nền kinh tế.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, vai trò của Chính phủ đặc biệt quan trọng. Chính phủ không đơn thuần là người trọng tài, người định hướng, định luật chơi mà mức độ can thiệp, mức độ tác động trực tiếp của Chính phủ là mạnh và rộng hơn. Trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hoá và hiện đại hoá” này, điều kiện quan trọng cho những thành công kinh tế của Việt Nam là Việt Nam phải có một Chính phủ mạnh về trí tuệ có khả năng định hướng đúng đắn sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Vấn đề đặt ra là trong khi nhấn mạnh vai trò tất yếu và hết sức quan trọng của Chính phủ trong quản lý kinh tế, chúng ta không chỉ khẳng định sự can thiệp của chiến lược đối với các quá trình kinh tế, mà phải xác định rõ Chính phủ thực hiện vai trò quản lý của mình như thế nào, bằng cách thức nào để nhận thức rõ ranh giới quyền lực của mình, không xâm phạm quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, tức là đảm bảo quyền tự chủ của doanh nghiệp.
Điều đó liên quan đến việc xác định n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35024.doc